CHƯƠNG IV VĂN-NHÂN TRONG XÃ-HỘI
Những người bình thường không sáng tác được những nghệ phẩm. Họ ăn ngủ, sống một đời bình thường rồi chết.
IRVING STONE
Pour toute nourriture, ll apporte son coeur,
A. DE MUSSET
Nghề viết văn đã kỳ cục mà xã hội văn nhân còn kỳ cục hơn. Ai vào đó cũng được, nên trong đó có đủ các hạng người. Trần Trọng Kim, Hoàng xuân Hãn, Khái Hưng Nhất Linh là văn nhân thì một học sinh đệ lục thôi học viết ít bài hồi ký, đăng trên phụ trương một tờ báo cũng là một văn nhân. Mà chẳng cần viết lách gì cả, cũng vẫn có thể là văn nhân được. Bạn cứ mua một tấm bìa kẹp trong đó bạn sắp mấy bài thơ cắt trên báo, một số Văn nghệ mới ra và vài tờ giấy với những hàng chữ lớn “Khảo về thơ đa đa” hoặc “Thanh niên Gia Nã Đại” dưới nghệch ngoạc ít câu lăng nhăng trích bậy bạ ở đâu đó, ấy thế là bạn có thể bảo nhà in sắp cho bạn hai chữ “NHÀ VĂN” kiểu Europe gras corps 18 ở dưới tên bạn, trên tấm danh thiếp rồi. Ai cấm?
Nếu bạn lại cận thị thì thật là Trời giúp bạn đấy: cặp kính trắng gọng đồi mồi rất ăn với vẻ mặt văn nhân. Không cận thị thì cũng có cách, cứ mua một cặp kính trắng bình thường mà đeo. Trừ người thân ra ai mà biết được mắt bạn có tật hay không chứ. Đeo cặp kính đó và cắp bìa kẹp kia mà trầm ngâm hoặc mơ mộng bước vào thư viện thành phố thì đích thị là: “Trông chừng thấy một văn nhân…” lắm rồi mà còn gì nữa?
Nhưng tự nhận là văn nhân, được người ta tưởng mình là văn-nhân là việc rất dễ, mà được các văn-nhân chính tông nhận cho vào xã hội của họ thì kể cũng hơi chật vật. Họ gần-gần như không muốn có thêm bạn đồng nghiệp mới và có ý rào khu vực của họ cho khỏi bị bạn xâm chiếm.
Song một khi bạn được họ cho nhận vào làng thì cứ theo nguyên tắc, bạn bình đẳng với họ. Ở đây, người ta chẳng kể bằng cấp, chức tước, tuổi tác gì đâu chỉ cần tài. Nhưng tài thì cố nhiên là có cao thấp khác nhau, nên ở trong làng rốt cuộc cũng có tôn ti trật tự y như tại triều đình… trên sân khấu vậy.
Trong cuốn này, tôi cùng tiếng “văn-nhân” để chỉ hết thẩy những người cầm bút từ ký giả đến tiểu thuyết gia, thi sĩ, khảo cứu gia…Nghĩa đó hơi rộng.
Chính ra người ta phân biệt hai hạng cầm bút: một là văn-nhân, hai là ký giả tức những người chỉ chuyên viết những bài có tính cách thời sự đăng trên báo.
Trong giới văn-nhân lại chia ra ba, bốn cấp. Thi sĩ đứng đầu rồi tới tiểu thuyết gia, kịch gia vì thơ là loại có tính cách văn nghệ hơn hết – người ta nói vậy – cho nên nhà văn trẻ tuổi nào cũng chỉ muốn làm thơ hoặc viết tiểu thuyết. Biết bao thanh niên nặn óc hàng năm để làm thơ rồi ky cóp dành dụm cho được mươi, mười lăm ngàn đồng để xuất bản. Bán được hay không, không cần; miễn được mang danh thi sĩ và có dăm chục cuốn tặng bạn xa gần. Không làm được thơ thì cũng rán “đẻ” ra một tập truyện ngắn. Trách chi thơ và tiểu thuyết chẳng nườm nượp bay tới các tòa báo và các nhà xuất bản.
Sau tiểu thuyết gia, tới các nhà viết du ký hoặc tùy bút ; còn những người chuyên phê bình, khảo cứu thì đứng riêng một phe, họ ít có tính cách nghệ sĩ hơn cả.
Trong mỗi phe đó lại có nhiều kẻ hợm hĩnh tự phong mình là đại ca và nhìn kẻ khác như em út.
Có những đại ca bắt em út ngồi đợi hàng mươi, mười lăm phút, chẳng thèm ngó ngàng gì tới, cứ tự nhiên nói chuyện mưa nắng với một người thứ ba ; chán rồi, đại ca mới quay lại, nhân từ khuyên em út đại loại như vầy: “Nghề viết văn lúc này không nuôi nổi ai đâu. Bỏ đi làm nghề khác khỏe hơn.”
Tôi nhận thấy rằng hạng đại ca hợm hĩnh đó ít khi là người có thực tài, thực học và những nhà văn chân chính, có tâm huyết thì luôn luôn giản dị, thực thà và nhã nhặn, đối với ai cũng một niềm thân mật và vui vẻ.
Nghề cầm viết có nhiều cái lụy, nhưng ít nhất cũng an ủi ta được đôi phần, nhờ nó mà có khi ta tìm được những bạn đồng thanh đồng khí ở bốn phương trời. Gặp được những bạn ấy thì đức bạn cao lên, tài bạn tiến lên, tri thức bạn mở mang ra. Nhưng chỉ những âm hồn đẹp mới được lãnh phần thưởng ấy.
Nói đến làng văn, ta không thể quên một hạng tự xưng là văn nhân mà chuyên bịp người khác để làm tiền. Họ là bọn du thủ du thực, có hồi đã viết lăng nhăng ít bài đăng trên báo và kết bạn với nhiều ký giả. Họ kiếm những người có tiền mà ham cái danh chủ báo, đề nghị lập một tuần báo đưa ra một chương trình đánh máy đàng hoàng, nghiên cứu tỉ mỉ từ chủ trương của tờ báo, tới cách trình bày, tên các mục, tên các cây bút sẽ cộng tác.
Họ thuyết rất khéo, vạch rõ những lợi vật chất lẫn tinh thần của công việc “phụng sự văn-hóa” đó ; ai nghe mà không ham, và xá gì vài chục ngàn đồng mà không bỏ ra để được thấy tên mình đăng ngay dưới tên tờ báo? Nhận được số vốn, họ chạy đi gom góp ngay một bộ biên tập, yêu cầu những nhà văn hơi có tên tuổi giúp họ, như vậy để họ có thể đăng tên những nhà đó trên tờ quảng cáo. Những nhà ấy nếu mắc mưu họ, chịu gởi bài đăng thì càng tốt, họ sẽ lần khân, không trả tiền nhuận bút mà nếu chẳng viết giúp họ thì cũng không sao, họ sẽ kiếm những bài bậy bạ đăng cho đủ trang, rồi họ sẽ kê khai những phí tổn cho người bỏ vốn trả, lạ gì tiêu một thì họ khai ba, ai mà kiểm soát được? Báo tất nhiên bán ế, nhưng họ cần gì đâu, vì họ đã ăn bớt được một số tiền lớn để chi tiêu rồi: chỉ đáng buồn cho ông chủ báo và những nhà văn bị họ lừa gạt mà kẻ thì mất tiền người thì mang tiếng đã cộng tác với một bọn bịp.
Vì xã hội văn nhân có đủ hạng người như vây, nên khó có sự đoàn kết rộng rãi được. Ở nước ta, chưa có một Hội các nhà văn, chỉ mới thấy những nhóm nho nhỏ ba bốn người hay năm sáu người. Những nhóm ấy, trước chiến tranh, khá đông, đi tỉnh nào cũng gặp [17] nhưng trứ tác rất ít mà cũng không được bền, thường vài ba năm là tan rã. Chỉ những bạn cùng chí hướng, đều có đức, tài và học ngang nhau mới giữ tình thân với nhau lâu được.
G. Duhamel kể truyện trong cuộc đại chiến thứ nhất, ông gặp một y sĩ lòng khô khan và sắt đá đến nỗi không mảy may cảm động trước những đau khổ của con bệnh, mặt lúc nào cũng lạnh lùng, có khi điểm vài nét mỉa mai nữa. Vậy mà một hôm, lại chơi nhà y sĩ đó, ông ngạc nhiên thấy mặt ông ta đầy nước mắt vì đương đọc một cuốn sách tả những thảm họa của chiến tranh, những thảm họa mà ông ta chứng kiến mỗi ngày, mỗi phút, một cách thản nhiên. Sức cám dỗ của văn chương như vậy có kỳ không chứ?
Có một lý tưởng đẹp, một lòng dễ cảm và một nghệ thuật cao để bênh vực những cái thiêng liêng như lòng ái quốc, tình tương thân tương ái… thì quả thật nhà văn đã nắm được một khí giới mạnh mẽ vô cùng và bàn tay mảnh khảnh của nhà văn đáng sợ hơn một đội quân thiện chiến.
Lamartine nói giòng Bourbon – một giòng vua ở Pháp – có được Chateaubriand cũng như có một đạo quân. Lời ấy không quá đáng. Sử Trung Hoa chẳng chép rằng Vũ Hậu đời Đường sợ toát mồ hôi khi đọc bài “Hịch thảo Vũ Tắc Thiên” [18] của Lạc Tân Vương ; và Tào Tháo, một tay gian hùng bực nhất cổ kim chẳng tái mặt khi đọc tờ hịch của Trần Lâm đấy ư?
Ảnh hưởng của văn chương lớn như vậy nên nhà cầm quyền thời nào, nước nào cũng nghi kị các nhà văn, tìm cách lung lạc họ, không được thì đàn áp, đàn áp mà họ cũng không sợ thì tàn sát.
Trong thời quân chủ, biết bao nhà văn nhờ cây bút nhảy lên được nhờ những ghế cao nhất ở triều đình: Tư Mã Tương Như thay mặt vua Hán đi vỗ về xứ Thục, Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn, Kỷ Quân đều làm tể tướng; Marot, Cheteaubriand đều được hưởng những ân huệ đặc biệt của vua chúa ; nhưng cũng có biết bao văn nhân bị những tai họa thảm khốc chỉ vì cố bênh vực một lý tưởng hoặc sơ ý lỡ động chạm tới nhà cầm quyền: người thì bị đày tới những nơi ma thiêng nước độc như Hàn Dũ, Vương Thủ Nhân ; kẻ thì bị chém đứt đầu, hay ngang lưng như: Trần Quí Cáp gần đây ở nước ta. Trang Đình Lung và bảy chục người nữa trong cái án văn tự ở đầu đời Thanh [19] bên Trung Quốc ; mặc dầu vậy, các nòi văn nhân hy sinh cho chính nghĩa vẫn không thời nào tuyệt.
Lung lạc hay đàn áp nhà văn đều là những thái độ vô lý. Trong một quốc gia độc lập, một xã-hội văn minh thì nhà cầm quyền với nhà văn phải hợp tác với nhau để thực hiện hạnh phúc cho đồng bào và nhân loại.
Bạch Cư Dị, một thi hào vào bực nhất đời Đường nói:
“Tai của nhà vua tự nó không đủ sáng, phải hợp hết các tai trong thiên hạ mà nghe rồi mới sáng được ; mắt của nhà vua tự nó không đủ tỏ, phải hợp hết các mắt trong thiên hạ mà nhìn rồi mới tỏ được, lòng của nhà vua tự nó không đủ thông suốt, phải hợp hết cả lòng của thiên hạ mà nghĩ rồi mới thông suốt được” để “xét và giúp chính trị đương thời cùng tiết đạo nhân tình”
Trong đoạn đó, viết cách đây 11 thế kỷ, nếu ta thay tiếng “nhà cầm quyền” vào tiếng “nhà vua” thì ý tưởng vẫn còn hợp thời. Muốn làm tròn nhiệm vụ ấy nhà văn phải có một nhân cách cao, luyện đức công tâm và lòng phụng sự, nhất là phải được tự do – tất nhiên là một cách tương đối, chứ làm gì có sự tự do hoàn toàn được? – để có thể thẳng thắn bày tỏ những nguyện vọng của quần chúng và vạch những lỗi lầm của nhà cầm quyền. Nếu bị lung lạc thì văn nhân chỉ có thể nịnh nhà cầm quyền, làm sao giữ chức ngự sử được nữa ; mà nếu bị đàn áp thì hai bên đã coi nhau như kẻ địch, làm sao còn cộng tác với nhau được nữa?
Tiếc thay, lịch sử văn học đông, tây, ít khi ta được thấy những thời nào mà nhà
cầm quyền và văn nhân tin cậy nhau, và chung sức với nhau để thực hiện hạnh phúc cho quần chúng.
Một văn sĩ Pháp đã nói: “Nghệ thuật do sự bó buộc mà sinh và chết vì tự do”. Đó là đứng về phương diện kỹ thuật ; đứng về phương diện tư tưởng thì ngược lại: Bị bó buộc, tư tưởng sẽ chết nghẹt, được tự do, tư tưởng mới tấn phát.
*
Xưa nay, khắp thế giới, ngoài Tolstoi ra, có lẽ không có văn sĩ nào được người đương thời ngưỡng mộ như Voltaire. Người a gọi ông là ông Hoàng ; hơn nữa, người ta tặng ông mỹ hiệu, “patriarche” [20] cũng từa tựa như mỹ hiệu “phu tử” ở Trung Quốc ; hoặc danh từ “cha già” ở nước ta, các vua chúa châu Âu lấy làm hân hạnh được thư từ với ông ; hồi ông ần cư ở Ferney, người tứ phương lại chiêm ngưỡng dung nhan ông như một vị thánh sống ; và lúc về già ông được vua Pháp mời lên Ba lê dự lễ đặt vòng hoa lên tượng của ông trong rạp hát Opéra: Cả thành Ba lê nườm nượp tới đó hoan nghênh ông và những bà quý phái sang trọng, trẻ đẹp nhẩy múa chung quanh tượng bán thân của ông đặt giữa sân khấu.
Viết văn như ông là thành công đến cực độ, vậy mà có lần ông đã phàn nàn:
“…(Hỡi bạn văn), nếu bạn thành công, tức thì kẻ thù xuất hiện: bạn đi trên bờ một vực thẳm, giữa sự khinh bỉ và sự thù hằn”.
Tâm lý số đông là không muốn thấy người khác hơn mình và người nào vượt lên hẳn những người khác tất thành cái đích chung cho thiên hạ nhắm. Vì giọng mỉa mai cay độc của ông cũng có, vì kẻ ghen ghét mà gièm pha cũng có, Voltaire hai lần bị vào tù và biết mấy lần phải chốn chui chốn nhủi, khi ở Cirey, khi ở Ferney. Corneille, Hugo đều bị nhiều văn sĩ bất tài mạt sát, chế giễu ; Đỗ Phủ làm một chức quan nhỏ cũng không yên, tới Lý Bạch cũng có lần bị bắt giam và bị đày ở Dạ Lang. Càng cao danh vọng càng dày gian nan!
Nhà văn, nếu tài tầm thường thì bị khinh bỉ và không mấy người ưa. Người ta khinh bỉ vì nhà văn đã không chức tước gì mà lại nghèo túng, có khi đói rét, quần áo lôi thôi, nhà ở như ổ chuột. Người ta không ưa vì đời sống nhà văn khác thường quá, lấy đêm làm ngày, trong khi mọi người làm việc hãng việc sở thì lăn ra ngủ hoặc thơ thẩn, lang thang, y như một tên du thủ du thực. Rồi còn biết bao nhiêu tật: cà phê phải đặc, trà phải đậm, túi rỗng mà vẫn rung đùi nhắm rượu, thuốc thơm phì phà… Cho nên sống giữa xã hội mà nhà văn gần như cách biệt với xã hội và chỉ có thể thân được với những bạn cùng nghề hoặc với một số người yêu văn.
Vậy thành công hay thất bại, đại đa số văn nhân đều phải chịu cảnh cô độc. Tài nghệ càng cao, càng được ít người hiểu ; tâm hồn càng lạ, càng bị nhiều người chê. Tống Ngọc mỗi khi “ca” được bao nhiêu người “họa”? Lý Bạch đã mấy lần “độc tọa” trong núi để ngắm mây? A de Vigny tự giam mình trong tháp ngà và Hégésippe Moreau than thở đã “ôm cây đờn ngũ huyền mà dạo trong xứ người đui” - tại sao ông không nói “trong xứ người điếc” nhỉ? Cả những nhà văn hòa tâm hồn vào tâm hồn quần chúng, được quần chúng biết ơn và ngưỡng mộ cũng không tránh được cảnh cô độc, vì họ đã làm nghệ sĩ thì tính tình tất có chỗ khác người, tới người thân của họ cũng khó hiểu được họ, nói chi tới người ngoài. Từ nghìn xưa, Aristote đã nhận “không tâm hồn nào ca lên mà không điên khùng ít nhiều”. Mà trong xã hội có ai thích sống với người điên?
Yêu văn thường là phụ nữ và có lẽ như John Galsworthy nói trong chuyện “Chung cục”, mười văn nghệ sĩ có tới bảy tám người, nếu không phải là cả mười, được một người đàn bà khuyến khích, nâng đỡ.
Phụ nữ hiểu văn thường kém, mà viết thường kém hơn nữa – tôi chỉ nói “thường” thôi ạ - nhưng lại rất thích thi văn, mà làm biếng không chịu viết, nên hay khuyến khích chúng ta viết cho họ đọc và họ dễ có cảm tình với nhà văn nhất là nhà thơ.
Hồi đầu chiến tranh, Trần Huyền Trân vào Sài gòn chiếu phim cho một hãng hát bóng ở Tân Định. Một hôm tôi lại thăm ông trong một túp nhà lá đối diện với một chuồng ngựa, trong một ngõ hẻm lầy lội ở Hòa-Hưng. Gia tài ông chỉ có mỗi một chiếc va ly nhỏ chứa bản thảo, ít bộ quần áo và một cái hộp giấy đựng một chiếc khăn thêu. Khăn bằng lụa Hà Đông, màu mỡ gà, rua chung quanh, giữa thêu bằng chỉ đỏ một đoạn văn trong truyện ngắn của ông. Tôi ngắm công trình mỹ thuật ấy, rồi quay lại hỏi:
- Những đêm đông nằm trong túp lều của ông trên mặt hồ, nhờ chiếc khăn mỏng này, chắc ông cũng bớt lạnh đôi phần nhỉ?
Ông mỉm cười:
- Vâng.
Gần đây, tôi lại được thấy một chiếc khăn lụa khác thêu hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương viết thảo.
Một anh bạn thi sĩ bảo tôi:
- Chắc có nhiều những chiếc khăn như vậy lắm. Thi nhân nào mà chẳng có một nàng tiên? Đọc tiểu sử của họ thì biết.
Nghe nói mươi mười lăm năm trước, một nữ sĩ mộ tài tới nỗi để riêng một thư phòng trên lầu đón khách tao nhân ; còn một nữ sĩ khác thì mến một văn sĩ nọ quá và mới gặp nhau lần đầu, đã dặn đi dặn lại: “Bao giờ ông lên Sài gòn đừng quên tôi nhé. Ông cứ lại thẳng nhà tôi. Nhà tôi chỉ có một mình tôi thôi”. Rồi sợ anh chàng kia vẫn chưa hiểu, lại nói rõ thêm: “Tôi chưa có chồng, ông ạ”, làm cho anh chàng đỏ mặt lên.
Tôi nghĩ thời nầy mà còn vậy thì ở cái thời Văn Đường, loại thơ hương liêm [21] cực thịnh, lòng thi sĩ mới ấm làm sao chứ! Ôi, chúa đa tình là cái nòi yêu văn!
Nếu không đứng về phương diện văn hóa mà chỉ xét hạnh phúc của bạn gái thì tôi thấy phụ nữ nên giữ nhiệm vụ khuyến khích nghệ thuật hơn là sáng tác nghệ phẩm. Có nhiều cách khuyến khích. Nếu chồng là văn sĩ – tôi không cầu cho các chị em cái điều đó đâu – nếu chồng là văn sĩ thì có thể, như bà A.Daudet, giúp chồng ý kiến ; hoặc chép bản thảo giùm chồng như bà L. Tolstoi [22]. Nếu chồng không phải là văn sĩ thì tìm hiểu văn nghệ, mỗi tháng để riêng một số tiền mua sách, lựa tác phẩm có giá trị mà đọc, rồi giới thiệu với người quen, dư nhiều tiền thì đặt một giải thưởng văn chương, hoặc mở một nhà xuất bản mà không cần lợi vật chất ; như vậy đã ích cho nước, mà thú vị biết bao!
Còn viết lách thì mệt lắm, mà nhiều khi bực mình nữa. Cho nên tôi không đồng ý với nữ sĩ Hợp Phố khi bà nói như vầy với nữ sinh trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ tho, trong một cuộc triển lãm sách báo do trường tổ chức:
- Các em thấy không? trong giới văn nghệ, chị em chúng mình chiếm một địa vị khiêm tốn quá. Các em sau nầy rán lên nhé?
Rán mà làm chi? “Sáng tác” những em nhỏ mụ mẫm, hồng hào, mắt đen lánh, miệng tươi như hoa, rồi trong khi em ngủ, đọc tiểu thuyết, chẳng thú hơn là bước vào cái nghề kỳ cục, bạc bẽo là nghề viết văn, vò đầu nặn óc để “đẻ” ra những trang mà chỉ sáu tháng sau, đọc là muốn xé vụn, liệng hết vào giỏ rác ư? Rõ là một lời xui dại!
Chú Thích:
[17] Theo And ré Billy, năm 1947 ở Pháp có non bốn chục văn đoàn. Vậy ở Pháp cũng không khác ở ta mấy chút
[18] Tức Vũ hậu: bà cướp ngôi nhà Đường
[19] Trang Đình Lung soạn bộ Minh Sử trong đó nói đến những điều kị húy của tiền thế nhà Thanh ; từ người viết tới người hiệu chỉnh, người in sách, các người tàng trữ, hết thảy bảy chục người bị tội chết, gia sản bị tịch thu, vợ con phải đày
[20] Patriarche nguyên là chức tộc trưởng trong Cựu ước kinh, sau được dùng để chỉ những vị kỳ lão ảnh hưởng lớn tới quốc gia, được quốc dân trọng vọng.
[21] Hương liêm là hộp thơm. Loại thơ hương liêm là loại thơ tình tứ, được phụ nữ giữ trong những hộp son phấn của họ.
[22] Bà A. Daudet rất có khiếu thẩm mỹ, chồng viết xong trang nào bà cũng đọc kỹ rồi phê bình; nhờ những ý kiến đó mà chồng bà đã sửa chữa tác phẩm cho thêm nhẹ nhàng, tế nhị. Bà L. Tolstoi đã có công chép lại cho chồng bảy lần bản đáp bộ “Chiến tranh và Hòa Bình”, một tác phẩm vĩ đại, dày hai ngàn trang. (Đó là hồi bà còn trẻ, chứ hồi về già, vì ghen tuông, bà đã làm cho ông uất hận, khổ não đến nỗi phải bỏ nhà đi rồi chết ở dọc đường).