← Quay lại trang sách

Chương 27 Chúng tôi đã về nhà

Lái xe theo đường liên bang 90 đến một đoạn nào đó gần Spokane, con đường bỗng mở rộng ngút tầm mắt về phía trước, đằng sau và bên cạnh tôi. Những ngọn cỏ đã ngả nâu và héo rũ vì nắng vẫn la đà trong gió, cố sức sinh tồn. Những người nông dân lái những chiếc xe tưới nước lớn dọc ngang đồng cỏ nuôi gia súc. Trên con đường cao tốc hai làn, một cô gái đi chiếc Subaru màu xanh lục vượt qua tôi phía bên trái. Tôi có thể thấy cô chở nào những hộc đồ, thúng đồ giặt, túi rác ở ghế sau và thùng xe. Ngược lại, tôi chỉ có hai túi vải dù cũ kĩ chứa mấy chiếc áo ba lỗ mới cùng vài cái quần soóc.

Cả cô gái lái chiếc Subaru và tôi đều có cả một chặng đường đời phía trước. Có lẽ cô đang tới Missoula học đại học như tôi, nếu tôi không xé những lá đơn xin học từ rất lâu về trước, nhưng có lẽ điểm tương đồng giữa hai con người cũng chỉ có vậy. Tôi hình dung mình của năm năm trước cũng giống cô gái ấy, nghêu ngao hát theo những bài vang trên sóng radio. Tôi nghĩ cô nên là tôi của thời xưa ấy.

Tôi xua ý nghĩ đó đi và nhấn chân ga đuổi theo cô, theo bóng ma của mình. Lái xe đến Missoula không đơn giản là tôi đang theo đuổi những giấc mơ của đời mình, mà còn là tìm một nơi cho chúng tôi gọi là nhà.

Khi tôi đến nơi giữa đêm tối, khu phố trung tâm của Missoula dường như vẫn lung linh với những tàn dư của một ngày hè oi ả. Khi tôi ra khỏi xe xuống đứng trên vệ đường và nhìn khắp con phố, hai cô gái tầm đôi mươi đi ngang qua tôi, gật đầu và mỉm cười. Một cô còn hát. Người kia chơi đàn ukulele. Cả hai mặc đầm xòe và đi xăng đan. Họ khiến tôi nhớ tới những cô gái tôi từng gặp trong những bữa tiệc tại Fairbanks. Kiểu phụ nữ không biết gì về trang điểm điệu đà nhưng lại thừa sức nhóm lửa và không sợ bẩn tay trong vườn. Tôi nhớ những con người đó. Những con người của tôi.

Vào buổi bình minh đầu tiên tại Missoula, tôi tha thẩn đi dạo, ánh nắng sớm mai đã khiến da tôi râm ran ngứa, cỏ khô mời gọi tôi ngồi xuống, không hề giống cái ẩm ướt của Washington. Ở gần trường đại học, tôi đọc sách dưới bóng một cây thích lớn. Ngả lưng xuống, tôi nhìn lên vầng thái dương qua đám lá rì rào. Tôi cứ nằm thế gần như cả ngày, nhìn những ngọn đồi núi xung quanh và nhận ra dòng sông chảy dưới một cây cầu đi bộ. Chiều tối hôm ấy, tôi phát hiện ra một công viên giữa lòng thành phố. Những xe bán thức ăn xếp dọc rìa một quảng trường xanh rì bóng cây. Người người đi lại trên bãi cỏ hoặc ngồi ở ghế đá công viên. Một ban nhạc đang chơi trên sân khấu. Tôi không nhớ nổi lần cuối tôi thấy hạnh phúc như thế, lần cuối tôi thả lỏng và để âm nhạc tràn vào lồng ngực là bao giờ nữa. Tôi dạo chơi trong công viên, mang một nụ cười ngây ngô trên gương mặt, để rồi sau đó nhận ra kì lạ là, những người khác cũng đang cười.

Sau nhiều năm sống thiếu vắng sự thân thiện, sau chuyện gia đình đổ vỡ, mất bạn bè, nhà cửa bất ổn và đám rêu mốc đen, cảm giác vô hình khi là người giúp việc, tôi thèm khát sự tử tế. Tôi thèm được người ta nhận ra mình, bắt chuyện với mình, chấp nhận mình. Tôi thèm khát theo cái cách chưa từng có trong đời. Missoula đã bóc trần tất cả những nỗi niềm ấy. Đột nhiên tôi muốn hòa mình giữa một cộng đồng. Tôi cần bạn bè. Cần điều đó là bình thường khi mà đi lại quanh đây, tôi như được ôm ấp bởi những khả năng đó. Hầu hết người dân đều mỉm cười với tôi dưới vành mũ có in hình dáng bang Montana hoặc mã vùng 406. Một buổi sáng ở một quán ăn nhỏ, các bàn đều kín chỗ, tôi đếm có 16 đôi xăng đan Chaco, kể cả của tôi. Tôi thấy phụ nữ để lông tay, và hầu hết đều xăm mình. Đàn ông địu con sau lưng hoặc ẵm trước ngực. Tôi vô tình gặp một người bạn cũ ở Fairbanks. Tôi chưa từng cảm thấy thân quen với một nơi nào nhanh như thế. Tôi mới chỉ ở đây một ngày.

Tình cờ là tôi đã chọn một trong những ngày cuối tuần đẹp nhất của mùa hè để tới thăm Missoula. Lễ hội River City Roots đã khiến thành phố thay da đổi thịt. Phố Main đóng cửa. Các gian hàng bán áo phông nhuộm, đồ gốm, đồ mĩ nghệ và tượng gấu bằng gỗ được chạm khắc bằng cưa xích. Một nhóm nhỏ đang ngồi trên ghế gấp bên cạnh một sân khấu để được nghe nhạc gần như cả ngày. Những chiếc xe tải bán đồ ăn nằm bên vệ đường và một quầy bán bia ở giữa tất cả. Missoula thích những bữa tiệc tuyệt vời.

Tôi dành từng ngày đi thăm thú thành phố. Tôi leo lên những dãy núi. Tôi vượt qua những đường mòn, lắng nghe tiếng hoẵng kêu trong bụi rậm. Tôi đi dọc triền sông và khiến những ngón chân rướm máu vì những khối đá lởm chởm. Trong vài phút trên sườn một ngọn núi sâu trong một thung lũng bên ngoài thành phố, trong cảnh mồ hôi đầm đìa và khát khô cổ, tôi không thể tìm ra con đường mòn tôi vừa đi ban nãy. Tôi đói, khát, nhưng vẫn phấn khích vì mình bị lạc, dù chỉ một lúc giữa vùng hoang dã của Montana.

Tôi đã yêu Montana mất rồi. Như Steinbeck. Như Duncan.

“Tôi sẽ chuyển tới Missoula”, tôi nhắn tin cho Jamie. “Tôi phải chuyển. Nơi này thật tuyệt vời.” Tôi đợi anh ta trả lời mà tim đập dồn dập, nhưng anh ta không hề hồi đáp. Tôi tự hỏi anh ta định làm gì để thao túng Mia không muốn đi. Tôi tự hỏi anh ta có dọa đưa tôi ra tòa, hoặc có lẽ cố cướp con bé khỏi tôi không. Chính những nỗi lo lắng ấy khiến tôi không dám đặt chân đến nơi này. Nhưng tôi biết, tôi không còn phải xin phép anh ta gì hết. Nghe có vẻ buồn cười, nhưng tôi có cảm giác tình yêu tôi dành cho Missoula và nỗi mong mỏi một cuộc sống tốt đẹp hơn cho Mia sẽ đưa chúng tôi vượt qua tất cả. Nó sẽ đưa chúng tôi tới được nơi này.

Jamie bảo Mia gọi cho tôi vào hôm sau. Lúc đó khoảng 9 hoặc 10 giờ sáng, và điện thoại đổ chuông khi tôi đang ngồi trên một ngọn đồi xanh rì bên cạnh dòng Clark Fork. Đằng sau tôi, một ngọn đèn kéo quân đang chầm chậm quay bên cạnh một khu vui chơi bằng gỗ đông trẻ nhỏ. Tôi đang đọc sách, và ghi lại những dòng suy tưởng vào một cuốn sổ tay.

“Con chào mẹ”, Mia nói. Tôi có thể nghe thấy tiếng Jamie ở đằng sau, rồi giọng bà nội con bé. Họ đang giục con nói. Cuối cùng, con bé buột miệng, “Con không muốn chuyển đến Montana đâu.”

“Ôi, con yêu”, tôi nói, cố gắng sao cho giọng mình nghe như một cái ôm. Tôi tưởng tượng ra cảnh Mia đang đứng trong phòng khách của nhà bà nội và Jamie áp điện thoại vào tai con bé, lông mày anh ta nhướng lên, đợi con nhắc lại những lời đã tập dượt trước. “Mia, mẹ rất xin lỗi đã khiến con phải trải qua những chuyện như thế này”, tôi nói và sau đó Jamie giật điện thoại khỏi tay con.

Anh ta rít giọng hằm hè. “Tôi sẽ nói với con rằng cô đưa con đi xa để con không bao giờ được gặp tôi nữa. Tôi hi vọng cô biết điều đó. Rằng cô ích kỉ không thèm quan tâm xem con có bao giờ gặp lại tôi nữa hay không. Con bé sẽ hiểu. Con sẽ căm thù cô.”

Tôi cố tưởng tượng ra đôi mắt to đen của Mia nhìn Jamie nói chuyện. Tôi biết anh ta trông như thế nào khi giận lên, và nước bọt sẽ đọng trên môi, ngay trước cái răng vênh.

“Tôi muốn nói chuyện với Mia”, tôi ngắt lời anh ta.

Khi Mia nghe điện lại, giọng con có vẻ vui. “Mẹ đã mua đôi bốt cao bồi màu hồng cho con chưa?” Con bé hỏi, lại lảnh lót như thường lệ.

Tôi mỉm cười. “Rồi”, tôi nói. “Đúng như mẹ đã hứa.” Tôi kể cho con nghe về cửa hàng có một dãy toàn là bốt màu hồng, và tôi đã tìm được một đôi cho con, cùng với một con ngựa bông. “Cả một hộp đựng đồ ăn trưa bằng kim loại có in hình cao bồi nữa nhé!”

Khi chúng tôi nói chuyện sau đó một hoặc hai ngày, con bé có vẻ lơ mơ. Con không biết bố ở đâu, dù tôi gọi vào điện thoại của anh ta. Tôi nghe thấy những tiếng đàn ông lớn tuổi hơn cười cợt phía sau, nhưng Mia nói không biết họ là ai. Tôi hối hận vì đã không đưa con đi cùng, nhưng nếu đưa con đi, tôi không chắc chúng tôi sẽ còn quay lại. Tôi hình dung ra chúng tôi sẽ tìm thấy một chốn ở lâu dài và điền những giấy tờ tạm trú tạm vắng ở tòa án địa phương. Tôi tưởng tượng chúng tôi dành những ngày hè cuối cùng để ngủ trên bãi cỏ, khám phá những ngọn núi và dòng sông.

Nhưng tôi đang có vài ngày nghỉ ít ỏi đầu tiên trong vòng năm năm, và tôi cố gắng tận hưởng. Thứ Bảy đó, tôi đi khắp khu chợ nông sản địa phương. Có nhiều đứa bé trạc tuổi Mia, nhiều bạn mặc những váy xòe xộc xệch và mái tóc rối bù. Tôi đáng ra có thể mặc áo ba lỗ khoe toàn bộ hình xăm dắt theo cô con gái đi đôi giày nhựa cao gót màu hồng, mặc chiếc váy hình những nàng tiên đi lại trong chợ. Chúng tôi có thể hòa vào cộng đồng này. Không ai liếc nhìn chúng tôi như ở Washington. Mia sẽ chơi cùng đám trẻ leo lên bức tượng cá. Đây có thể là nhà của chúng tôi. Những con người này có thể là gia đình của chúng tôi. Tôi đoan chắc.

Trên đường trở về Washington, tôi ngả người ngồi im lặng trong xe và lắng nghe những âm thanh của phố phường. Cứ mỗi dặm tiến về gần Washington hơn, tôi lại thấy tim mình nhói đau như thể tôi đang đi sai hướng. Trong 500 dặm ấy, chuyến hành trình của năm năm qua như một thước phim chiếu chậm trong đầu tôi. Tôi thấy Mia chập chững bước về phía tôi trong căn nhà tạm dành cho người vô gia cư. Tôi cảm thấy những căng thẳng và tuyệt vọng để cho con một mái ấm. Tất cả những chuyến đi của mẹ con tôi. Vụ tai nạn. Những đêm lạnh trên chiếc sofa giường trong căn hộ studio. Có lẽ Nhà giả kim đã đúng. Có lẽ nếu tôi chịu bước bước đầu tiên về phía giấc mơ của mình, vũ trụ sẽ mở lối dẫn đường. Có lẽ để tìm một mái ấm đích thực, tôi cần mở lòng mình để yêu lấy một mái ấm. Tôi phải dừng tin rằng mái ấm là một căn nhà xa hoa trên đồi. Mái ấm là nơi ôm ấp chúng tôi, một cộng đồng, một niềm tin.

Nhiều tháng sau, chỉ vài ngày sau Noel, với Mia ngồi ở ghế sau, tôi lái xe qua những ngọn đồi trùng điệp và một lần nữa hướng về Missoula. “Con có thấy những ánh sáng kia không?” Tôi hỏi và vặn nhỏ radio, chỉ về những ngôi sao lấp lánh trên thung lũng. Tôi liếc nhìn gương chiếu hậu, thấy Mia lắc đầu.

“Chúng ta đang ở đâu thế?” Con tôi vừa hỏi vừa nhìn những ngọn đồi trắng tuyết xa xa bên ngoài cửa xe.

Tôi hít một hơi sâu. “Chúng ta đang ở nhà”, tôi nói.

Sau nhiều năm liên tục di chuyển, Mia và tôi đang dần ổn định. Bố Mia lặn mất tăm trong vài tháng đầu tiên mẹ con tôi sống ở Missoula. Anh ta không nghe điện thoại, không xuất hiện trong những lần gọi video để mệt mỏi cãi vã về lịch chăm con mới, và tôi không biết phải giải thích lí do thế nào.

Mia bắt đầu chạy trốn tôi: ở nhà, tại siêu thị, trên vỉa hè và trong phố. Tôi bế Mia vừa quẫy đạp vừa gào thét, cúi xuống nhặt đôi bốt hồng khi chúng tuột ra vì con ăn vạ. Tôi biết đó là phản ứng bình thường đối với sự thay đổi, rời xa bố, khi con tôi bị nhổ rễ và trồng xuống một nơi mới đã giữ chúng tôi trong nhà kể từ ngày chúng tôi đến, chỉ vì tiết trời mùa đông. Hành vi của con kinh khủng hơn so với khi xưa, và tôi không biết phải xử lí thế nào. Tôi bắt đầu có cảm giác đưa con đi đâu cũng là quá nguy hiểm, quá rình rang và quá kiệt sức. Một buổi sáng nọ, tôi phải làm hai việc vặt: tới bưu điện rồi đến cửa hàng để mua băng vệ sinh. Suốt hai giờ liền, Mia không chịu hợp tác, nhất định không mặc đồ hay đi giày, liên tục đấm đá và gào thét chống cự đến mức tôi cảm giác như đang giữ con dưới nước. Trong lúc ăn vạ, Mia đã đánh tôi một cú rất mạnh và trực diện, khiến tôi nằm bò ra mà thở dốc, còn Mia thì hớn hở về phòng chơi đồ chơi, hài lòng vì chiến thắng thêm một trận đấu nữa.

Mọi chuyện, như chúng thường vậy, có cách để bình ổn. Tôi tìm được công việc dọn dẹp cho một tòa nhà văn phòng lớn, cộng thêm nhà của hai khách hàng khác. Một cuối tuần nọ, tôi cầm một cuốn tạp chí Mamalode trong phòng đợi của văn phòng và đã gửi một bài ngắn. Họ cho đăng nó, và tôi không thể nào rời mắt khỏi tên mình.

Cũng chính trong cuốn tạp chí đó có quảng cáo một trường mẫu giáo nằm tại một trung tâm tập thể dục địa phương. Sau khi gặp những người chủ cơ sở đó, họ đồng ý cho tôi dọn dẹp để đổi lấy tiền đóng học cho Mia. Một nhân viên của họ chuyển đến ở cùng chúng tôi và trả một phần nhỏ tiền thuê và thỏa thuận rằng sẽ ở nhà trông chừng Mia khi tôi đi làm từ trước bình minh, khi con gái còn chưa tỉnh dậy.

Vào một ngày cuối mùa xuân ở Missoula sau khi chúng tôi chuyển đến, Mia tuyên bố, “Mẹ, chúng ta đi leo núi đi”, sau khi nhìn ra bầu trời xanh qua cửa sổ. Tôi ngồi bên bàn bếp của căn hộ ở trung tâm thành phố, đợi con ăn xong bữa sáng. Mắt tôi trĩu xuống vì kiệt sức. Tôi thèm những ngày cuối tuần được ngủ bù và có thêm thời gian nhấm nháp cà phê trước khi xem lại sách vở.

Chính vì thế nên tôi ngại đi. Tôi đã mệt đến nỗi chẳng buồn dỗ dành Mia, và dù con bé không chạy trốn tôi nhiều từ khi mới bắt đầu đi mẫu giáo nữa nhưng mức độ tin tưởng của tôi dành cho con vẫn còn rất thấp. Nhưng con bé cứ háo hức nhìn tôi, và tôi thấy nhiều niềm vui trong mắt con. Đó là ngày cuối tuần nắng ấm đầu tiên, và nó nhắc tôi nhớ đến phép nhiệm màu tôi từng cảm nhận được khi mới tới lần đầu tiên vào hồi tháng Tám. Tôi đứng dậy và bắt đầu nhét những thanh lương khô, nước suối vào một cái ba lô. “Đi nào”, tôi nói. Tôi chưa từng thấy con bé xỏ giày nhanh đến thế.

Đại học Montana nằm ở chân một ngọn núi - có tên là núi Sentinel, nhưng dần địa phương hay gọi là “M” vì đường mòn gấp khúc rõ ràng tạo thành một chữ M viết hoa màu trắng bằng bê tông. Suốt mấy tháng liền, tôi thường chăm chú ngắm nghía nó trên đường đến trường, nhìn những con người chỉ như những chấm nhỏ leo lên đồi. Tôi ghen tị với họ, nhưng lại luôn tìm cớ để không phải thử lấy một lần.

Chúng tôi lái xe đến bãi đỗ ở chân núi. Vài người đang đứng ở cầu thang dẫn lên đường mòn. Tất cả đều đi giày thể thao, cầm những chai nước lọc, và có vẻ sẵn sàng men theo đường mòn lên núi.

“Được rồi”, tôi nói, vuốt thẳng cái quần lửng nhiều túi và nghĩ lại về quyết định đi xăng đan của mình. “Chúng ta sẽ đi bao xa nào?”

“Hết cả M luôn”, Mia nói, như thể đó chẳng phải việc gì to tát. Như thể đó không phải mục tiêu tôi đặt ra cho bản thân vào lần đầu tiên đến đây. Như thể đi lên M không có nghĩa là phải leo hết nửa ngọn núi cao 1.500 mét.

Khi hai mẹ con bắt đầu đi trên đường mòn, tôi nghĩ chúng tôi chỉ đi được một nửa M thì Mia sẽ kiệt sức, và tôi sẽ phải cõng con về xe. Nhưng con bé băng băng đi qua mỗi khúc ngoặt, qua những người đang ngồi nghỉ trên ghế băng để ngắm cảnh.

Tôi nhìn mà không dám tin vào mắt mình: Cô con gái gần năm tuổi của tôi đang chạy trên đường mòn, mặc váy đầm và đi giày Người Nhện, những cẳng chân của con hươu cao cổ nhồi bông xóc nảy quanh cổ con. Mia chạy nhanh đến nỗi vượt qua tất cả những người khác, sau đó đứng đợi tôi đuổi theo. Trong khi đó thì tôi thở phì phò, mồ hôi chảy thành dòng. Đây có lẽ là cuộc đi bộ mệt nhọc nhất tôi từng thực hiện trong nhiều năm. Tôi gọi Mia dừng lại, lo rằng con bé sẽ tới M và trượt chân hoặc sảy chân rơi xuống. Con đường mòn và ngọn núi quá dốc khiến tôi không thể thấy đoạn đường phía trên. Đôi lúc, tôi thấy Mia dựa vào rào chắn bảo vệ, đôi bàn tay nhỏ nắm chặt thể hiện quyết tâm. Tôi cũng làm tương tự.

Khi tới cuối con đường mòn, chúng tôi ngồi ở đỉnh chữ M ngắm cảnh vài phút trước khi Mia đứng bật dậy và tuyên bố rằng chúng tôi nên đi tiếp. Con bé có vẻ cực kì thoải mái, thi thoảng ngồi xổm xuống ngắm đàn kiến hoặc nhòm vào những hang sóc đất to đùng. Tôi giục con uống nước, ăn một thanh kẹo dinh dưỡng vị việt quất. Rồi chúng tôi tiếp tục tiến bước.

Có vài cách để lên đỉnh Sentinel, nhưng chúng tôi chọn đi theo tuyến đường vòng quanh sườn núi. Dù con đường này không dốc bằng những con đường mòn khác nhưng việc leo lên đỉnh vẫn còn quá gian nan. Cứ đi được chừng 10 bước tôi lại nghỉ. Mia có vài lần dừng lại cùng tôi. Không biết là do hưng phấn hay do hơi ấm từ mặt trời, nhưng tôi thấy ngất ngây hạnh phúc. Tôi biết những bước cuối cùng đối với đôi chân nhỏ của Mia là vô cùng gian nan. Con cũng biết tôi mệt đến mức nào.

Trên đỉnh núi, con bé giơ tay cao quá đầu và cười khanh khách. Tôi chụp lại hình con nhảy nhót tại đỉnh núi, nằm rất cao bên trên thành phố. Tổ ấm của mẹ con tôi. Chúng tôi ngồi bên rìa, với ngọn núi dốc xuống bên dưới, nhìn toàn cảnh Missoula. Từ nơi chúng tôi ngồi, những ngôi nhà trông như nhà búp bê tí hon và xe cộ thì như những những đốm màu lấp lóa. Tôi ngồi đó, thầm mường tượng Missoula trong đầu mình, và bỗng thấy thành phố này quá lớn, đã chiếm rất nhiều phần trong trí óc và trái tim tôi, nên tôi thấy lạ khi từ trên cao thế này nhìn bao quát tất cả.

Ngay dưới chúng tôi là ngôi trường đại học, và hội trường nơi chỉ hai năm nữa thôi, Mia sẽ được thấy tôi bước lên sân khấu nhận tấm bằng cử nhân Ngữ văn và Văn chương. Từ ngọn núi, tôi có thể thấy bãi cỏ và hàng cây tôi nằm xuống thư giãn vào mùa hè tôi tới thăm nơi này, nơi tôi đã mơ về một ngày được trở thành một cô sinh viên. Tôi có thể thấy căn hộ của chúng tôi, công viên mẹ con tôi thường hay tới chơi đùa, trung tâm thành phố nơi Mia và tôi dũng cảm bước trên vệ đường mùa đông trơn trượt.

Mia tự đi cả đường về xe. Trong buổi chiều tà, ánh sáng phủ sắc cam sẫm lên da con gái tôi. Con bé tự tin nhìn tôi vài lần. “Chúng ta đã thành công”, đôi mắt con như đang nói. Chúng tôi không chỉ lên đến đỉnh núi thành công, mà còn đã tới với một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tôi đoán chúng là một và chỉ một.