CHƯƠNG III NHỮNG ĐIỀU-KIỆN ĐỂ THÀNH-CÔNG
Nếu bạn thấy vô cùng hăng hái trong khi làm việc thì gần như không có việc gì mà bạn không thành công
CH. SCHWAB
Đối với nghề viết văn, sức khỏe vẫn có ích nhưng không cần thiết. Biết tổ chức đời sống thì dù đau vặt suốt đời một nhà văn cũng có thể thành công. Voltaire (khi về già) và Proust quanh năm không ra khỏi phòng bệnh mà cũng viết được, riêng Voltaire lại viết rất nhiều nữa. Vả lại, như tôi đã nói, bệnh tật là tình cảnh thông thường của nhà văn: trong văn học sử cổ kim, đã mấy người được thân hình vạm vỡ như Balzac như Tolstoi?
Lại cũng không nhất định phải có thiên tài mới nổi danh. Thiên tài là vật rất hiếm ở đời, cả một thế kỷ, mỗi nước may lắm được vài ba người như Nguyễn Du, Nguyễn thị Điểm, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hugo, Lamartine. Đến như bọn phàm nhân chúng mình thì không thể hy vọng trời ban cho của hiếm ấy, vậy ta chỉ cầu có chút tài hoa nho nhỏ để đủ bước vững trên văn đàn, và tự ta, ta phải có tấm lòng yêu nghề, yêu mê say, tha thiết.
Yêu nghề? Đúng, tôi cho rằng đối với bọn “không sẵn tư trời” là chúng mình thì yêu nghề là một điều kiện quan-trọng nhất.
Bạn bảo:
- Điều đó khỏi dặn mà, yêu nghề văn tự thì tôi đã thừa yêu!
- Vâng, nhưng tôi muốn biết bạn yêu nó ra sao? Bạn có thể, sau khi làm việc suốt ngày ở sở trong khi vợ con mong đợi ở nhà, lại cứ cắm cổ đạp xe đến nhà in để viết bài, rồi mãi tới khuya mới trở về, rụt rè gõ cửa sợ làm mất giấc ngủ của những người thân? Hay bạn có thể yêu văn mà sống như Phùng Bảo Thạch, Nguyễn Triệu Luật, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, nghĩa là sống trong tòa soạn, trải chiếu xuống sàn gác mà ngủ, ăn thì toàn muối mè, rau cải và dưa trong hàng tháng?
Nếu được như vậy thì có thể coi như bạn đã thành công một nửa vì tôi tin rằng bạn sẽ đủ kiên nhẫn để sửa một vài câu văn năm, sáu lần, kiếm tài liệu trong vài ba năm trước khi soạn một cuốn sách hai trăm trang và chịu cảnh bần hàn mà đeo dai cho tới chót.
Điều kiện thứ nhì là bạn phải lựa một loại văn hợp với khả năng của bạn.
Thomas Carlyle nói: “Sung sướng thay người nào kiếm được việc hợp với mình!” Phải lắm, có một việc hợp với mình thì làm chi mà chẳng thấy “vui như một trò chơi tuyệt thú” và chẳng thấy thành công chắc chắn?
Nói cho ngay, ai mà không hám cái danh thi sĩ? Còn gì khoái cho bằng mỗi bài thơ của mình được hàng ngàn miệng ngâm nga, có bài lại được những bàn tay ngọc đem thêu trên lụa nữa? Nhưng, một anh bạn tôi chính vì ham cái danh ấy quá mà mặc dầu thấy thầy và bạn khuyên đừng làm thơ, vẫn cố công nặn óc tìm vần trên 10 năm nay để rốt cuộc chỉ chuốc tiếng cười của bậc thức giả. Chẳng riêng tôi, nhiều người đều nhận anh bạn ấy có khiếu về tùy bút và nghị luận: ồ, phải chi anh để công phu luyện thơ mà luyện hai thể vừa nói thì có phải đã nổi tiếng rồi không?
Biết bao bạn trẻ bước vào làng văn với quyết định thành một tiểu thuyết gia mà không tự xét có khả năng về loại đó không. Các bạn ấy hãy đọc đoạn tự thú này của Dale Carnegie:
“Hồi ba mươi tuổi tôi quyết chuyên viết tiểu thuyết. Tôi sắp thành một Frank Norris hoặc Jack London hoặc T. Hardy thứ nhì. Tôi hăng hái tới nỗi qua ở Châu Âu hai năm. Tại đó tôi sống dễ dàng với vài Mỹ kim mỗi tháng, vì sau đại chiến thế giới thứ nhứt, ở đây có sự lạm phát giấy bạc. Trong hai năm ấy tôi viết một kiệt tác nhan đề là “Blizzard” (Dông tuyết). Nhan-đề ấy hợp quá vì bản thảo được các nhà xuất-bản đón tiếp một cách lạnh lùng không khác những cơn dông tuyết thổi trên cánh đồng Dakota. Khi nhà xuất-bản nói thẳng vào mặt tôi rằng cuốn ấy là đồ bỏ, rằng tôi không tài, không có khiếu về tiểu thuyết thì tim tôi muốn ngừng đập. Tôi quay gót ra như kẻ mất hồn. Có ai đập mạnh vào đầu tôi cũng không làm cho tôi choáng váng hơn. Tôi đê mê, rụng rời…”
Nhưng rồi Dale Carnegie biết quyết định bỏ ngay loại tiểu-thuyết để viết tiểu-sử các danh nhân cùng loại sách xử thế cho người lớn. Và ông đã thành-công rực-rỡ, được khắp thế giới biết tên, kiếm được cả triệu Mỹ-kim. Ông đã chẳng buồn rầu vì không được là một T.Hardy thứ nhì mà còn muốn thấy nhẩy múa mỗi khi nhớ lại quyết định sáng suốt đó.
Walter Raleigh nói: “Tôi không có tài để viết một cuốn sách khả dĩ so sánh được với tác phẩm của Shakespeare, nhưng tôi có thể viết một cuốn theo tài năng riêng của tôi được”. Hễ biết theo tài năng riêng của mình thì sẽ vẻ vang, như nữ sĩ De Sévigné chỉ viết những bức thư cho con gái cũng lưu danh thiên cổ, cứ gì phải làm thơ với soạn tiểu thuyết?
Có hàng chục con đường dẫn lên ngọn núi vinh hiển; lựa con đường nào hợp với mình mà theo, dù tới muộn, chẳng hơn là theo vết chân người để bị tụt xuống cả trăm lần rồi rốt cuộc, tới già vẫn còn lẹt bẹt ở dưới chân núi ư? Số người có thiên tư về văn thì rất nhiều mà thành công rất ít chính vì phần đông không đủ kiên nhẫn và không biết chọn đường hợp với khả năng của họ vậy.
*Nhưng, thưa bạn, có điều quan trọng nhất tôi lại quên chưa hỏi bạn:
Tôi biết bạn viết không phải vì tiền. Tiền vẫn là cần, có tiền mới sống, mới viết được, nhưng nếu chỉ vì tiền thì thật là khùng. Thức trọn ba bốn đêm để sửa một bài thơ mà đem bán thì không một tờ báo nào mua, nghiên cứu năm sáu năm để soạn một cuốn sách, in ra 2000 cuốn, bán ra được bảy, tám trăm… Không, không, muốn kiếm tiền thì thiếu gì nghề mau phát hơn, chẳng hạn làm nghề thầu khoán, nghề kim hoàn, nghề bào chế, “bác sĩ chích”, vân vân… gặp vận chỉ vài năm là đã có bạc triệu; còn gò lưng ra viết thì dù có táng tận lương tâm, mãi dâm cây bút, cũngchỉ kiếm được mươi, mười lăm ngàn đồng trong một thời gian ngắn để rồi khi hết thời, lại bị chính những độc giả đã say mê đọc ta, sẽ buông lời mạt sát ta.
Một anh bạn thi sĩ của tôi nói: “Nếu phải làm thơ vì tiền thì khổ lắm, thà làm thợ mộc, nề còn sướng hơn”. Đúng vậy, miễn cưỡng viết là một cực hình, đã chẳng bõ công mà còn làm tâm hồn ta ti tiện đi nữa.
Boileau trong cuốn Nghệ thuật làm thơ (L’art poétique) tỏ vẻ khinh bọn cầm bút tham tiền:
“Tôi biết rằng một tâm hồn cao cả có thể kiếm được một số lợi ích chính đáng trong công việc của mình, như vậy chẳng nhục nhã mà cũng chẳng tội lỗi gì cả; nhưng tôi không thể chịu được hạng tác giả có tên tuổi mà chán danh, ham bạc, đem thần Apollo [13] cầm cho tiệm sách và làm cho một nghệ thuật thành nghề buôn.”
Rồi Boileau khuyên ta nên viết vì danh.
Rất nhiều văn nhân nghĩ như ông và chỉ có kẻ chỉ mong suốt đời viết một câu bất hủ - một câu thôi chứ không cần một bài. Một anh bạn tôi làm thơ đã hai chục năm, nói: “Được như Đặng Dung, tác giả câu nầy:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.
… rồi chết cũng không hận”. Một anh khác đọc tiểu sử Trương Tiên, một thi sĩ đời Tống [14] rồi mơ mộng cả buổi; và không biết tới nay anh đã tìm được câu nào để hậu thế nhắc tới mình chưa?
Ham danh vốn là tật chung của nhà văn song ham tới mực đó thì cũng quá. Trong lúc sống, ít ai nghĩ đến cái danh của mình mà một khi đã xuống hố thì những cục đất rớt độp độp trên quan tài cũng không hay, còn biết gì đâu mà thích lưu danh muôn thuở?
Viết còn có thể vì mục đích nữa là cầu vui, là để được cái thú viết, hoặc thỏa cái nhu cầu viết.
Trong một bức thư gởi cho bà Maurice Schlésinger, Gustave Flaubert có câu:
“Cũng như hồi trước, tôi sẽ viết, chỉ để được hưởng cái thú viết, tôi chỉ viết cho một mình tôi, không hề nghĩ gì về tiền bạc hoặc về danh vọng ồn ào cả”
Hầu hết các văn nhân, thi sĩ của ta hồi xưa đều có quan niệm ấy: viết để tiêu khiển, để tự an ủi mình, để thoát ly đời sống hiện tại. Viết như vậy thì tác phẩm thường có giá trị về nghệ thuật, nhưng văn chương chỉ là một trò chơi tao nhã như cầm, kỳ, họa mà thôi.
André Gide không cho viết văn là một thú tiêu khiển mà là một nhu cầu. Ông tuyên bố: “Ai mà cấm tôi viết thì tôi sẽ tự tử” [15] Văn hào của nước Pháp đó, tư tưởng luôn luôn thành thật và có thể rằng tôi không hiểu nổi tâm lý của ông, nhưng thú thực, tôi không thấy thích câu nói ấy, bằng lời sau nầy của Lỗ Tấn:
“Xưa nay tôi chả có chuyện gì là bắt buộc phải nói ra mới được ; mà cũng chưa hề có văn chương gì bảo rằng không viết ra thì không chịu nổi!”
Mà Lỗ Tấn là một cây bút cũng rất thành thật, có nghệ thuật sắc bén, đã nổi danh khắp thế giới và được coi là Maxime Gorki của Trung Quốc.
Sau cùng, nhiều người cho rằng viết văn là để hoạt động. Theo tôi quan niệm ấy đúng hơn cả. Viết tức là “nói với xã hội cái mình có trong lòng” (A. de Vigny) tức là bày tỏ, bênh vực hoài bão của mình, tuyên truyền cho tư tưởng của mình, mong nó được thực hiện, tóm lại là để hoạt động.
Hàn-Dũ, Liễu-Tôn-Nguyên tuyên truyền cho đạo Nho ; Đào-Tiềm, Lý-Bạch tuyển truyền cho đạo Nhàn ; Đỗ-Phủ, Bạch-Cư-Dị tuyền truyền cho tư tưởng xã hội ; chủ trương mỗi nhà tuy khác, song đều là hoạt động cho một lý tưởng, cho cái mà mỗi nhà tin là Chân, là Thiện hay là Mỹ. Thời nầy ai không nhận rằng nền văn minh nhân loại còn nhiều khuyết điểm, cách tổ chức xã hội cần phải cải thiện, nên nhà văn có tâm huyết nào mà không muốn xây dựng một tương lai đẹp đẽ hơn cho những thế hệ sau?
Chưa thực hành được thì viết, một khi đã có đủ phương tiện và năng lực thực hành thì tất nhiên nhà văn gác bút mà làm chánh trị. Những kẻ chê Phạm Quỳnh, Nhất Linh, Hồ hữu-Tường đã đi làm chính khách là không hiểu tâm lý văn nhân và cũng không có quan niệm xác đáng về văn nghệ. Nếu muốn ta chỉ có thể chỉ trích đường lối chính trị của ba nhà đó còn cái việc bước qua chính trị của họ thì là một việc rất tự nhiên.
A.France còn khuyên văn nhân phải làm chính trị nữa. Ông nói:
“Ký-giả nào thiếu cái đó – tức lòng ham làm chính-trị - thì văn như thiếu gân. Một trang viết hay chỉ là sự hoạt-động bị nén lại [16] (…) Bây giờ người ta có thói khen một nhà văn khi chết là bình-sinh chỉ viết văn chứ không làm chính-trị. Có khác chỉ khen một anh cụt tay là chỉ có một tay không?”
Paul Valéry chắc cũng nghĩ như vậy. Năm 1919, tờ nguyệt san Văn chương phỏng vấn ông:
- Tại sao ông viết văn?
Ông đáp:
- Vì nhu-nhược!
Ông muốn nói: Vì không thực hiện được hoài bão, nên mới phải cầm bút. Trong bài tựa cuốn Nghề làm người ( Métier d’homme ) của Raoul Dautry, ông nói với tác giả: “Tôi ghen ông đấy” - ghen vì Dautry đã có một đời hoạt động tích cực còn ông thì không. Đó là một lời nói nhũn nhưng cũng là một lời tự thú. Cổ nhân bảo có ba cái bất hủ: lập đức, lập công và lập ngôn. Để lập ngôn đừng vào hàng cuối thì thực là chí lý.
Cổ nhân như vậy, còn bạn thì sao? Khi bước vào nghề văn, bạn có một mục đích cao đẹp để nhắm, những tư tưởng để bênh vực, một chương trình để thực hành không? Thiếu những cái đó thì văn của bạn sẽ thiếu hồn và đừng mong gì thành công lâu bền cả.
Chú thích:
[13] Thần nghệ thuật
[14] Họ Trương được người đương thời tặng cho chức: “Lang trung đào lý giá xuân phong” vì ông làm chức lang trung và nổi danh câu:
Đào lý giá xuân phong (Đào mận gả gió xuân)
[15] A Gide nói câu đó với P. Valéry và P. Valéry đáp: “Còn tôi, tôi sẽ tự tự nếu người ta bắt tôi viết”
[16] Ông muốn nói: không hoạt động được một cách tích cực mà phải viết tức là hoạt động một cách tiêu cực