← Quay lại trang sách

Chương 36

Nếu cho rằng mức độ kinh hoàng mà tâm trí con người có thể nếm trải là hữu hạn thì khả năng cao là ta đã nhầm. Ngược lại, màn đêm càng sâu, càng dày đặc thì một thứ hiệu ứng theo hàm số mũ bắt đầu khởi phát – dù chúng ta chẳng mấy khi muốn chấp nhận, song bằng rất nhiều cách, những gì con người trải qua có xu hướng củng cố quan niệm khi ác mộng đủ tăm tối, kinh hoàng lại càng sinh ra kinh hoàng, và thứ ma quỷ tình cờ ập xuống sẽ dẫn đến một thứ ma quỷ khác, thường oái oăm hơn, nghiệt ngã hơn, cho đến khi đêm đen chừng như khỏa lấp tất cả. Và câu hỏi kinh hoàng nhất có lẽ là rốt cuộc tâm trí con người có thể chịu đựng bao nhiêu kinh hoàng mà vẫn duy trì trạng thái tỉnh táo, cảnh giác và không chùn bước. Chẳng ai nói ra song ai cũng biết những sự kiện như thế hoạt động theo cơ chế tương tác phức tạp và kỳ dị vô cùng. Đến một lúc nào đó, mọi thứ trở nên buồn cười đến lạ. Rất có thể ấy là thời điểm sự tỉnh táo bắt đầu cảnh giác cao độ hoặc oằn mình vụn nát; thời điểm ấy là lúc óc hài hước của con người được dịp lộ mặt.

Louis Creed có thể đã ngẫm ra những điều này nếu anh còn giữ cho đầu óc thông suốt vào tang lễ của cậu con trai Gage William Creed được tổ chức ngày 17 tháng Năm, nhưng chút lý trí – hoặc cố gắng giữ tâm trí sáng suốt — đều đã không cánh mà bay ở sảnh tang lễ, khi trận ẩu đả với bố vợ (rất tồi tệ) dẫn đến một sự kiện còn khủng khiếp hơn, giọt nước làm tràn cái ly họa vô đơn chí khiến chút tự chủ còn sót lại của Rachel nát tan. Những sự kiện đẹp mặt của ngày hôm ấy chỉ kết thúc khi cô vừa hét ỏm tỏi vừa bị lôi đi khỏi Phòng Phía Đông của Nhà Tang lễ Brookings-Smith, nơi Gage nằm im trong chiếc quan tài đóng kín. Cô được Surrendra Hardu cho dùng thuốc an thần trong phòng nghỉ.

Mỉa mai ở chỗ, đáng ra cô không phải kinh qua màn cuối ấy, cái màn vô độ hãi hùng chẳng khác nào truyện tranh ấy nếu trận ẩu đả giữa Louis Creed và ông Irwin Goldman vùng Dearborn xảy ra vào giờ viếng buổi sáng (mười giờ sáng đến mười một giờ ba mươi phút trưa) thay vì giờ viếng chiều (hai giờ chiều đến ba giờ ba mươi phút chiều). Rachel không có mặt vào giờ viếng buổi sáng; đơn giản vì cô không thể đến được. Cô ngồi ở nhà cùng ông Jud Crandall và Steve Masterton. Louis chẳng rõ nếu không có ông Jud và Steve thì anh biết xoay xở ra sao suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ vừa qua.

Cũng may cho Louis – và may cho cả ba người nhà anh – khi Steve tức tốc xuất hiện, vì đương lúc tang gia bối rối, Louis chẳng còn quyết định được gì, ngay cả một điều cỏn con như tiêm cho vợ liều thuốc để xoa dịu nỗi đau đứt từng khúc ruột kia. Louis thậm chí còn không để ý Rachel định mặc áo ở nhà cài lệch nút đi đến buỗi lễ viếng vào buổi sáng. Tóc cô không chải, chưa gội, rối xù. Đôi mắt nâu trống rỗng, lồi ra từ hốc mắt trũng sâu đến độ chẳng khác nào hai con ngươi của hộp sọ. Da mặt cô bủng beo, bệu rệu. Sáng hôm ấy, cô ngồi vào bàn ăn, gặm lát bánh mỳ không phết bơ và nói những câu chẳng ra đầu ra đũa, râu ông nọ cắm cằm bà kia. Có một lúc, bỗng dưng cất tiếng, “Chiếc xe Winnebago mà anh muốn mua ấy, Lou…” Lần cuối Louis đề cập đến chuyện mua xe Winnebago là vào năm 1981.

Louis chỉ gật đầu rồi ăn tiếp bữa sáng. Anh ăn tố ngũ cốc Cocoa Bears. Đây là một trong những loại ngũ cốc ưa thích của Gage, và sáng hôm ấy, Louis tự dưng muốn ăn. Chúng dở tệ song anh vẫn muốn ăn. Anh ăn vận gọn gàng trong bộ vest tốt nhất – không phải vest đen vì anh chẳng có bộ nào màu đen, nhưng chỉ ít nó có màu xám than đậm. Anh đã cạo râu, gội đầu và chải đầu. Bề ngoài của anh trông rất ổn dù đầu óc mụ mị vì mất con.

Ellie mặc quần jean xanh và áo cánh vàng. Cô bé cầm theo một bức hình ra bàn ăn. Đừng hòng bất cứ ai giật được tấm ảnh khỏi tay cô bé. Bức hình phóng to một bức ảnh Polaroid mà Rachel dùng máy ảnh SX-70 mà Louis và hai con tặng cô nhân dịp sinh nhật năm ngoái, chụp Gage đang cười ngoác miệng, mặc áo khoác trượt tuyết Sears, ngồi trên máng trượt tuyết Speedaway do Ellie kéo. Rachel bắt đúng khoảnh khắc Ellie ngoái đầu ra sau vai, mỉm cười với Gage. Gage toét miệng cười với chị gái.

Ellie cầm theo bức hình nhưng chẳng nói gì. Tựa hồ cái chết của em trai ngay con đường trước cửa nhà đã khiến cô bé bàng hoàng đến á khẩu.

Louis không thấy được tình trạng của vợ và con gái; anh ăn sáng, tâm trí cứ tái đi tái lại khung cảnh tai nạn, chỉ khác ở chỗ kết thúc của bộ phim trong đầu anh lại khác. Ở đó, anh nhanh tay hơn, và tất cả những gì xảy ra là Gage ăn một trận đòn nhớ đời vì cái tội không dừng lại khi bố mẹ la lên.

Steve là người để ý đến tình trạng của Rachel và Ellie. Anh không cho phép Rachel đến buổi lễ viếng vào buổi sáng (gọi là lễ viếng để nhìn mặt lần cuối nhưng thật ra không phải vậy, quan tài đóng kín; Louis nghĩ nếu quan tài mở nắp thì có lẽ cả nhà anh sẽ vừa hét vừa bỏ chạy khỏi căn phòng ấy mất, kể cả anh) và cấm cả Ellie tham dự. Rachel kịch liệt phản đối. Ellie chỉ ngồi thừ ra đó, chẳng nói chẳng rằng, tay cầm bức hình chụp hai chị em.

Steve cũng là người tiêm cho Rachel mũi an thần và cho Ellie uống một muỗng chất lỏng không màu. Bình thường, Ellie hay càu nhàu và phản đối khi bị bắt uống thuốc – bất kể loại thuốc nào – thế mà giờ cô bé chỉ im lặng uống, thậm chí còn không nhăn mặt. Đến mười giờ sáng, cô bé đã ngủ say trên giường (bức hình chụp hai chị em vẫn giữ chặt trong tay), còn Rachel ngồi trước ti vi xem chương trình Chiếc nón kỳ diệu . Cô đáp lại những câu hỏi của Steve một cách chậm rãi, cân nhắc và bình tĩnh. Cô đang chịu tác dụng của thuốc – được cái khuôn mặt cô đã không còn vẻ điên dại trầm mặc khiến viên trợ lý bác sĩ đến vào lúc tám giờ mười lăm phút sáng lo lắng và hoảng hốt nữa.

Tất nhiên ông Jud là người đứng ra quán xuyến từ đầu chỉ cuối. Ông thu vén một các bình tĩnh, gọn gàng như ba tháng trước, lúc tổ chức hậu sự cho vợ. Nhưng Steve Masterton là người đã kéo Louis sang một bên ngay trước khi Louis đi đến nhà tang lễ.

“Tôi sẽ kiểm tra xem cô ấy có đến dự được chiều nay không, nếu cô ấy đủ sức chịu đựng,” anh nói với Louis.

“Được.”

“Lúc đó chắc mũi tiêm đã hết tác dụng rồi. Ông Crandall bạn anh bảo ông ấy sẽ theo sát Ellie trong giờ thăm viếng buổi chiều...”

“Ừ.”

“… và chơi cờ tỷ phú hay gì đó với cô bé…”

“Ừ hử.”

“Nhưng…”

“Được.”

Steve ngừng nói. Hai người đang đứng trong ga ra, nơi Church tác oai tác quái, nơi nó tha xác chim và chuột chết về. Những con vật thuộc quyền sở hữu của Louis. Bên ngoài, trời tháng Năm tỏa nắng, một con chim cổ đỏ bay vụt qua ở đầu đường như thể vội đi công chuyện đâu đó.

“Louis,” Steve lên tiếng, “anh phải giữ vững tinh thần nhé.”

Louis nhìn Steve thắc mắc một cách lịch sự. Đa phần những gì Steve nói chẳng lọt vào tai anh – anh chỉ đang đau đáu suy nghĩ phải chỉ anh nhanh chân hơn một chút thì đã có thể cứu được con trai mình – nhưng lời cuối cùng đã đến đích.

“Tôi đoán có lẽ anh không để ý,” Steve nói, “nhưng Ellie lầm lì chẳng nói gì, dù chỉ một lời. Còn Rachel sốc đến mức khái niệm về thời gian của cô ấy vẹo vọ cả rồi.”

“Đúng thật!” Louis đáp. Câu trả lời xem chừng dồn nhiều lực hơn. Anh chẳng rõ tại sao.

Steve đặt tay lên vai Louis. “Lou,” anh nói, “lúc này, hai mẹ con cần anh hơn bao giờ hết. Làm ơn đi… tôi có thể tiêm cho vợ anh, nhưng… anh… tôi bảo này, Louis, anh phải… ôi Chúa ơi, Louis, ai mà ngờ kiếp nạn này lại ập xuống kia chứ!”

Louis có phần hốt hoảng nhận ra Steve sắp sửa rơi nước mắt. “Đúng rồi,” anh nói, và trong tâm trí mình, anh trông thấy Gage chạy băng qua bãi cỏ ra ngoài đường, hai vợ chồng anh hét to gọi con quay lại nhưng Gage không chịu. Dạo gần đây, thằng bé nảy ra trò chạy trốn khỏi bố mẹ, thế là họ đuổi theo cậu bé, Louis mau chóng vượt qua Rachel, nhưng Gage chạy trước một đoạn dài, cậu bé cười nắc nẻ, phóng như bay, trò chơi là thế mà, Louis rút ngắn được khoảng cách song vẫn quá chậm, Gage đã chạy xuống con dốc thoại thoải của bãi cỏ dẫn đến rìa Tuyến số 15, Louis thầm cầu khấn với Chúa Gage sẽ vấp té, khi con nít chạy, thể nào chúng cũng ngã vì phải lên bảy, tám tuổi, con người mới kiểm soát tốt đôi chân của mình. Louis cầu Chúa cho Gage ngã, ngã đánh rầm, phải, ngã máu me bê bết, gãy mũi, phải khâu vài vết lên đầu hay bất cứ gì cũng được, vì giờ anh có thể nghe thấy tiếng xe bồn rầm rập lao tới, một trong những chiếc xe tải khổng lồ có mười bánh thường xuyên đi đi về về giữa Bangor và nhà máy Orinco ở Bucksport; lúc ấy, anh đã gào thét tên của Gage, anh tin rằng Gage nghe thấy tiếng anh gọi và cố dừng lại. Dường như Gage nhận ra trò chơi đã kết thúc, rằng bố mẹ không hét vào mặt con nếu chỉ đang chơi trò chơi, hẳn cậu bé đã cố phanh lại, đến lúc đó, tiếng chiếc xe tải đã to lắm rồi, tiếng động choáng ngợp hết không gian. Tựa tiếng sấm rền. Louis lao thẳng người ra trước, bóng đổ dài dưới đất, tựa bóng con diều Kền Kền quét xuống bãi cỏ cuối đông trắng toát trên mảnh đất nhà bà Vinton tháng Ba năm ấy, và anh tin (dù không chắc) đầu ngón tay của anh thực sự đã sượt qua vạt áo khoác mỏng mà Gage mặc, nhưng rồi động lượng đã kéo Gage ra ngoài đường, còn chiếc xe tải ấy là sấm động, là ánh mặt trời phản chiếu trên bề mặt hợp chất sắt pha nhiều chrome, chiếc xe là tiếng còi hụ rít ré chói tai, và sự kiện ấy ập xuống vào thứ Bảy, tức ba ngày trước.

“Tôi ổn,” anh nói với Steve. “Giờ tôi phải đi thôi.”

“Nếu anh giữ được tinh thần và giúp hai mẹ con,” Steve ôn tồn, đưa tay áo khoác lên quệt mắt, “tức là anh cũng giúp bản thân mình. Ba người phải gắng dìu nhau qua biến cố này, Louis. Đó là cách duy nhất. Chúng ta chỉ biết mỗi thế mà thôi.”

“Đúng thật,” Louis gật gù, nhưng rồi trong tâm trí anh, mọi thứ lại một lần nữa tái hiện, chỉ có điều, lần này ở đoạn cuối, anh lao người tới trước thêm được sáu mươi phân, giật áo của Gage, kéo cậu con trai trở lại, và những điều này sẽ chẳng xảy ra.

Ellie bỏ lỡ cảnh ẩu đả ở Phòng Đông Nhà Tang lễ BrookingsSmith nhưng Rachel thì chứng kiến từ đầu chỉ cuối. Lúc trận xô xát nổ ra, Ellie đang vô hồn – và lặng thinh – đẩy quân cờ tỷ phủ của mình quanh bảng trò chơi với ông Jud Crandall. Một tay, cô bé lắc xúc xắc, tay còn lại nắm chặt bức hình chụp cô bé kéo Gage trên chiếc xe trượt Speedaway.

Sau hồi suy xét, Steve Masterton nghĩ để Rachel tham dự lễ viếng ban chiều – nhưng sau khi chuyện ngã ngũ, hóa ra quyết định này lại tai hại hết chỗ nói.

Sáng hôm ấy, ông bà Goldman từ Chicago bay đến Bangor và ở Nhà nghỉ Holiday trên đường Odlin. Tính đến buổi trưa, bố của Rachel đã gọi bốn cuộc điện thoại, và càng lúc, Steve càng phải cứng với ông cụ – đến cuộc gọi thứ tư thì thiếu điều giở giọng dọa nạt. Bởi ông Irwin Goldman muốn ra mặt và theo lời ông, trời long đất lở cũng đừng hòng cản ông ở bên con gái khi cô cần nhất. Steve đáp trước khi đến nhà tang lễ, Rachel cần khoảng thời gian này để vượt qua phần nào cú sốc ban đầu. Anh nói anh chẳng biết trời long đất lở thế nào, nhưng anh biết một tay trợ lý y tá người Thụy Điển – Hoa Kỳ kiên quyết không cho phép bất cứ ai bước vào nhà Creed cho đến khi Rachel chủ động ra mặt. Steve cho hay anh sẽ rất ủng hộ họ hàng thể hiện sự chia buồn, đùm bọc sau khi buổi lễ viếng ban chiều kết thúc. Song cho tới lúc ấy, anh muốn có được yên tĩnh một mình.

Ông cụ rủa xã anh bằng tiếng Yiddish rồi dập máy đánh rầm, dứt luôn cuộc điện thoại. Steve dợi xem ông Goldman có xuất hiện hay không, nhưng xem ra ông cụ đã quyết định kiên nhẫn chờ. Đến trưa, tinh thần Rachel có vẻ cải thiện chút đỉnh. Chí ít cô cũng ý thức được khung thời gian hiện tại, thể là cô đi vào bếp để kiểm tra xem có chuẩn bị sẵn sandwich hay món gì cho lát nữa hay chưa. Biết đâu sau khi nghi lễ xong xuôi, mọi người muốn quay về nhà thì sao? Cô hỏi Steve.

Steve gật đầu.

Chẳng xúc xích hun khỏi hay thịt bò nướng đông, nhưng trong tủ đá có sẵn gà tây Butterball, vậy nên cô đặt nó lên giá để rã đông. Vài phút sau, Steve ló đầu vào nhà bếp thì thấy cô đứng cạnh bồn rửa chén, ngẩn ra nhìn con gà tây trên giá, nước mắt giàn giụa.

“Rachel?”

Cô nhìn về phía Steve. “Lúc còn sống, Gage thích mê món này. Món khoái khẩu của thằng bé là thịt trắng.” Cô uể oải nở nụ cười buồn rười rượi. “Chỉ là tôi chợt nghĩ thằng bé chẳng bao giờ còn cơ hội thưởng thức thêm món gà tây Butterball nào nữa.”

Steve đưa cô lên tầng trên để thay quần áo – bài kiểm tra cuối cùng xem cô có đủ sức đối mặt hay không – và khi cô bước xuống với chiếc váy đen giản dị, thắt lưng quanh co, túi cầm tay màu đen (còn là loại túi cho buổi đêm nữa chứ), Steve nhận định cô đã ổn, ông Jud cũng đồng tình như thế.

Steve chở cô xuống thị trấn. Anh đứng với Surrendra Hardu trong sảnh Phòng Đông, nhìn Rachel lướt dọc lối đi dẫn đến quan tài ngập trong hoa tựa vong hồn.

“Tình hình thế nào, Steve?” Surrendra khẽ hỏi,

“Tệ vãi linh hồn,” Steve khăn giọng đáp, “Chứ anh nghĩ tỉnh hình thể nào?”

“Tôi cũng nghĩ chắc tệ đến vãi linh hồn,” Surrendra nói rối thở dài.

Rắc rối bắt đầu châm ngòi vào buổi lễ viếng ban sáng, khi ông Irwin Goldman từ chối bắt tay với anh con rể.

Đông đảo thân hữu và họ hàng hiện diện đã buộc Louis phần nào thoát khỏi mớ bòng bong của bàng hoàng; buộc anh phải nhận thức tình hình hiện tại cũng như giữ vẻ ngoài cứng cáp. Nỗi đau trong anh đã chạm đến mức có thể uốn nắn, giai đoạn mà các trưởng nhà tang lễ đã quá quen xử lý và xoay chuyển sao cho thuận tiện nhất. Ai bảo gì, Louis làm theo như quân cờ.

Bên ngoài Phòng Đông là căn phòng nghỉ nhỏ cho mọi người hút thuốc và ngồi trên những chiếc ghế êm ái, thoải mái. Bộ ghế trống như thể vừa bước ra từ một dịp Bán Thanh Lý của hội quán các quý ông Anh Quốc đã phá sản. Bên cạnh cánh cửa dẫn vào phòng làm lễ viếng có một khung kim loại nhỏ màu đen chạm khắc vàng, bên trên khung gác tấm biển nhỏ đề vỏn vẹn GAGE WILLIAM CREED. Nếu tình cờ đến tòa nhà màu trắng rộng thênh thang trông chẳng khác nào một căn nhà cũ đầy thoải mái này, đi thẳng tới phòng nghỉ giống như thế nhưng nằm bên ngoài Phòng Tây, ta sẽ bắt gặp tấm biển trên khung kim loại đề ALBERTA BURNHAM NEDEAU. Gian đằng sau căn nhà là Phòng Trước Sông. Khung kim loại bên trái cánh cửa giữa phòng nghỉ và căn phòng này không đề gì; sáng thứ Ba ấy, nó không được sử dụng. Tầng dưới là gian trưng bày quan tài, mỗi cái lại được chiếu sáng bằng ngọn đèn con gắn trên trần nhà. Nếu ngước lên nhìn – Louis đã làm thế và bị ông tổng tổ chức tang lễ chau mày nhìn – trông chẳng khác nào cả đàn động vật kỳ khôi đang làm tổ trên đó.

Ông Jud đến đây cùng anh vào Chủ nhật, sau khi Gage mất một hôm để chọn quan tài. Họ đi xuống tầng dưới, và thay vì rẽ phải ngay lập tức vào phòng trưng bày hòm, Louis sững sờ cử thế đi thẳng xuống hành lang về phía cánh cửa xoay trắng toát, loại cửa hay nối giữa phòng ăn nhà hàng và gian bếp. Cả ông Jud và ông tổng tổ chức tang lễ vội vàng đồng thanh, “Không phải lối đó,” và Louis ngoan ngoãn nghe lời lùi khỏi cửa xoay. Song anh biết đằng sau cánh cửa ấy là gì. Chú của anh vốn làm dịch vụ tang lễ.

Phòng Đông trang bị những dãy ghế gấp được xếp ngay ngắn – loại ghế đắt tiền với đệm và lưng ghế lót vải lông êm ái. Ở đằng trước, chỗ khu vực trông như gian giữa giáo đường và hang hốc kết hợp đặt quan tài của Gage. Louis chọn mẫu quan tài gỗ hồng mộc của Công ty Quan tài Hoa Kỳ – tên của mẫu này là An Giấc Ngàn Thu. Bên trong lót lớp lụa hồng mịn. Nhân viên dịch vụ tang lễ đồng tình rằng quan tài thật sự rất đẹp và cũng xin lỗi khi không có mẫu quan tài lót vải xanh. Louis đáp anh và Rachel chưa bao giờ phân biệt điểm này. Nhân viên gật đầu, đoạn hỏi Louis có tính đến phương thức thanh toán chi phí cho đám tang của Gage hay chưa. Anh ta cho biết nếu chưa thì anh có thể đưa Louis vào văn phòng và giới thiệu sơ lược về ba phương án phổ biến của phía họ…

Trong tâm trí của Louis, bỗng dưng một tay phát thanh viên hoan hi hố váng lên: Mình vớ được quan tài miễn phí cho con rồi, nhờ đôi phiếu giảm giá Raleigh!

Cảm thấy mình tựa như tạo vật trong giấc mơ, anh cất tiếng: “Tôi sẽ trả tất tần tật bằng thẻ MasterCharge.”

“Được,” tay nhân viên dịch vụ tang lễ đáp.

Quan tài dài chưa tới một mét hai — cứ như hòm cho người lùn. Ấy thể mà giá lại hơn sáu trăm đô-la. Louis đoán nó tựa trên dàn khung, nhưng hoa hoét trang trí cản tầm nhìn mà anh cũng không muốn đến quá gần. Mùi của đống hoa ấy khiến anh muốn mửa.

Ở cuối lối đi, ngay bên trong cánh cửa dẫn vào phòng nghỉ có trưng một cuốn sổ đặt trên giá cùng cây bút bi được nối bằng xích vào giá. Ông tổng tổ chức lễ tang bố trí cho Louis đứng ngay vị trí này để anh có thể “chào hỏi thân hữu và họ hàng”.

Thân hữu cùng họ hàng sẽ ký tên và ghi rõ địa chỉ vào cuốn sổ này. Louis chẳng rõ mục đích của tập tục điên khùng này là gì nhưng anh cũng chẳng hỏi. Anh đoán khi tang lễ kết thúc, anh và Rachel sẽ phải giữ cuốn sổ này. Trong tất thảy mọi thứ, đây là điều rồ dại nhất. Anh còn giữ cuốn kỷ yếu trung học, kỷ yếu đại học, kỷ yếu trường Y; anh còn giữ cả cuốn ảnh cưới với dòng chữ NGÀY CƯỚI CỦA TÔI đóng bằng vàng lá giả trên da giả, với bức ảnh đầu tiên chụp Rachel thử mạng che mặt cô dâu trước gương vào buổi sáng ngày trọng đại ấy với sự giúp đỡ của mẹ, còn bức ảnh cuối cùng chụp hai đôi giày để bên ngoài cửa phòng khách sạn đóng kín. Anh cũng có một cuốn sổ bé bi cho Ellie – tuy nhiên hai vợ chồng cũng đến là mệt khi suốt ngày phải nhét thêm ảnh vào; sổ dành ra chỗ trống cho những mục như LẦN CẮT TÓC ĐẦU TIÊN CỦA BÉ (chêm một lọn tóc của đứa trẻ) và ÚI DA! (chêm hình cô nhóc ngã đập mông), từ đầu chí cuối dễ thương quá mức chịu đựng!

Đấy, và cuốn sổ này góp mặt vào những cuốn đó. Chúng ta sẽ gọi nó là gì nhỉ? Louis tự hỏi khi đờ người đứng cạnh giá, chờ bữa tiệc bắt đầu. SỔ TỬ CỦA BÉ: CHỮ KÝ ĐÁM TANG? NGÀY GIA ĐÌNH HẠ HUYỆT GAGE. Hay một cái tên nghe nghiêm trang hơn, như NGƯỜI VỀ CÕI HƯ VÔ?

Anh lật ra xem bìa cuốn sổ thì trông thấy hóa ra nó cũng tương tự bìa cuốn sổ NGÀY CƯỚI CỦA TÔI, được giả da.

Song bìa sổ trống trơn.

Cũng tương đối dễ đoán khi Missy Dandridge là người đầu tiên đến viếng vào buổi sáng hôm ấy, bởi cô hàng xóm Missy tốt bụng đã trông Ellie và Gage hàng chục lần. Bất chợt, Louis vô tình nhớ lại Missy là người đã trông con hộ anh vào đêm Victor Pascow qua đời. Cô trông cả hai đứa, còn Rachel đã làm tình với anh, đầu tiên là trong bồn tắm, sau đó là trên giường.

Trước đó Missy đã khóc, khóc như mưa, và khi trông thấy khuôn mặt bình thản, lặng lẽ của Louis, cô lại òa lên nức nở, hai tay vươn về phía anh – như muốn bấu víu vào anh. Louis ôm cô, ngộ ra thông thường mọi thứ là thế, hoặc đáng lý sẽ là thế – con người ta san sẻ với nhau, xới cho lớp đất cứng quèo của mất mát tơi ra, trút bỏ nó, phá vỡ khối đá bàng hoàng bằng sức nóng của đau buồn.

Tôi thành thật chia buồn, Missy nói, gạt mớ tóc vàng sậm ra khỏi khuôn mặt xanh xao. Thằng bé ngoan ngoãn và đáng yêu là thế. Tôi thương thằng bé lắm, Louis ạ, tôi rất tiếc, con đường ấy ác nghiệt quá. Tôi mong người ta tống tay tài xế xe tải ấy vào tù mọt gông, bắn phóng nhanh quá, thằng bé ngoan ngoãn là thế, đáng yêu là thế, Chúa nỡ lòng nào bắt Gage đi kia chứ, tôi thật không tỏ, chúng ta chẳng thể nào hiểu nổi phải không, nhưng tôi rất rất lấy làm tiếc, rất tiếc.

Louis vỗ về cho cô nguôi ngoai, ôm cô, rồi lại vỗ về. Anh cảm nhận lệ cô ướt đẫm nơi cổ áo. Cảm nhận khuôn ngực của cô áp vào người anh. Cô hỏi Rachel đâu và Louis đáp Rachel đang nghỉ ngơi. Missy chân thành muốn gặp vợ anh, cô cũng cho hay cô sẵn lòng ngồi với Ellie bất cứ lúc nào, lâu chừng nào cũng được. Louis nói cảm ơn cô.

Cô bắt đầu bước đi, vẫn sụt sịt, hai mắt đỏ ngầu hơn bao giờ hết, lộ ra trên chiếc khăn mùi xoa màu đen. Cô đang bước đến quan tài thì Louis gọi cô quay lại. Ông tổng tổ chức tang lễ mà Louis chẳng tài nào nhớ nổi tên đã dặn anh phải nhắc mọi người ký tên vào sổ nên anh không làm theo thì không được.

Vị khách bí ẩn, xin mời ký tên, anh thầm nhủ và suýt chút nữa đã không nhịn được mà phá lên cười ha hả.

Chính đôi mắt u sầu, nát tan cõi lòng của Missy đã xua tan đi cơn cười ấy.

“Missy, nhờ cô ký vào cuốn sổ hộ tôi nhé?” Anh hỏi, và vì câu nói cứ cụt lủn thế nào đấy, anh để thêm: “Cho Rachel.”

“Vâng, để tôi ký,” cô đáp. “Thương anh và Rachel quá.” Bỗng dưng Louis biết cô ấy sắp sửa nói gì, và vì lý do nào đó, anh sợ khủng khiếp; nhưng lời nói ấy sắp sửa thốt lên rồi, chẳng tránh được, tựa viên đạn đen đúa trong nòng súng cỡ lớn của kẻ sát nhân, anh biết anh sẽ bị viên đạn ấy nã vào người hết lần này đến lần khác trong chín mươi phút dùng đặc sắp tới, nồi phải chịu trận thềm buổi chiều trong khi những vết thương của buổi sáng còn rỉ máu.

“Tạ ơn Chúa cậu bé không đau đớn gì, Louis ạ. Chí ít nó xảy ra nhanh.”

Phải, nó xảy ra nhanh lắm, đúng rồi , anh định nói với cô như thế − à, đảm bảo nó sẽ khiến khuôn mặt cô tan nát thêm lần nữa cho mà xem, trong anh chực trào thôi thúc muốn cất tiếng, muốn xả những ngôn từ ấy vào mặt cô. Nó xảy ra nhanh lắm, chứ còn gì nữa, đó là lý do quan tài đóng nắp đấy, và ngay cả khi Rachel và tôi đồng ý với việc ăn vận cho người thân đã qua đời sao cho tươm tất như ma nơ canh trong trung tâm thương mại, rồi nào là tô son, trát cả lớp phấn và họa lên mặt chăng nữa, họ vẫn không làm được gì nhiều với trường hợp của Gage. Nhanh lắm, thưa cô Mixy yêu quý phút trước thằng bé còn đứng trên đường, thế mà phút sau thằng bé đã nằm dưới đường nhưng bị lôi xuống tít nhà Ringers. Xe tông con trai tôi, giết nó rồi kéo lê nó, cô cứ tin nó xảy ra chóng vánh đi. Tổng cộng cả trăm mét là ít, bằng chiều dài của một sân bóng bầu dục. Tôi cuống cuồng chạy theo, Misy ạ, tôi hét tên con tôi hết lần này đến lần khác, tựa như tôi kỳ vọng thằng bé còn sống, trong khi tôi đường đường là một bác sĩ. Tôi chạy chừng mười mét thì thấy mũ bóng chày của con tôi, tôi chạy hai mươi mét thì thấy một chiếc giày thể thao Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao của nó, đến lúc tôi chạy được bốn mươi mét thì chiếc xe tải đã chệch khỏi đường, thùng xe gãy gập trong mảnh đất đằng nông trại nhà Ringer. Người dân đổ xô ra từ trong nhà, còn tôi cứ thế thét gào tên thằng bé, Missy ạ, và đến vạch năm mươi mét thì tôi thấy áo thằng bé bị lộn trái, đến vạch bảy mươi mét thì thấy thêm chiếc giày bên kia, sau đó mới thấy Gage.

Bỗng dưng đất trời nhuốm màu xám xịt. Mọi thứ vụt khỏi tầm mắt. Anh chỉ lờ mờ cảm nhận được góc cạnh của khung dựng cuốn số dang cấn chặt vào lòng bàn tay, nhưng chỉ có thể.

“Louis?” Giọng của Missy. Văng vắng xa xôi. Tiếng bổ câu bí ẩn vang lên trong tai anh.

“Louis?” Gần hơn rồi. Nghe chừng thảng thốt.

Khung cảnh cô lại thành hình.

“Anh ổn chứ?”

Anh mỉm cười. “Ổn mà,” anh đáp. “Tôi không sao, Missy ạ.”

Cô ký cho cả hai vợ chồng – Vợ Chồng nhà David Dandridge – bằng nét chữ tròn theo kiểu Palmer; đoạn có bổ sung cả địa chỉ, Rural Box 67, Đường Bucksport Cũ, rồi cô liếc mắt lên nhìn Louis và vội vàng cúi xuống, tựa hồ địa chỉ nằm ngay trên con đường nơi Gage thiệt mạng của nhà cô cấu thành tội ác.

“Anh vững vàng nhé, Louis,” cô thì thầm.

David Dandridge bắt tay anh rồi lẩm bẩm điều gì đó không rõ, yết hầu nổi bật nhìn như đầu mũi tên giật lên giật xuống. Đoạn anh này hối hả rảo bước theo vợ dọc lối đi để thực hiện nghi lễ viếng linh cữu vốn được đóng ở Storyville, Ohio, một nơi Gage chưa từng đến mà cũng chẳng có ai quen biết.

Sau hai vợ chồng nhà Dandridge, người ta dần đến viếng, rồng rắn di chuyển thành hàng, Louis chào hỏi khách, nhận những cái nắm tay, những cái ôm và những giọt nước mắt. Cổ áo và ống tay áo trên của chiếc áo vest màu xám sậm của anh dần dà ẩm hẳn. Hương hoa vươn tới tận cuối phòng, toan thấm đẫm nơi này bằng thứ mùi của tang lễ. Đó là thứ mùi mà anh vẫn nhớ từ thuở ấu thơ – thử mùi hoa tang tóc, Louis thầm đếm trong bụng số lần người ta nói với anh là cũng còn may khi Gage không phải chịu đau đớn nhiều tổng cộng là ba mươi hai lần. Người ta an ủi anh Chúa hành động theo những cách bí ẩn phép lạ của Người rồi sẽ hiển lộ tổng cộng hai mươi lăm lần. Câu chốt hạ là giờ cậu bé đang ở cùng các thiên thần : tổng cộng mười hai lần.

Con giun xéo lắm cũng quần. Thường thì nghe mãi, những câu cách ngôn ấy sẽ mất đi chút ý nghĩa hững hờ (giống như khi ta cứ lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác tên mình, một hồi sau nó chẳng còn ý nghĩa và nhân dạng gì), nhưng lần này thì không, càng nghe, chúng càng thụi sâu hơn, đâm chọc vào lục phủ ngũ tạng. Đến lúc bố mẹ vợ anh xuất hiện như một lẽ tất nhiên, anh cảm thấy như gã đấu sĩ bị đập tơi bời hoa lá.

Suy nghĩ đầu tiên của anh là Rachel nói đúng và rằng ông Irwin Goldman quả thật già sọm hẳn. Ông ấy – bao nhiêu nhỉ? Năm mươi tám? Năm mươi chín? – thế mà hôm nay trông chẳng khác nào ông cụ thất thập với khuôn mặt in hằn và lãnh đạm. Thật ngộ, ông trông giống y như Menachem Begin, thủ tướng của Israel với mái đầu hói và cặp kính dày như đít chai. Sau chuyến thăm vào dịp lễ Tạ ơn, Rachel đã kể với anh rằng ông già hẳn đi thế nào, nhưng Louis không tưởng được tình hình lại đến mức này. Anh thầm nhủ, hẳn là vào dịp lễ Tạ ơn, tình hình chưa tệ đến thế. Vào dịp lễ ấy, ông cụ chưa mất đi một trong hai đứa cháu ngoại.

Bà Dory bước đi ngay bên cạnh, khuôn mặt gần như khỏa lấp dưới hai – hoặc có thể là ba – lớp mạng đen dày. Tóc bà nhuộm màu xanh thời thượng, thức màu mà các bà các mẹ tầng lớp thượng lưu Mỹ ưa chuộng. Bà nắm lấy cánh tay chồng. Tất cả những gì Louis có thể thấy đằng sau mạng che là hàng lệ lấp lánh.

Bất chợt anh tự nhủ đã đến lúc gác lại dĩ vãng. Anh chẳng thể nào giữ mối thù xưa ấy lâu thêm nữa. Bỗng dưng sao nó nặng nề quá. Có lẽ đó là sức nặng của bao lời sáo ngữ này gộp lại.

“Bố, mẹ,” anh thì thầm. “Cảm ơn hai người đã đến.”

Anh làm động tác đưa tay lên như thể muốn bắt tay bố vợ và ôm mẹ vợ cùng một lúc, hoặc có khi để ôm cả hai người bọn họ. Nhưng dù thế nào, ấy là lần đầu tiên anh cảm thấy lệ hoen mi, và trong một khắc, một suy nghĩ điên rồ vụt qua đầu anh, rằng họ có thể hàn gắn mối quan hệ, rằng Gage mất đi nhưng chí ít cũng giúp hai bên gác lại chuyện xưa, như thể đây là nội dung của cuốn tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ mà anh từng đọc qua, trong đó người ra đi giúp người ở lại cởi bỏ thù hằn, trong đó cái chết có thể là nguồn cơn cho thứ nâng đỡ tâm hồn hơn cơn đau vô cùng tận, ngu xuẩn, dằn vặt dai dẳng bấy lâu nay.

Dory tiến lại chỗ anh, toan vươn tay tới. Bà lẩm bẩm “Ôi, Louis ơi…” và thì thầm gì đó không rõ – thì ông Goldman kéo vợ lại. Trong thoáng chốc, cả ba người bọn họ đứng trong một hoạt cảnh mà chỉ người trong cuộc mới thấy (có lẽ có thêm ông tổng tổ chức tang lễ đang lặng lẽ đứng trong góc Phòng Đông cũng mục kích thấy – Louis đoán cậu Carl mà có ở đây thể nào cũng để ý cho xem), Louis đang dang tay ra, còn ông Irwin và bà Dory Goldman đứng khựng lại, cứng đờ như hai con búp bê cắm trên bánh cưới.

Louis thấy trong mắt ông bố vợ chẳng có nổi một giọt nước mắt; đôi mắt ráo hoảnh, quắc lên căm ghét. ( Ông ta nghĩ mình giết Gage để chọc tức ông ta chắc? Louis thầm nhủ.) Hai con mắt ấy như đang dò xét anh, như khinh khỉnh anh là kẻ ti tiện, nhỏ mọn ngày trước từng cuỗm cô con gái của ông ta để giờ đây đẩy cô vào nỗi đau khốn cùng này… và rồi đôi mắt ấy gạt anh đi. Ánh mắt ông chuyển sang phía bên trái của Louis – hay nói đúng hơn là về phía quan tài của Gage – chỉ khi ấy chúng mới dịu lại.

Nhưng Louis vẫn dĩ hòa vi quý nốt cú chót, “Bố,” anh nói. “Mẹ. Con xin hai người. Chúng ta phải sát cánh bên nhau để vượt qua cơn bĩ cực này.”

“Louis,” bà Dory cất tiếng, anh cảm nhận được sự dịu dàng trong giọng nói ấy, nhưng rồi họ cứ thế bước ngang qua anh, có lẽ ông Irwin Goldman đang kéo vợ đi mà chẳng liếc sang trái hay nhìn sang phải, và hẳn nhiên, còn khuya mới ghé mắt đến Louis Creed. Họ tiến đến quan tài, ông Goldman lục túi áo lôi ra một chiếc mũ chỏm nhỏ màu đen.

Hai người không ký sổ, Louis nhủ thầm trong bụng, và bất thình lình, dịch vị cay sè trào lên trong thực quản khiến anh nhăn mặt vì đau.

Lễ viếng buổi sáng cuối cùng cũng kết thúc. Louis gọi về nhà thì ông Jud nhấc máy, hỏi thăm tình hình thế nào. Ổn cả ạ, Louis đáp. Anh nhờ ông Jud chuyển máy cho Steve.

“Nếu cô ấy đủ sức sửa soạn tươm tất, tôi sẽ để cô ấy tham dự lễ ban chiều,” Steve nói. “Anh thấy vậy được không?”

“Được,” Louis đồng ý.

“Anh sao rồi, Lou? Nói luôn cho nó vuông chứ chẳng vòng vo làm gì – anh sao rồi?”

“Tôi ổn,” Louis vắn tắt. “Cố gồng” Tôi đã nói với tất cả khách đến viếng ký vào cuốn sổ. Tất cả, ngoại trừ bà Dory và ông Irwin, họ không chịu ký

“Được rồi,” Steve nói. “Này, mình gặp nhau ăn trưa được không?”

Bữa trưa. Gặp nhau ăn trưa. Câu đề nghị ấy chẳng khác nào một ý kiến dị thường, khiến Louis nghĩ đến những cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng mà anh đọc vào thời niên thiếu – những cuốn tiểu thuyết của Robert Heinlein, Murray Leinster, Gordon Dickson. Những người bản xứ trên Hành Tinh Quark có một tục lệ kỳ lạ, khi con họ qua đời, Trung úy Abelson (: họ “gặp nhau ăn trưa”. Tôi biết điều này thật kinh tởm và man rợ, nhưng anh hãy nhớ rằng hành tinh này chưa được chuyển hóa.

“Được,” Louis đáp. “Có nhà hàng nào ngon để mình đi vào lúc nghỉ giải lao giữa hai buổi lễ viếng không Steve?”

“Anh cứ thong thả đã, Lou,” Steve nói nhưng không có vẻ gì phật ý. Trong trạng thái bình tĩnh rồ dại này, Louis lại cảm thấy đây là lúc mình thấu tỏ người khác nhất trong đời. Có lẽ đó chỉ là ảo giác, nhưng lúc này, anh đồ rằng Steve đang nhủ thầm thà anh đột ngột thốt ra những lời nanh nọc, xát muối vào tim như bây giờ còn tốt hơn trạng thái đờ đẫn ban nãy.

“Đừng lo,” anh bảo với Steve. “Nhà hàng Benjamin thì sao?”

“Ừ,” Steve đáp. “Nhà hàng Benjamin được đấy.”

Anh gọi điện thoại từ văn phòng của vị tổng tổ chức tang lễ. Lúc đi ra, khi ngang qua Phòng Đông, Louis thấy phòng gần như vắng tanh, chỉ có ông Irwin và bà Dory Goldman ngồi ở hàng ghế trên, đầu cúi gằm. Louis có cảm tưởng họ sẽ ngồi ở đó mãi mãi.

Hóa ra nhà hàng Benjamin là lựa chọn đúng đắn. Ở thị trấn Bangor, người dân ăn trưa sớm, nên tầm một giờ chiều, nhà hàng vắng như chùa bà đanh. Ông Jud đến cùng Steve và Rachel, bốn người bọn họ gọi gà chiên. Trong lúc ăn, có lúc Rachel vào nhà vệ sinh lâu quá mức khiến Steve lo lắng. Anh đang định nhờ một cô phục vụ vào kiểm tra tình hình thì thấy cô quay lại bàn, mắt đỏ hoe.

Louis ăn cho có lệ phần thịt gà và uống rất nhiều bia Schlitz. Ông Jud kiệm lời, lẳng lặng uống theo nhịp của anh.

Cả bốn người gần như chẳng đụng vào bữa ăn, và với nhãn quan siêu việt hiện thời, Louis thấy nữ phục vụ, một cô gái đậm người với khuôn mặt xinh xắn đang băn khoăn không biết có nên hỏi họ xem món ăn không vừa miệng hay thế nào, nhưng sau khi nhìn thấy đôi mắt đỏ hoe của Rachel lần nữa, cô này chốt hạ câu hỏi ấy không đúng trọng tâm. Lúc ngồi uống cà phê, Rachel chợt thẳng thừng thốt lên một điều khiến ai nấy đều ngỡ ngàng – nhất là Louis lúc ấy đang mơ màng sau cữ bia. “Em quyết định quyên góp quần áo của con cho Cứu Thế Quân.”

“Thế à?” Steve hỏi sau thoáng im lặng.

“Phải,” Rachel nói. “Quần áo còn tốt. Mấy chiếc áo len… quần nhung kẻ… rồi áo thun. Người ta nhận được chắc sẽ vui lắm. Rất tươm tất và bền. Tất nhiên là trừ bộ thằng bé mặc trên người. Chúng… nát bươm rồi.”

Cô nghẹn ngào đến đau lòng ở ba từ cuối. Cô cố uống cà phê nhưng vô ích. Giây sau, cô bưng mặt, giàn giụa nước mắt.

Khoảnh khắc ấy thật ngột ngạt. Những ánh nhìn đầy căng thẳng, và chừng như tất cả đều tập trung ở Louis. Anh cảm nhận được điều đó bằng nhãn quan siêu phàm mà anh có cả ngày hôm ấy, và đây là rõ ràng nhất, chắc chắn nhất. Đến cả cô phục vụ còn cảm nhận được những ánh nhìn biết nói ấy đang tụ lại một chỗ. Anh liếc thấy cô khựng lại ở chiếc bàn gần cuối phòng, xếp vải lót đĩa và muỗng nĩa. Trong khoảnh khắc, Louis thấy đầu óc bối rối, nhưng rồi anh ngộ ra: Họ chờ anh an ủi vợ mình.

Nhưng anh làm không được, anh muốn làm, anh hiểu ấy là bổn phận của một người chồng. Song anh không tài nào làm nổi. Là con mèo đã ngáng đường anh. Bất thình lình, không nhịp điệu, không lý do. Con mèo ấy. Con mèo chết toi ấy. Con mèo Church với xác chuột lòi ruột gan cùng những con chim không còn cơ hội cất cánh. Khi thấy xác chúng, Louis dọn dẹp ngay lập tức, không cằn nhằn, không nhận xét; và hẳn là không phản kháng. Suy cho cùng, anh gieo nhân nào thì gặt quả đó. Nhưng anh có gieo cái nghiệp này không?

Anh thấy những ngón tay của mình. Thấy những ngón tay sượt qua đằng sau áo khoác của Gage. Rồi áo khoác của Gage vụt mất. Rồi Gage cũng biến mất.

Anh nhìn vào tách cà phê, mặc vợ khóc bên cạnh mà chẳng nói lời an ủi.

Sau một lúc — nếu xét về mặt thời gian thực có lẽ khá ngắn, nhưng lúc ấy và cả sau này khi ngẫm lại thì thật dài – Steve vòng cánh tay quanh người, khẽ ôm cô. Đôi mắt anh nhìn Louis đầy quở trách, phẫn nộ. Louis lảng tránh ánh mắt ấy rồi quay sang ông Jud, nhưng ông cụ đang nhìn xuống, tựa hồ tủi hổ. Chẳng có cứu cánh nào ở đó.