Chương 26 Nhà Nheo Nhóc
Vào lần đầu tiên tôi đến dọn Nhà Nheo Nhóc, người vợ chỉ mở hé cửa. Tôi thấy ánh mắt cô chuyển từ hoảng hốt sang do dự rồi lại hoảng hốt.
“Xin chào”, tôi cười nói. “Tôi đến dọn nhà chị ạ. Rachel ở nhóm Facebook đã giới thiệu chúng ta với nhau đó?”
Cô gật đầu và nhìn xuống, sau đó mở hé cửa vừa đủ để lộ ra cái bụng bầu to tướng và một cậu bé đang bám chân mẹ. Tôi đứng trong khoảng vuông lát xi măng nho nhỏ là thềm nhà họ. Từ trong nhà vọng ra tiếng chim chiếp chiếp. Những đứa nhỏ khác nhòm tôi từ một ô cửa sổ lớn bên phải. Khi tôi nhìn người phụ nữ một lần nữa, cô lo lắng nhìn vào bên trong.
“Đây là bí mật nho nhỏ của tôi”, cô nói trước khi mở cửa cho tôi vào.
Tôi bước vào mà choáng váng. Trong toàn bộ căn phòng, chỉ có chỗ sàn nhà nơi cửa mở ra mở vào là gọn gàng, sạch sẽ. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là không được thế hiện thái độ. Trong cuộc nói chuyện đầu tiên giữa hai chúng tôi, cô nói cần người giúp dọn dẹp garage và giặt giũ quần áo. Nhưng cảnh tượng này thật quá sức tưởng tượng. Quần áo, bát đĩa, giấy tờ, ba lô, giày dép, sách vở, tất cả bị quăng bừa ra sàn, mặc cho cho bụi và lông tóc phủ bám.
Gia đình đã chi tiền để tân trang căn nhà từ lâu. Cô kể với tôi trong lúc chúng tôi đứng tại chỗ trống duy nhất trong phòng khách. Tôi chăm chú lắng nghe, cố không thấy bị choáng ngợp bởi tình trạng căn nhà. Cô nói nhanh và có vẻ kích động. Sắp tới đây họ sẽ thuê một căn nhà mới. Họ, một cặp vợ chồng, năm đứa con nhỏ và thêm một đứa bé nữa sắp chào đời.
“Chúng tôi thực tình không có đủ tiền để thuê chị”, cô nói, nhìn xuống đôi bàn tay mình đang áp lên bụng. “Nhưng tôi sắp phát điên rồi. Ngôi nhà mới sẽ là khởi đầu mới. Tôi không muốn phải mang theo tất cả những thứ này.”
Tôi gật đầu và nhìn quanh. Mọi bề mặt khả dĩ trong bếp và phòng ăn đều ngổn ngang bát đĩa bẩn. Ngự tại tất cả các góc phòng khách là những đống hổ lốn sách vở, giấy tờ, quần áo, đồ chơi và tiếp tục là bát đĩa nữa. Trên một bức tường, các ngăn kệ treo bị tuột xuống và sách rơi ở đâu thì vẫn nằm la hệt ngay vị trí đó.
Cô nói rằng gia đình họ không thể trả các hóa đơn. Cô nhắc tới tem phiếu. Tôi cảm thấy thật tệ nếu đòi tiền công từ cô, nhưng tôi cũng không thể làm không công được. Dù cô không xin tôi giảm giá, nhưng tôi nói cô chỉ cần công tôi bằng một nửa so với bình thường là được.
“Thế 5 đô cho mỗi túi đồ giặt nhé?” Tôi đề nghị trong lúc tìm chỗ đặt đồ nghề xuống. “Tôi có thể mang chúng về nhà để giặt giũ.” Cô không trả lời ngay. Bàn tay không vuốt tóc đứa con liền đưa lên quệt má. Nó dừng dưới mũi cô một giây, sau đó cô gật đầu. Cô nhắm nghiền mắt, cố không khóc. “Vậy thì tôi sẽ bắt đầu từ bếp”, tôi nói.
Khi tôi bắt đầu rút đồ nghề ra khỏi túi, cậu bé vừa núp sau chân mẹ liền lon ton chạy ra giúp. “Bé còn chưa biết nói”, người phụ nữ bảo. Tôi mỉm cười với đứa bé và nhận lấy đôi găng tay vàng từ đôi bàn tay nhỏ đang chìa ra cho tôi.
Vào ngày đầu tiên, tôi đã dành bốn giờ để rửa bát, khiến những ngón tay sun lại dù đã đeo găng. Hết nước ấm, tôi liền quay sang bắt đầu lau chùi các bề mặt. Với những bát đĩa sạch, tôi bỏ ra để lau khô sau đó đặt trên bàn, bếp và các mặt kệ đã được lau sạch. Làm cách nào mà người phụ nữ này có thể nấu ăn cho bảy con người trong cái phòng nhỏ xíu với một đứa bé bám rịt lấy như thế nhỉ? Tôi không biết họ ăn uống gì. Hầu hết những hộp và lọ đồ ăn trong tủ chạn đều đã hết hạn, có khi phải đến mười năm. Nhìn vào tủ lạnh tôi chỉ thấy các ngăn chứa đầy đồ cũ đã chảy cả nước.
Buồng kho trong hành lang chứa máy giặt và máy sấy quần áo. Bên cạnh một lối nhỏ dẫn vào garage đã được chuyển đổi thành phòng ngủ lớn, quần áo chất thành đống. Tôi bắt đầu bỏ vào túi những món cần mang về, dừng lại vài lần để lấy hơi. Chắc chắn trong đây có rệp bụi. Chúng luôn khiến tôi ho như thể bị hen suyễn, và tôi thở hổn hển giữa từng tràng ho sù sụ. Khi nhét nốt đồ vào cái túi thứ hai, cuối cùng tôi cũng nhìn thấy sàn nhà. Và một con nhện lớn, và phân chuột, và tôi thề có gì đó trông giống như da rắn. Kìm một tiếng hét, tôi gật đầu và dừng tay.
Khi tôi ra về, người phụ nữ cảm ơn tôi. Nước mắt lưng tròng, cô xin lỗi vì tình trạng căn nhà. “Đừng xin lỗi”, tôi nói, tay khệ nệ đồ nghề và những túi quần áo. “Cùng giờ vào ngày mai tôi sẽ quay lại.”
Rất nhiều khách hàng riêng từng nói sự hiện diện của tôi trong nhà đã cho họ động lực để tự tay quét quáy ít nhiều. Những người đó yêu cầu tôi đến dọn nhà chỉ một hoặc hai lần. Khách hàng thường xuyên của tôi - cách tuần, hằng tuần và hằng tháng - biết phải làm gì: để tôi một mình làm việc. Tôi không bao giờ làm việc cà kê để tăng thêm giờ. Nếu còn dư thời gian, tôi sẽ ở lại dọn dẹp thêm chút đỉnh. Những khách hàng riêng rất tín nhiệm tôi. Họ thường tấm tắc khen ngợi tôi với bạn bè. Nếu họ cần một người cùng tâm sự và lắng nghe những nỗi truân chuyên của họ trong khi dọn dẹp một mớ bề bộn, tôi cũng có thể.
Vào ngày thứ hai tại Nhà Nheo Nhóc, chúng tôi dọn phòng của cô con gái út. Chúng tôi chất đầy 12 túi rác rồi đem ra ngoài vứt bỏ cùng một số thứ khác. Ấn dưới đống giấy tờ hỗn tạp, những que kem, đồ ăn bị bỏ quên, những quả bóng xì hơi, đủ loại cành cây và đá cuội, quần áo quá rách hoặc quá chật, chúng tôi cuối cùng đã tìm thấy căn phòng của một bé gái. Tôi tìm thấy một vài con búp bê của một ngôi nhà đồ chơi, và cẩn thận đặt chúng về đúng chỗ. Chúng tôi sắp xếp sách vở và những hộp Pony Bé Nhỏ lên một cái giá màu hồng và tím. Chúng tôi treo quần áo vào tủ, đặt giày dép lên giá. Tôi treo một chiếc đầm đỏ cùng một chiếc áo khoác cùng màu vào tủ. Tôi tìm thấy một đôi giày Mary Janes sáng bóng.
Dọn dẹp căn phòng đó làm tôi thấy thoải mái. Tôi nghĩ về những hôm Mia đến nhà bố và tôi dọn dẹp những thứ đồ lộn xộn trong phòng con. Con bé ghét phải vứt đi cái gì, và tôi chỉ thuyết phục được con bỏ đồ chơi đi bằng cách đưa con cùng đi tặng chúng cho các khu nhà tạm dành cho phụ nữ bị bạo hành, hoặc mang tới cửa hàng đồ kí gửi để con tích điểm mua cái khác. Tuy nhiên tất cả những món đồ chơi Bữa Ăn Vui Vẻ nho nhỏ, bộ đồ vẽ, những cây sáp màu gãy thì cần được bỏ đi. Sau nhiều giờ tôi sàng lọc và sắp xếp, Mia sẽ về nhà và bước vào không gian ngăn nắp và sạch sẽ hoàn hảo của mình, cười tươi như thể tất cả đều như mới. Tôi hi vọng điều tương tự sẽ đến với cô bé không lớn hơn con gái tôi là mấy đó.
Tôi trả lại hai túi đồ đã giặt sạch và gấp gọn, rồi gom thêm một túi đồ giặt nữa trước khi về. Tối hôm đó ở nhà, Mia giúp tôi gấp áo, tất và váy. Con bé ướm thử một chiếc váy lên eo và cứ xuýt xoa mãi. Tôi nhìn con xoay một vòng.
“Mẹ cho con cái này nhé?” Con hỏi, và tôi lắc đầu. Tôi giải thích đây là quần áo của nhà khác. “Thế sao mẹ phải giặt?”
“Vì mẹ đang giúp họ, Mia à”, tôi nói. “Đây là việc của mẹ. Giúp mọi người.”
Đến lúc ấy, khi nghe lời nói chính miệng mình thốt ra, tôi mới tin điều đó là sự thật. Tôi nghĩ về người phụ nữ đã cảm ơn tôi dọn dẹp nhà cô và nhét tiền vào tay tôi rồi nắm tay tôi thật chặt, sau đó nói rằng tôi nên đi trước khi chồng cô về. Hai khách hàng thuê tôi làm vườn từng khen tôi giỏi giữ bí mật bậc nhất.
Tôi vẫn có một thời gian biểu hằng ngày, và hí hoáy ghi tên các khách hàng vào các hộp khác nhau, cố gắng ghi nhớ lịch trình trong khả năng của mình để đề phòng có người gọi điện hỏi tôi có thể làm vào giờ này, ngày này được không. Tôi không phải mặc đồng phục, chẳng phải báo cáo công việc với ai và không ai kiểm tra khay đồ nghề của tôi. Tôi không phải ghé qua một văn phòng nào, cách nhà mình nhiều dặm, để đổ đầy các chai hóa chất tẩy rửa. Những ngày phải cọ đến năm toilet vẫn khiến tôi rợn người, nhưng tôi đã cảm thấy khá hơn về công việc ấy.
Sau một buổi tổng vệ sinh kéo dài bốn tiếng, Nhà Nheo Nhóc đã ra hình hài một ngôi nhà bình thường hơn. Tôi kê lại các kệ trong phòng khách, quét sạch toàn bộ hạt cho chim ăn vương vãi, và tìm thấy vài tá đĩa DVD dưới sofa. Dù đã cố giấu nhưng tôi vẫn thấy mừng vì cô không bao giờ nhờ tôi dọn phòng tắm. Tôi không chắc mọi thứ sẽ gọn gàng sạch sẽ được bao lâu. Tôi dọn dẹp bếp suốt một buổi chiều chỉ để thấy những vệt nước xốt khô dính khắp các kệ và bệ bếp vào buổi chiều hôm sau. Tôi hi vọng những gì tôi làm sẽ giúp gia đình cô hạnh phúc. Tôi hi vọng nó giúp cô thấy nhẹ nhõm hơn trước khi đứa bé ra đời. Nhưng tôi chủ yếu vui vì mình đã hoàn thành công việc.
Tòa nhà của tổ chức phi lợi nhuận chống bạo hành gia đình, nơi tôi làm tình nguyện, lọt thỏm trong một khu văn phòng chẳng có gì nổi bật nằm giữa những đường ray tàu hỏa ở Mount Vemon. Tôi không chỉ là một lễ tân tình nguyện, mà còn là khách hàng. Căn phòng nơi tôi gặp luật sư biện hộ cho vụ bạo hành gia đình của tôi có những ô cửa sổ nằm sát trần, chỉ cho vừa đủ ánh sáng lọt vào để nuôi đám cây cảnh lơ thơ. Christy, luật sư biện hộ của tôi, đã chuyển từ Missoula tới đây vào năm ngoái. Cô thấy nhớ nơi đó, nhất là sau khi tôi kể cho cô nghe rằng thành phố ấy đã vẫy gọi tôi từ mấy năm nay.
“Thế sao chị không đến đó một lần xem sao?” Christy nói.
Tôi đang huyên thuyên về những tờ rơi của trường Đại học Montana cứ vài tháng một lần lại xuất hiện trong hòm thư của tôi như một người bạn trai cũ dùng dằng muốn nối lại tình xưa, những tấm áp phích và quảng cáo về khóa đào tạo sáng tác văn chương có hình những người đàn ông để râu, cười tươi rói, mặc quần Carhatts đang hưởng thụ cái thú câu cá bằng mồi giả.
Christy gật đầu và mỉm cười. Cô đặt tờ đơn xin học bổng do tôi nhờ cô giúp xuống và nhìn tôi.
“Chị nên đến đó để tìm hiểu rõ xem chị muốn gì”, cô nói. Ở cô luôn có một vẻ thong dong và dễ chịu. “Mấy đứa bé nhà tôi thích nơi đó. Missoula là một chốn tuyệt vời để gây dựng gia đình.”
“Sao tôi phải tự làm khổ mình?” Tôi hỏi, gần như thì thào. “Ý tôi là, nếu như tôi thực sự thích nơi ấy thì sao? Tôi sẽ thấy vô cùng khó chịu mất.” Tôi cậy bùn khô đóng trên cái quần bị bẩn do nhổ cỏ trong khu vườn của một khách hàng vào ban sáng.
“Sao chị lại không thể chuyển đến đó?” Christy dựa lưng vào ghế và gặng hỏi.
“Anh ta sẽ không đồng ý đâu”, tôi nói.
“Bố của Mia à?”
“Đúng, Jamie”, tôi nói và khoanh tay trước ngực. Vào lần gặp gỡ đầu tiên, tôi đã kể cho cô nghe toàn bộ sự tình - như tôi đã nhiều lần giãi bày với các chuyên gia tư vấn tâm lí và bất kì ai tò mò về chuyện đời tôi. Tất cả bắt đầu từ khu nhà dành cho người vô gia cư, không liên lạc với ai, những lần ra tòa, và thường xuyên hoảng loạn. Jamie sống cách đây ba giờ xe chạy và Mia sẽ gặp bố vào các ngày cuối tuần cách tuần. Hôm nay tôi còn nói thêm rằng tôi không rõ Mia có muốn sống với bố không.
Giọng Christy hạ xuống một chút. “Chuyện chị có chuyển đến Missoula hay không chẳng phải do anh ta quyết định.”
“Nhưng tôi vẫn phải hỏi ý kiến.”
“Đây không phải là xin phép. Chị chỉ cần thông báo là chị chuyển nhà, và anh ta có cơ hội phản đối”, cô nói, nghe có vẻ đơn giản. “Nếu anh ta phản đối, cả hai sẽ trình đơn lên, và quan tòa là người quyết định.” Cô xem tờ đơn của tôi. Tôi im lặng, để những lời của cô thấm vào trí óc. “Hiếm khi họ không cho người mẹ chuyển chỗ ở”, cô nói thêm. “Nhất là khi họ chứng minh được rằng họ có cơ hội học lên cao hơn.”
Tôi nghiến răng và nhìn sàn nhà. Chỉ nghĩ về việc lại phải ra tòa thôi đã khiến tim tôi đập dồn dập.
“Đừng nghĩ là chị phải xin phép ai cả”, cô nói. “Chị chỉ thông báo mà thôi.”
“Vâng”, tôi nói và hướng sự chú ý đến những sợi vải nệm ghế.
“Bây giờ chị giải thích cho tôi xem lá đơn này nhằm mục đích gì nhé?” Cô nói và cầm tờ đơn lên.
Một luật sư khác, ở Port Townsend đã giúp tôi hồi mẹ con tôi vô gia cư, cho tôi biết về một học bổng dành cho những người đã thoát khỏi bạo lực gia đình, được cô gọi là “Quý Cô Nắng Mai”, nhưng hồi đó tôi chưa đủ tiêu chuẩn. Nếu không vì cái tên thì tôi sẽ chẳng bao giờ nhớ ra chương trình này. Dù tên chính thức là Chương trình Học bổng dành cho Phụ Nữ Tự Chủ nhưng tìm kiếm từ khóa Quý Cô Nắng Mai trên mạng đã giúp tôi có đầy đủ thông tin.
Một học bổng dành riêng cho những người đã thoát khỏi bạo hành gia đình, không liên quan đến một đống giấy tờ cà kê dê ngỗng và một danh sách dài những tiêu chuẩn. Hồi đó tôi không đạt được một tiêu chuẩn: ứng viên đã thoát khỏi mối quan hệ bạo hành ít nhất một năm. Nhưng tôi cũng cần một người tài trợ, tốt nhất là qua một chương trình chống bạo hành gia đình, để quản lí tiền nong. WISP sẽ gửi đến tổ chức này tiền học bổng của tôi, sau đó tổ chức sẽ làm việc với tôi để tìm ra cách chi tiêu hợp lí nhất. Tôi nghĩ như vậy sẽ giúp tôi hình dung tiền học bổng được dùng vào mục đích gì, nhưng quá trình có vẻ khiến tôi nản lòng thối chí.
“Chị cứ xin năm ngàn đô”, Christy đề nghị trong lúc chúng tôi xem xét giấy tờ. “Khả năng xấu nhất là chị nhận ít tiền hơn thôi.”
“Tôi đang tự hỏi mình có thể dùng lời lẽ thuyết phục được người ta hay không đây.” Tôi nói, với bản thân hơn là với cô.
Christy gật đầu và cười động viên tôi. “Khoa văn của trường Đại học Montana rất tuyệt!” Cô cảm thán và kéo trình duyệt về trang chủ. “Hình như nó vào hàng đầu của đất nước thì phải?”
“Tôi biết”, tôi nói. “Đó là kế hoạch của tôi, trước khi tôi có bầu.” Tôi cố không tỏ ra quá thất vọng. Đó là trước khi tôi có một đứa con cần tôi quan tâm săn sóc. Trước khi tôi cần một nguồn thu nhập ổn định và bảo hiểm y tế. Trước khi tôi không chỉ có tương lai của mình mà còn của cả con để suy ngẫm. “Nhưng một tấm bằng cử nhân nghệ thuật không được thực tế cho lắm”, tôi nói và Christy suýt bật cười, nhưng cô thấy nước mắt trong mắt tôi.
Tôi không muốn nghe cô khuyến khích tôi làm việc khác. Cũng như tôi không muốn nghe cô động viên tôi đến Missoula. Những giấc mơ đó dường như quá lớn để mà theo đuổi. Khao khát nó cũng giống với những lần tôi ngồi bên bàn bếp nhìn Mia ăn, uống cà phê để lấp đầy cái dạ dày của mình. Nỗi thèm khát Missoula của tôi quá lớn, quá đớn đau đến nỗi tôi không còn dám mơ ước.
“Chị hãy tưởng tượng Mia sẽ vui thế nào khi thấy chị chịu thử lấy một lần xem sao”, Christy tiếp tục khuyên nhủ.
Giấc mơ Missoula vẫn chưa chịu ngủ yên. Nó đến trong những cuộc trò chuyện với bất cứ ai khiến tôi có một chút xíu cảm tình. Chuyện đã như thế nhiều năm, nhưng bây giờ tôi bắt đấu để ý. Tôi cho phép mình cảm nhận sự thúc giục và lôi kéo của nó.
Không may là những thứ khác cũng có cách để không chịu khuất phục, liên tục quấy rầy đến nỗi tôi thèm được nghỉ ngơi. Chủ nhà mới của tôi, Alice, đã chứng tỏ cô là vị khách hàng khó tính nhất. Nhiều tuần liền, tôi dành hàng chục giờ đồng hồ trong nhà cô, cố lau dọn sao cho không gây ra bất cứ sự phàn nàn gì. Cô hướng dẫn tôi dọn bếp, chỉ là những nơi tôi bỏ sót. Tôi dùng giẻ lau và đồ vệ sinh của cô nhưng vẫn khiến cô khó chịu khi tôi bỏ giẻ đã dùng vào máy giặt. “Cô phải giặt tay chứ”, Alice nói sau khi gọi điện thoại bảo tôi sang để đích thân cầm tay chỉ việc. “Như vậy sẽ thêm việc cho tôi”, tôi muốn thẳng thắn cho cô biết nếu trong những hoàn cảnh bình thường thì chuyện một khách hàng hành xử thế này thật không hề hợp lí và vô cùng kì cục. Nhưng cuối cùng, tôi chỉ lẳng lặng lấy đống giẻ bẩn ra khỏi máy giặt, mang sang garage để giặt tay, phơi khô và gấp lại gọn gàng và để ngay ngắn trên hiên nhà cô.
Alice cũng cho rằng tôi nói vống lên số giờ nhổ cỏ dại. Tôi chưa từng gặp những chuyện tương tự bao giờ. Tôi chưa từng nghe ai kêu ca về mình, ngoại trừ người chủ Căn nhà Lưu động gần nhà Tướng cướp Chân đất.
Một chiều nọ, Alice lại gọi đến, nói là muốn nói chuyện với tôi trong nhà cô. Tôi đã biết chuyện gì sẽ đến. Cô nói tôi không hoàn thành đủ phần của mình theo như hợp đồng, rằng tôi dọn dẹp không sạch, rằng cô sẽ hủy hợp đồng.
Tôi gật đầu, quay gót bước đi. Về căn hộ, tôi đưa mắt nhìn quanh. Thật khó mà tin rằng tiền thuê nhà sẽ tăng gấp đôi. Tôi bàng hoàng trân trối nhìn ra ngoài cửa sổ, về phía vịnh nước. Tim tôi như thắt lại.
“Này, cô ổn chứ?” Chiều hôm đó Kurt đã hỏi khi chúng tôi đứng ngoài khu vui chơi trong sân nhà họ. “Alice bảo trông cô như sắp khóc sau khi cô ấy nói chuyện với cô.”
“Tôi bị nhận tin xấu mà”, tôi nói và nhìn xuống đất.
Anh gật đầu. “Ừ, tôi hiểu. Alice căng thẳng vì vừa bị sa thải.” Anh vừa nói vừa đẩy xích đu cho con gái út.
Tai tôi ong ong như tiếng tivi rè. Giờ thì tôi đã hiểu vì sao Alice đuổi việc tôi. Không phải vì tôi không giỏi, mà là vì cô không thể tiếp tục chuyện đổi chác này, hoặc muốn tự mình làm tất cả để tiết kiệm tiền bạc, thành ra khó chịu với tôi. Lúc đó Alice đang đạp xe theo các cô con gái lớn chạy đến chỗ Mia. Tôi nhìn bọn trẻ chạy đi lấy xe đạp, cười đùa vui vẻ. Tôi nghĩ về tất cả những giấy tờ pháp lí. Nếu tôi cố gắng giữ việc đổi chác này, có thể kết cục sẽ là một trận chiến trên tòa mà tôi thì không có tiền để theo đuổi đến cùng. Tôi sẽ mất tất cả những gì còn lại của một mối thân tình mà con gái tôi cần để cùng chơi với những bạn nhỏ này. Tôi đành phải chấp nhận.
“Tôi không thể đủ tiền thuê nhà nếu không có học bổng”, tôi nói với Christy vào buổi gặp tiếp theo, sau khi trình bày chuyện gì đã đến.
“Chị sẽ có”, cô nói chắc như đinh đóng cột, như thể người ta đã thông báo với cô, còn cô đang giấu tôi. Lá đơn đã dài xấp xỉ 50 trang. Tôi vẫn đợi thêm những lá thư chứng nhận khác. “Chị có suy nghĩ thêm về Missoula không?”
Tôi có. Một chút. Thái độ của Jamie càng lúc càng cực đoan, khiến tôi sợ cho Mia. Con bé đã ở nhà anh ta một tuần trong khi tôi hoàn thành các lớp của học kì mùa xuân, và trở về sụt mất một cân. Tôi đưa con đi khám bác sĩ vì chứng viêm xoang trước khi con sang nhà bố, và khi về thì bệnh lại nặng hơn. Một cân đối với thân hình nhỏ bé của con bé là rất nhiều. Con bé lại tè dầm và tôi không biết vì sao. Đã từ lâu rồi con không còn như thế nữa.
Jamie hiện đang sống trong một chiếc thuyền buồm nhỏ, và khi Mia đến thì con bé ở đó với bố. Cả Mia và Jamie đều không biết bơi. Tôi sợ Mia bị sảy chân ngã khỏi thuyền hoặc bến cảng khi không có phao cứu hộ vào giữa đêm. Tôi sợ đứa bé tôi được nhận lại sau thời gian sống với bố. Mỗi lần gọi điện, tôi lại loáng thoáng nghe thấy vài giọng nam giới. Khi tôi hỏi, Mia không biết tên của ai, hoặc bố ở đâu, chỉ biết mình đang trên thuyền. Đón con dần trở thành một chương trình giải cứu.
Tôi kể cho Christy về điều đó - về chủ nhà, về sức hút của Missoula. Việc học hành trở nên bận bịu vào mùa thu, nhưng tôi chỉ có hai lớp mùa hè. Tôi vẫn xin hỗ trợ từ khoản vay sinh viên ở mức cao nhất để trang trải chi phí nhà ở đã tăng gần gấp đôi. Mia sẽ ở nhà trẻ khi tôi đi làm và tôi làm tình nguyện mỗi khi có thời gian.
Sau khi bị Alice sa thải, tôi dành hai ngày tìm cách xoay xở vì biết mình không đủ tiền để trả các hóa đơn tháng Bảy, trước khi các khoản vay sinh viên của tôi được trả về cho học kì hè. Tôi tìm thấy một trợ cấp kì lạ hỗ trợ một phần tiền thuê nhà vào tháng Bảy - một trợ cấp “nội trợ”, đặc biệt dành cho những người phụ nữ có con cần giúp đỡ tiền nhà. Chỉ cần những tấm phiếu mua xăng trị giá 20 đô cũng giúp được tôi rất nhiều.
Tôi nín thở mỗi lần kiểm tra email. Ngày nào cũng có những hóa đơn và quảng cáo, nhưng chẳng có gì từ ủy ban cấp học bổng. Một tháng dường như đang trôi qua một cách nguy hiểm. Nếu tôi không được nhận học bổng, mẹ con tôi sẽ phải chuyển nhà. Nhưng nếu tôi nhận được, chúng tôi sẽ dư sức sống ở nơi này. Để tạm gác chuyện học bổng sang một bên, tôi đưa Mia đến các bãi biển và công viên. Chúng tôi dành nhiều thời gian với Kurt và các cô con gái lớn, đi dạo trong vịnh trong khi lũ trẻ bì bõm lội bùn. Nếu như Mia ở nhà bố, tôi sẽ làm tổ trong căn hộ mà đọc sách hoặc làm bài tập với cửa mở toang đón nắng hè.
Một ngày cuối tuần nọ, tôi rút cuốn Nhà giả kim ra khỏi giá sách. Cuốn sách mỏng đó chiếm trọn hai ngày của tôi, vì hầu như trang nào cũng có một câu khiến tôi phải gạch chân, đọc lại, và phải nhìn ra ngoài cửa sổ để nghiền ngẫm một hồi lâu. Mẹ đã tặng nó cho tôi sau khi tôi chuyển từ Alaska về Washington. Mẹ nói nội dung cuốn sách là về hành trình của nhân vật chính đi tìm định mệnh của mình, chỉ để phát hiện ra từ đầu đến cuối nó vẫn luôn ở quê nhà. Tôi nhăn mặt. Chắc rồi, vùng Tây Bắc Washington như được ban phép màu khi mặt trời lên, và trên một số đoạn của đường cao tốc 20 ngoằn ngoéo qua eo biển Deception, có những cái cây mà tôi biết rõ như thể những người bạn lâu năm. Nhưng cảm giác về quê nhà chỉ có thế. Tôi không thấy mình thuộc về nơi này. Tôi không chắc sẽ có bao giờ mình thấy khác đi không.
Tinh thần của truyện Nhà giả kim đã lôi kéo tôi. Tôi muốn trở thành nhà văn đã gần hai mươi lăm năm.
“Tôi nghĩ mình đã sẵn sàng tới thăm Missoula rồi”, tôi thông báo với Christy vào buổi hẹn kế tiếp.
Trên đường từ nhà trẻ về, tôi cùng Mia cùng hát bài Diamonds on the Soles of her Shoes của Paul Simon. Tôi cười mỗi khi con hát “rỗng bí” trong khi đúng ra phải là “rỗng ví”. Album này đã thường xuyên được bật trong xe vài tuần rồi - khi chúng tôi từ nhà đến nhà trẻ và từ nhà trẻ về nhà, hoặc những lúc hai mẹ con bắt đầu những chuyến phiêu lưu cuối tuần. Mỉm cười và cùng hát một bài hát có lẽ cũng giống như ăn cùng một li kem.
Tôi rẽ về đường nhà mình, và Mia bắt đầu hỏi có được chơi với các chị không. “Đợi một chút”, tôi nói và đi chậm qua hòm thư. Tôi đã cố không kiểm tra quá nhiều. Đã quá nhiều lần tôi thất vọng vì thấy hòm thư rỗng.
“Mia!” Tôi gọi vang. Tôi giơ một phong bì lớn gửi từ WISP. Tôi mở ra xem.
Bên trong là một đống hoa giấy đổ xuống sàn nhà tôi. Họ đồng ý trao học bổng! Mia đưa tay xúc chúng lên. WISP không chỉ cho tôi 2.000 đô cho mùa thu mà còn thêm 1.000 đô cho mùa hè. Chúng tôi không chỉ không phải chuyển đi nữa, mà còn dư tiền để đi du lịch giữa hai học kì này. Tôi có thể tới thăm Missoula.
Trong Nhà giả kim có một câu thoáng hiện lên trong đầu tôi: Khi ta khao khát một thứ gì đó, vũ trụ sẽ trợ giúp ta có được nó. Nhờ học bổng, tôi có thể tiết kiệm tiền lương, sửa xe và lái xe qua hai cung đèo để ngắm nhìn một thành phố đã xuất hiện trong các truyện tình của những nhà văn tôi yêu thích.