← Quay lại trang sách

Chương 37

“Ta đã biết thế nào cũng có ngày này,” ông Irwin Goldman châm ngòi. Nguồn cơn của rắc rối bắt đầu từ đây. “Ta đã biết khi con gái ta cưới cậu. ‘Con sẽ phải chịu mọi đau khổ trần ai cho mà xem,’ ta đã cảnh báo rồi. Và giờ thì nhìn đi. Nhìn đi… cái mớ tanh bành gì đây!”

Louis khẽ quay sang nhìn bố vợ, trong mắt anh, ông ta chẳng khác nào hình nộm đội mũ chỏm ác nghiệt bật ra từ hộp đồ chơi, và theo bản năng, anh nhìn chỗ Rachel đứng ban nãy, cạnh cuốn sổ gác trên khung – lễ buổi chiều được ngầm định giao cho cô – nhưng Rachel đã đi đâu mất.

Lễ viếng buổi chiều ít người hơn, và sau chừng nửa tiếng, Louis bước xuống hàng ghế đầu, ngồi trên lối đi, mụ mị chẳng ý thức được gì (chỉ lờ mờ cảm nhận mùi hoa ngọt ngây) trừ việc anh mệt lử và buồn ngủ khủng khiếp. Anh đoán một phần nguyên nhân là do bia. Đầu óc anh sẵn sàng tắt ngóm rồi. Có lẽ là điều tốt. Có lẽ sau mười hai hoặc mười sáu tiếng ngủ, anh sẽ đủ sức an ủi Rachel ít nhiều.

Một lúc sau, đầu anh cúi xuống, hai mắt hướng xuống đôi bàn tay gác hờ giữa hai đầu gối. Những giọng nói rì rầm cuối phòng như ru ngủ. Sau bữa trưa, lúc bốn người họ quay lại, anh nhẹ nhõm khi thấy ông Irwin và bà Dory không có mặt, nhưng đáng lý ra anh phải biết đúng là mơ hão khi nghĩ họ sẽ tiếp tục vắng mặt.

“Rachel đâu rồi ạ?” Louis hỏi.

“Ở với mẹ của nó. Con gái tôi ở đó là đúng rồi,” ông Goldman đáp với giọng điệu đầy vẻ đắc thắng của người vừa chốt được một thương vụ to. Hơi thở của ông phả mùi Scotch. Rất nồng là đằng khác. Ông đứng trước mặt Louis như công tố viên nhỏ thó hung hăng trước kẻ đứng trong vành móng ngựa, một kẻ rõ ràng là phạm tội. Chân ông còn đứng không vững.

“Bố đã nói gì với cô ấy?” Louis nói, cảm thấy máu nóng bắt đầu bốc lên. Anh biết ông Goldman đã nói ra nói vào. Nhìn mặt ông ta là biết.

“Chẳng nói gì ngoài sự thật. Ta bảo đấy là cái giá mà con gái ta phải trả khi kết hôn trái với nguyện vọng của bố mẹ. Ta bảo…”

“Bố nói vậy sao?” Louis bàng hoàng hỏi lại. “Bố không nói vậy đúng không?”

“Ta nói vậy và còn nhiều điều nữa,” ông Irwin Goldman đáp. Giọng ông sặc mùi kênh kiệu của kẻ vừa phát hiện nên đổ lỗi lên đầu ai. “Từ xưa ta đã biết thể nào cũng có ngày này – không chuyện này thì cũng chuyện khác mà thôi. Lần đầu tiên gặp mặt, ta đã biết cậu là thể loại người thế nào rồi.” Ông chúi người tới trước, phà ra hơi Scotch. Giờ thì ông đổi sang tông giọng như người đang tiết lộ một bí mật tày trời. “Ta nhìn thấu mày đấy, đồ lang băm tự cao tự đại. Mày dụ dỗ con gái ta vào cuộc hôn nhân ngu xuẩn, vô giá trị này rồi biến nó thành người hầu cho mày, rồi mày để con trai nó cắm đầu chạy xuống đường cao tốc như… như con sóc chuột.”

Đa phần những lời này đều không lọt vào đầu Louis bởi anh còn đang vật lộn với việc lão khọm ấu trĩ này dám…

“Ông nói vậy với vợ tôi sao?” Anh lập lại, “Ông dám nói vậy sao?”

“Ta cầu cho mày chết mục dưới địa ngục!” Ông Goldman gầm lên, khiến bao người quay phát về nơi tiếng nói vừa phát ra. Nước mắt tuôn ra từ đôi mắt đỏ ngầu của ông Irwin Goldman, Quả đầu hói ánh lên dưới ngọn đèn huỳnh quang dịu nhẹ, “Mày biến cô con gái tài sắc vẹn toàn của ta thành con hầu cho mày… phá hủy tương lai của nó… cướp nó đi… nồi khiến cháu ngoại ta chết tức tưởi trên con đường quê,

Giọng ông quát lên ầm ĩ.

“Lúc đó mày ở đâu? Ngồi chết dí trong khi thằng bé lăng xăng chơi dưới đường à? Bận nghĩ về máy bài bảo y khoa vớ vẩn của mày đi. Lúc đó mày làm cái gì, thằng súc sinh kia?. Thằng trời đánh thành vật kia! Đồ giải người! Đồ… ”

Họ đang đứng đó, ngay trước Phòng Đông. Họ đang đứng đỏ, và Louis bất giác vung tay tới. Anh thấy ống tay áo mình mặc kéo khỏi cổ tay áo sơ mi trắng. Anh thấy khuy màng sét ánh lên – Rachel tặng anh bộ khuy măng sét này làm quà nhân kỷ niệm ba năm ngày cưới, mà không ngờ có ngày chồng cô sẽ cài khuy để dự đám tang của cậu con trai lúc đó chưa hiện diện trên đời. Nắm đấm của anh chẳng khác nào thủ nổi vào tay anh. Nó nối tiếp vào miệng của ông Goldman, và anh cảm nhận hàng môi của ông cụ bẹp nhúm, rách toạc. Thành thật mà nói, cảm giác ấy đến tởm; chắc dùng nắm đấm nghiền nát con sên sẽ có cảm giác này. Chẳng có chút thỏa mãn nào, Bên dưới phần thịt của cặp môi bố vợ, anh cảm nhận được hàm răng giả cứng quèo và không suy suyển.

Ông Goldman loạng choạng lùi về sau. Tay ông đập vào quan tài của Gage làm nó bị hất nghiêng. Một bình hoa nặng cắm tua tủa bông rơi đánh choang. Có tiếng ai đó thét lên,

Là Rachel, cô quằn quại trong vòng tay mẹ khi bà cố níu cô lại. Những người hiện diện – chừng mười hay mười lăm người cả thảy – sững lại vì sợ hãi và ngượng ngùng. Trước đó, Steve đã đưa ông Jud quay lại Ludlow và Louis thầm biết ơn vì điều đó. Đây không phải cảnh anh muốn ông Jud chứng kiến. Chẳng khác nào bôi tro trát trấu lên mặt.

“Đừng đánh bố em!” Rachel hét lên. “Louis, đừng đánh bố em!”

“Mày thích hành hung mấy lão già quá nhỉ?” Ông Irwin Goldman với cuốn sổ séc tiền muôn bạc vạn rít lên. Ông ta cười, mồm đầy máu, thứ màu của hồng ngọc. “Mày thích hành hung mấy lão già à? Ta chẳng bất ngờ đâu, đồ nghiệt súc. Hành động ấy chẳng làm ta bất ngờ chút nào.”

Louis quay về phía ông Goldman thì bị ông đấm một cú vào cổ. Cú đấm vụng về, chỉ qua mép bàn tay nhưng Louis không kịp chuẩn bị. Cơn đau tê dại khiến anh khó nuốt trong hai tiếng đồng hồ sắp tới nổ tung trong họng. Đầu bật ra sau, anh sụm xuống gối trên lối đi.

Bình hoa chưa đủ, giờ tới lượt tôi à, anh nghĩ. Nhóm Ramones bát thế nào nhỉ? Hò dô, đi nào! Anh tự nhủ mình muốn phá lên cười nhưng chẳng có nụ cười nào trong miệng. Phát ra từ cổ họng đau rát của anh là tiếng rên khe khẽ.

Rachel lại hét lên.

Máu rỉ từ miệng, ông Irwin Goldman tiếp tục đá vào thận của Louis. Cơn đau lóe lên buốt tận óc. Anh tì tay lên thảm để ngăn không cho bản thân mình đổ ập xuống sàn.

“Đến mấy ông già mà mày cũng chẳng đọ lại được!” Ông Goldman cuồng dại hét lên đầy thích thú. Ông lại đá Louis, lần này không trúng thận nhưng mũi giày đen của ông thọc thẳng vào mông bên trái, Louis gầm gừ vì đau song không ngã rạp xuống thảm. Cằm anh đập xuống, phát ra tiếng rắc rất rõ. Anh cắn phải lưỡi.

“Đây!” Ông Goldman gào lên. “Đáng lý ra ta phải đá đít mày như vậy lần đầu tiên mày lảng vảng trước mặt tao, thằng khốn kiếp. Đáng lắm!” Ông lại đá vào mông Louis, lần này bồi cho mông bên kia. Ông vừa khóc vừa cười. Lần đầu tiên, Louis để ý râu ria ông cụ lởm chởm — dấu hiệu cho thấy ông đau buồn. Ông tổng tổ chức tang lễ chạy lại chỗ họ. Thoát khỏi vòng tay của mẹ, Rachel cũng chạy đến chỗ bọn họ, vừa chạy vừa gào thét.

Louis lóng ngóng lộn người lại rồi ngồi dậy. Bố vợ lại sút cho anh một cú nhưng Louis chộp được giày của ông bằng cả hai tay – nó lao thẳng vào lòng bàn tay anh như quả bóng được chụp chắc nụi – rồi dồn hết sức bình sinh đẩy ra sau.

Vừa hét, ông Goldman vừa bay ra đằng sau, hai tay quơ quàng tìm thăng bằng. Ông ngã lên quan tài An Giấc Ngàn Thu của Gage, linh cữu vốn được làm ở thị trấn Storyville, Ohio và giá thành chẳng hề rẻ chút nào.

Phù thỉ Oz Dĩ đại và Ghia gớm vừa ngã lên trên quan tài của con trai mình, Louis mụ mị nghĩ. Quan tài rơi khỏi khung đỡ đánh rầm. Đầu bên trái rơi xuống trước, sau đó là đầu bên phải. Chốt quan bật mở. Giữa tiếng hét và tiếng khóc ỏm tỏi, giữa tiếng gào rú của ông Goldman, một đứa trẻ đã già chơi trò đổ tội lên đầu kẻ khác, Louis nghe thấy tiếng khóa bật mở.

May sao quan tài không mở tung và tung tóe phần thi thể không còn nguyên vẹn của Gage ra sàn để mọi người trợn mắt chiêm ngưỡng, nhưng Louis chua xót nhận ra họ né được viễn cảnh ấy vì quan tài bị lật úp xuống chứ không đổ nghiêng. Hai kịch bản chỉ cách nhau một sợi chỉ. Tuy nhiên, trong khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi nắp quan tài đóng sập trên chốt cài bị hỏng, anh thấy ánh xám – bộ vest nhà anh mua để đặt xung quanh thi thể của Gage – và một chút màu hồng. Tay của Gage.

Ngồi thẳng trên sàn, Louis vùi mặt vào hai tay rồi tức tưởi khóc. Anh chẳng còn thiết tha gì chuyện bố vợ của anh, chuyện tên lửa đạn đạo, chuyện đường khâu vĩnh viễn với đường khâu tự tiêu, chuyện cái chết nhiệt của vũ trụ. Phút giây ấy, Louis Creed ước gì mình chết cho rồi. Và thật kỳ cục, bỗng dưng một hình ảnh hiện lên trong tâm trí anh: Gage đeo tai chuột Mickey, Gage cười tươi, bắt tay với chú chó Goofy to bự trên Đường Chính ở Disney World. Anh thấy rõ mồn một.

Một thanh giá đỡ bị đổ; thanh kia nghiêng ngả tựa vào bục thấp nơi mục sư đứng để đọc bài cầu nguyện. Ngã sõng soài trong đống hoa tang là ông Goldman, lúc này cũng giàn giụa nước mắt. Nước từ những bình hoa đổ chảy ra. Nhiều bông hoa bị nghiền nát nham nhở, càng tỏa ra mùi hương nồng hơn.

Rachel không ngừng gào thét.

Louis chẳng còn sức phản ứng với tiếng thét của vợ. Hình ảnh Gage đeo tai chuột Mickey đã nhòa đi, nhưng chỉ sau khi anh nghe thấy tiếng thông báo tối nay sẽ có bắn pháo hoa. Anh ngồi vục mặt vào hai tay, chẳng muốn ai thấy mình, khuôn mặt lem nhem nước mắt, mất mát, tội lỗi, đau đớn, tủi hổ, và trên tất cả là ước muốn hèn nhát được chết, được thoát khỏi tăm tối này.

Ông tổng tổ chức tang lễ và bà Dory Goldman dẫn Rachel ra ngoài. Cô vẫn hét ầm ỉ. Sau đó, trong một căn phòng khác (Louis đoán cần phòng này chuyên dùng cho những người đau buồn đến mất từ chủ Phòng Cho Người Kích Động chẳng hạn), có ngôi im thin thất. Dân thân Louis choáng váng nhưng vẫn còn minh mẫn, lần này tự tay tiêm thuốc an thần cho vợ sau khi yêu cầu mọi người cho hai vợ chồng họ không gian riêng

Về đến nhà, anh dẫn cô vào giường và tiêm cho cô thêm một mũi. Đoạn anh đắp chăn lên tận cằm cho cô rồi nhìn gương mặt xanh xao, đờ dẫn của vợ.

“Rachel, anh xin lỗi,” anh nói. “Anh sẵn sàng đánh đổi bất cứ giá nào để rút lại chuyện đó.”

“Không sao đâu,” cô nói bằng giọng ngang phè kỳ lạ, đoạn xoay người, quay mặt khỏi anh.

Anh nghe thấy câu hỏi cũ rích Em ổn chứ? dâng lên đầu mối song kịp đẩy nó xuống. Câu hỏi ấy không đúng; đó không phải là câu thực sự anh muốn biết.

“Em thấy tệ đến mức nào?” Cuối cùng, anh cất tiếng.

“Khá tệ, Louis ạ,” cô đáp rồi thốt lên âm thanh hao hao tiếng cười. “Nói thật, em cảm thấy khủng khiếp vô cùng.”

Xem chừng cần làm thêm gì đó, nhưng Louis chẳng còn sức đưa ra. Chợt anh cảm thấy phẫn uất với vợ, với Steve Masterton, với Missy Dandridge và ông chồng có yết hầu đầu mũi tên, với tất tần tật đám người chết tiệt ấy. Tại sao muôn đời là anh đưa ra hành động. Cái quy tắc chết toi này ở đâu ra thế?

Anh tắt đèn rồi bước ra ngoài. Anh cảm thấy mình chẳng còn sức để làm gì thêm cho con gái.

Trong một khoảnh khắc điên rồ, ngắm nhìn con trong căn phòng tối, anh tưởng cô bé là Gage – anh tưởng tất cả chỉ là cơn ác mộng kinh khủng, như lần anh mơ thấy Pascow dẫn anh vào rừng, và trong khoảnh khắc, tâm trí mệt nhoài của anh bấu víu lấy nó. Bóng tối quá đắc lực – chỉ có ánh đèn nhập nhoạng từ chiếc ti vi nhỏ mà ông Jud mang cho cô bé để giết thì giờ. Những giờ đồng hồ dài đằng đẳng.

Nhưng tất nhiên đấy chẳng phải Gage; người đang ngồi đó là Ellie, cô bé không chỉ nắm rịt bức hình cô kéo Gage trên xe trượt tuyết mà còn ngồi vào ghế của Gage. Cô bé đã lôi nó ra khỏi phòng em trai rồi mang sang phòng mình. Đó là một chiếc ghế xếp, lòng bằng vải bố, lưng ghế quấn dải dây cũng bằng vải bố. Trên dải dây đề chữ GAGE. Rachel đã đặt qua thư bốn chiếc ghế như vậy. Mỗi thành viên trong nhà có một cái ghế riêng in tên mình.

Ellie quá khổ so với ghế của Gage nhưng vẫn cố ngồi vào khiến lòng ghế chùng xuống một cách đáng ngại. Cô bé ghì chặt bức hình vào ngực, mắt chằm chằm nhìn ti vi chiếu bộ phim nào đó.

“Ellie,” anh nói, tay tắt ti vi, “ngủ thôi.”

Cô bé lụi cụi đứng dậy khỏi ghế rồi gấp nó lại. Xem ra cô bé định đem nó vào giường.

Louis lừng khừng, nửa muốn nhắc con gái về cái ghế, nhưng rốt cuộc anh chỉ nói, “Con có muốn bố đưa con vào giường không?”

“Dạ có,” cô bé đáp.

“Con có… con có muốn ngủ với mẹ tối nay không?”

“Dạ thôi.”

“Con chắc chứ?”

Cô bé khẽ mỉm cười. “Dạ. Mẹ sẽ giật chăn mất.”

Louis cười đáp lại. “Thế mình đi nào.”

Hóa ra Ellie không mang ghế lên giường mà chỉ dựng nó ở đầu giường, và một hình ảnh kỳ cục hiện lên trong đầu Louis – đây là căn phòng tư vấn của bác sĩ tâm lý nhỏ con nhất thế giới.

Cô bé cởi quần áo, để bức hình chụp hai chị em lên gối, mặc vào váy ngủ, sau đó lại cầm bức hình lên, bước vào nhà vệ sinh, đặt nó xuống để rửa mặt, đánh răng, dùng chỉ nha khoa và uống viên fluoride. Đoạn cô bé lại cầm bức hình lên, đi vào giường.

Ngồi xuống cạnh con gái, Louis ôn tồn, “Ellie, bố muốn con biết nếu chúng ta tiếp tục yêu thương nhau, chúng ta có thể vượt qua chuyện này.”

Từng lời phát ra nhọc như đẩy xe goòng chất đầy những bó rơm ướt, sau hồi chật vật thốt lên, Louis thấy mệt bã.

“Con sẽ thầm ước,” Ellie bình tĩnh nói, “và cầu Chúa cho em Gage trở về.”

“Ellie…”

“Chúa có thể xóa bỏ chuyện đó nếu Người muốn,” Ellie nói. “Chúa có thể làm bất cứ điều gì Người muốn mà.”

“Ellie, Chúa không làm những điều như vậy,” Louis khó chịu nói, và trong tâm trí anh hiện lên hình ảnh Church ngồi trên nắp bồn cầu, nhìn anh với đôi mắt đùng đục khi Louis ngâm mình trong bồn tắm.

“Có mà,” cô bé đáp. “Ở lớp Giáo lý, giáo viên đã kể cho bọn con câu chuyện về Lazarus. Ông này bị chết và Chúa đã hồi sinh ông ta. Chúa bảo, ‘Lazarus, hãy ra đây,’ và thầy giáo bảo nếu Chúa chỉ nói ‘Hãy ra đây’ thì có lẽ tất cả những người nằm trong nghĩa địa sẽ đội mồ sống dậy, nhưng Chúa chỉ muốn Lazarus mà thôi.”

Một câu rõ quái dị bật ra từ miệng anh (nhưng dù sao ngày hôm ấy đã tru tréo, rỉ rả toàn những điều quái dị rồi): “Chuyện đó xảy ra lâu lắm rồi, Ellie”

“Con sẽ chuẩn bị sẵn mọi thứ cho Người,” cô bé nói. “Con có hình của em, và con còn ngồi trong ghế của em nữa…”

“Ellie, con to quá, không ngồi ghế của Gage được đâu,” Louis nói và nắm lấy bàn tay nóng rẫy của con gái. “Con sẽ làm nó gãy mất.”

“Chúa sẽ giữ cho ghế không gãy,” Ellie nói. Giọng cô bé thành kính, nhưng Louis quan sát thấy quầng nâu dưới mắt cô bé. Nhìn con mà lòng anh xót xa đến độ phải quay mặt đi. Có lẽ khi ghế của Gage bị gãy, cô bé sẽ hiểu chuyện đã xảy ra thêm một chút.

“Con sẽ mang theo bức hình và ngồi vào ghế của em,” cô nói. “Con cũng sẽ ăn bữa sáng của em ấy.” Gage và Ellie có ngũ cốc ăn sáng riêng; Ellie từng bảo ngũ cốc của Gage có vị như gỉ mũi khô. Nếu trong nhà chỉ còn ngũ cốc Cocoa Bears, Ellie sẽ ăn trứng luộc… hoặc nhịn luôn. “Con sẽ ăn đậu ngự dù con rất ghét, con sẽ đọc tất cả sách tranh của Gage, con sẽ… con sẽ… bố biết đấy… chuẩn bị đầy đủ… biết đâu…”

Cô bé nghẹn ngào khóc. Louis không tìm cách dỗ con gái mà chỉ vuốt tóc cô bé khỏi vương trên trán. Điều cô bé nói nghe cũng có lý, dù rất điên khùng. Giữ mối liên kết. Giữ mọi thứ mới mẻ. Đặt Gage trong hiện tại, trong Danh Sách Top 100, không cho cậu bé lùi về dĩ vãng; nhớ Gage đã từng làm chuyện này… chuyện nọ… Phải, tuyệt lắm… cậu nhóc Gage hoạt bát, thông minh sáng láng. Khi không còn đau, nó sẽ chẳng còn quan trọng nữa. Louis nghĩ có lẽ con gái mình hiểu để Gage chết đi dễ dàng đến mức nào.

“Ellie, đừng khóc nữa con,” anh nói, “đây không phải vĩnh viễn đâu.”

Cô bé cứ thế nức nở mãi… suốt mười lăm phút ròng rã. Rồi cô bé thiếp đi trước khi nước mắt ngừng rơi. Cô bé cũng chìm vào giấc ngủ khi đồng hồ đánh hồi chuông báo mười giờ trong căn nhà yên tĩnh.

Hãy giữ cho em con sống trong lòng con, Ellie ạ, nếu đó là điều con muốn, anh nói khẽ rồi hôn con gái. Các tay bác sĩ tâm lý có lẽ sẽ bảo rằng nó chẳng tốt lành gì cho sức khỏe, nhưng bố ủng hộ con. Bởi bố biết rồi sẽ đến ngày – nếu sớm thì là thứ Sáu này. ‘− con quên cầm theo bức bình, bố trông thấy bức hình trên giường, trong căn phòng trống trải này trong khi con lái xe đạp quanh nhà, đi bộ trong mảnh đất đằng sau nhà, hoặc đi đến nhà Kathy McGoun để may quần áo bằng bộ dụng cụ Sew Perfect. Gage sẽ không đi cùng con, và đó là lúc Gage đã rơi khỏi Danh Sách Top 100 tồn tại trong lòng những cô bé con, để rồi trở thành Điều Đã Xảy Ra Năm 1984. Quả khứ dội về.

Louis rời căn phòng, đứng ở đầu cầu thang một thoáng, bâng quơ nghĩ về việc đi ngủ.

Anh biết anh cần gì nên đi xuống tầng dưới để lấy.

Louis ạlbert Creed tìm cách chuốc cho mình say. Dưới tầng hầm có năm két bia Schlitz Light. Ngoài Louis ra, ông Jud, Steve Masterton cũng uống, thi thoảng Missy Dandridge cũng làm một, hai lon trong lúc trông đám trẻ nhà anh ( đám trẻ giờ chỉ còn một, Louis tự nhủ trong lúc bước xuống những bậc thang của tầng hầm). Ngay cả Charlton, trong những dịp hiếm hoi đến nhà anh, cũng thích uống bia hơn là làm một ly rượu – chỉ cần bia nhẹ độ là được. Vậy nên một ngày mùa đông năm ngoái, Rachel đã ra ngoài mua đến mười két bia khi Schlitz Light giảm giá ở Tiệm Rượu Bia A&P. Để cứ mỗi lần có khách đến, anh đỡ phải chạy xuống tiệm nhà Julio ở Orrington, cô nói. Và lúc nào anh cũng trích lời Robert Parker cho em nghe còn gì, chồng yêu — bia nằm trong tủ lạnh sau khi cửa hàng đã đóng cửa là bia ngon, đúng không? Nên uống đi và ngẫm xem mình tiết kiệm được bao nhiêu. Mùa đông năm ngoái. Khi mọi thứ còn ổn thỏa. Khi mọi thứ còn ổn thỏa. Thật kỳ khôi khi tâm trí ta có thể nhanh chóng và dễ dàng phân chia rạch ròi đến thế.

Louis xách một két bia lên và tống chúng vào trong tủ lạnh. Đoạn anh lấy một lon, đóng cửa tủ lạnh rồi khui bia. Church chậm chạp và lững thững bước ra khỏi chạn bát khi nghe thấy tiếng tủ lạnh đóng mở, đoạn nhìn Louis dò xét. Nó không dám tiến đến quá gần; có lẽ anh đã đá nó quá nhiều lần.

“Không có gì cho mày đâu,” anh nói với con mèo. “Hôm nay mày ăn hộp thức ăn Calo rồi còn gì. Nếu muốn thêm thì đi mà giết chim ấy.”

Church đứng đó, lom lom nhìn Louis. Uống một mạch nửa lon, anh cảm thấy bia xộc lên đầu mình gần như ngay lập tức.

“Mày còn chẳng ăn thịt bọn chúng phải không?” Anh hỏi. “Giết chúng là mày mãn nguyện rồi.”

Church bước vào phòng khách, nhận ra chẳng có thức ăn gì cho mình, và chốc sau, Louis đi theo nó.

Anh lại bâng quơ nghĩ: Hò dô, đi nào .

Ngồi xuống ghế, Louis quay sang nhìn Church. Con mèo tựa lên tấm thảm cạnh tủ ti vi, cẩn trọng quan sát Louis, có lẽ sẵn sàng co giò chạy nếu Louis đột nhiên nổi đóa và quyết định thượng cẳng chân với nó.

Nhưng không, Louis chỉ giơ lon bia lên. “Uống vì Gage,” anh nói. “Vì con trai tao, người biết đâu có thể trở thành một nghệ sĩ, một vận động viên bơi lội Olympic hoặc tổng thống nước Mỹ chết toi này. Mày thấy sao, đồ khốn?”

Church nhìn anh với đôi mắt kỳ cục, ngây dại.

Louis ừng ực uống nốt lon bia đến độ rát họng, đoạn đứng dậy đi đến tủ lạnh lấy thêm một lon nữa.

Sau khi nốc ba lon bia, lần đầu tiên trong ngày, anh tìm được sự cân bằng. Xử lý xong lốc sáu lon đầu tiên, anh cảm thấy mình có thể tìm được giấc ngủ trong một tiếng đồng hồ tới. Anh bước đến tủ lạnh lấy lon bia thứ tám hay thứ chín gì đấy (lúc đó anh chẳng còn đếm nổi và đã loạng choạng chân nam đá chân chiêu), Church lại lọt vào tầm mắt anh, nó đang lim dim – hoặc giả vờ lim dim – trên tấm thảm. Suy nghĩ hiện lên trong tâm trí anh tự nhiên đến độ hẳn nó đã luôn hiện diện ở đó, chỉ chực chờ thời điểm để lộ diện từ sâu trong tâm trí:

Khi nào mày tính thực hiện điều đó? Khi nào mày mới chôn Gage ở Nghĩa địa Thú cưng?

Và ngay sau đó là văng vẳng câu:

Lazarus, hãy ra đây.

Giọng của Ellie mơ màng, buồn ngủ:

Thầy giáo bảo nếu Chúa chỉ nói ‘Hãy ra đây thì có lẽ tất cả những người nằm trong nghĩa địa sẽ đội mồ sống dậy.

Cơn rùng mình chạy dọc người anh mãnh liệt đến độ Louis phải bấu chặt lấy cơ thể khi cả người run lên. Anh chợt nhớ lại ngày đầu tiên Ellie đi học, nhớ cảnh Gage rúc vào lòng anh ngủ trong lúc anh và Rachel lắng nghe Ellie liến thoắng kể về bài hát Ông MacDonald, cô Berryman; anh nói Để bố đưa em vào giường và khi đưa Gage lên lầu, một dự cảm đầy kinh hoàng ập đến, giờ anh chợt vỡ lẽ: từ tháng Chín, một phần trong anh biết Gage sắp sửa mất mạng. Một phần trong anh biết Phù thỉ Oz Dĩ đại và Ghia gớm sắp sửa ra tay. Thật vớ vẩn, thật ngu xuẩn, thật mê tín dị đoan… nhưng lại đúng đắn. Lúc đó anh đã biết . Louis đánh đổ một chút bia lên áo, làm Church mệt mỏi ngẩng lên xem đây có phải dấu hiệu lễ hội thượng cẳng chân với mèo sắp bắt đầu tối nay hay không.

Louis chợt nhớ lại thắc mắc anh từng hỏi ông Jud; anh nhớ tay ông Jud giật bắn, gạt đổ hai chai bia rỗng xuống bàn. Một chai bể tan tành. Thậm chí đó cũng chẳng phải chuyện nên nói ra miệng nữa kìa, Louis!

Nhưng anh muốn nói về chuyện đó – hoặc chí ít ngẫm nghĩ về nó. Nghĩa địa Thú cưng. Vùng đất đằng sau Nghĩa địa Thú cưng. Ý tưởng ấy có mị lực đến chết người. Nó có lý tới độ bất khả chối từ. Church đã mất mạng trên đường; Gage cũng mất mạng trên đường. Nhưng giờ Church ở đây – tất nhiên đã đổi khác, theo nhiều cách khá đáng ghét - nhưng vẫn ở đây. Ellie, Gage và Rachel đều thuận hòa với nó. Đúng là nó giết chim chóc và moi ruột của vài con chuột, nhưng giết động vật nhỏ là điều mèo hay làm còn gì. Church chẳng biến thành quái vật. Xét theo nhiều phương diện, nó vẫn được ra phết đấy chứ.

Mày đang lý do lý trấu, một giọng nói thì thầm. Nó chẳng hề được như xưa. Nó là đồ quỷ ma. Con quạ, Louis… nhớ con quạ chứ?

“Lạy Chúa tôi,” Louis nói to, giọng run rẩy, quẫn trí đến độ chẳng nhận ra đó là giọng mình.

Chúa ơi, phải, đúng rồi. Đây là đời thực chứ chẳng phải tiểu thuyết về ma quỷ hoặc ma cà rồng, và nếu có lúc phải cầu khẩn tên Chúa ngoài cuốn tiểu thuyết thì là lúc này đây. Nhân danh Chúa – anh mạo muội nghĩ cái gì vậy kìa? Anh dám nghĩ một điều báng bổ mà ngay cả bản thân anh còn chưa dám tin. Nhưng tệ hơn là anh đang dối lòng. Không chỉ lý do lý trấu mà là dối trá.

Vậy sự thật là gì? Mày muốn sự thật đến thế kia mà, vậy sự thật là gì?

Rằng Church chẳng còn là một con mèo đúng nghĩa nữa, đó là điều đầu tiên. Nhìn nó như con mèo, nó cư xử như con mèo, nhưng thực sự nó chỉ là phiên bản bắt chước tệ lậu. Người ta không thể nhìn ra sự bắt chước ấy, nhưng họ có thể cảm nhận được nó. Anh nhớ cái đêm Charlton đến nhà anh chơi nhân dịp tổ chức tiệc tối quy mô nhỏ trước Giáng sinh. Lúc đó mọi người ngồi đây trò chuyện sau bữa ăn, Church nhảy vào lòng bà. Charlton ngay tức khắc đẩy con mèo xuống, liền sau đó, theo bản năng, môi bà trể ra đầy kinh tởm.

Đó chỉ là một chi tiết cỏn con mà chẳng ai đả động. Nhưng… nó rành rành ra đấy. Charlton cảm nhận được thứ đó chẳng phải mèo. Louis uống nốt lon bia và bước đến tủ lạnh lấy lon mới. Nếu Gage sống dậy mà biến đổi theo hướng ấy thì quả gớm ghiếc.

Anh khui lon bia rồi tu ừng ực. Anh say rồi, xỉn quắc cần câu, và ngày mai anh còn phải xoay xở với đủ thứ chuyện. Cách Tôi Dự Đám Tang Con Trai Khi Say Chuếnh Choáng, chấp bút bởi Louis Creed. Tác giả của Cách Tôi Để Sượt Con Mình Ở Phút Giây Sinh Tử và rất nhiều tác phẩm khác.

Say xỉn. Đúng rồi. Anh đồ rằng lý do anh chuốc cho mình say đến vậy là để anh có thể tỉnh táo cần nhắc ý tưởng điên rồ này.

Mặc kệ tất thảy, ý tưởng ấy sở hữu mị lực chết người, hào nhoáng bệnh hoạn, đầy mê hoặc. Phải, trên tất cả, nó tỏa ra sự mê hoặc .

Ông Jud hiện lên trong đầu anh, vang vọng.

Chúng ta làm điều đó vì nó chi phối chúng ta. Chúng ta làm vậy vì nơi chôn cất ấy là một nơi bí mật, ta muốn sẻ chia bí mật… Ta bịa ra lý do… tưởng chừng lý do ấy là tốt… nhưng đa phần ta làm vậy vì ta muốn. Hoặc vì ta phải làm thế.

Giọng của ông Jud trầm thấp và kéo dài với ngữ điệu dân miền Bắc. Giọng của ông Jud khiến da thịt anh gai lên, nổi cả da gà, khiến lớp lông sau gáy dựng đứng.

Ấy là những điều bí mật, Louis ạ… Đất trong tim đàn ông cứng như sỏi đá… như đất ở khu chôn cất của người Micmac ngày xưa. Người ta trồng thứ gì có thể… rồi chăm bón nó.

Louis nhớ lại những điều ông Jud nói với anh về khu đất chôn cất của người Micmac. Anh bắt đầu đối chiếu dữ liệu, chọn lọc, tóm gọn nó – anh thực hiện theo đúng cách anh từng chuẩn bị cho những bài kiểm tra lớn.

Con chó tên Spot.

Ta có thể thấy những chỗ dây kẽm gai móc vào thịt nó – những vị trí đó bị tróc hết lông, thịt lún vào.

Con bò. Một tập tài liệu lại lật ra trong tâm trí Louis.

Lester Morgan chôn con bò thượng hạng ở đó. Một con bò giống Black Angus mang tên Hanratty… Lester đã kéo nó lên tận đó bằng xe kéo… Hai tuần sau, Lester bắn chết nó. Con bò ấy như thành tinh. Nhưng nó là con vật duy nhất ta nghe nói gặp tình trạng này.

Nó như thành tinh.

Đất trong tim đàn ông cứng như sỏi đá.

Nó như ma quỷ.

Nó là con vật duy nhất ta nghe nói gặp tình trạng này.

Đa phần ta làm vậy vì ta đã từng đến đó, nó là nơi của ta.

Hanratty. Cái tên cho bò rõ ngớ ngẩn nhỉ?

Người ta trồng thứ gì có thể… rồi chăm bón nó.

Chúng là chuột của mình. Chim của mình. Mình đã chuốc lấy chúng.

Nó là nơi của ta, một nơi bí mật, nó thuộc về ta, còn ta thuộc về nó.

Con bò ấy như thành tinh. Nhưng nó là con vật duy nhất ta nghe nói gặp tình trạng này.

Mày muốn chuốc lấy cái gì nữa đây, Louis, khi gió hun hút vào buổi đêm và khi ánh trăng dát bạc con đường băng qua khu rừng dẫn đến nơi đó? Mày muốn trèo những bậc thang ấy sao? Khi xem phim kinh dị, khán giả đều biết nhân vật nam chính hoặc nữ chính thật ngu ngốc khi mò lên bậc thang, nhưng trong đời thực, họ lúc nào cũng làm trò ngu xuẩn – nào là hút thuốc, nào là không thắt dây an toàn, nào là chuyển cả gia đình đến sống cạnh con đường cao tốc tấp nập, cả đêm lẫn ngày những chiếc xe đầu kéo chạy rầm rập. Sao, Louis, có gì để nói nào? Mày muốn leo lên bậc thang đấy à? Mày muốn giữ cậu con trai đã chết của mình hay chọn thứ đằng sau Cánh Cửa Số Một, Cánh Cửa Sổ Hai hoặc Cánh Cửa Số Ba?

Hò dô, đi nào.

Như thành tinh… con vật duy nhất… thịt lún vào… đàn ông. của ta… của ông ấy…

Louis đổ phần bia còn dư xuống bồn rửa chén, cơn buồn nôn chợt dâng trào trong bụng. Căn phòng quay cuồng đánh võng xung quanh anh.

Có tiếng gõ cửa.

Suốt một lúc lâu – hoặc đấy là cảm giác của anh – anh cứ tưởng tiếng gõ cửa ấy vang lên trong đầu anh, chỉ là ảo giác. Nhưng tiếng gõ cửa cứ vang mãi không thôi, nhẫn nại, không nhân nhượng. Bỗng Louis bâng quơ nghĩ về câu chuyện kinh dị chân khỉ, khiến cả người anh lạnh ngắt vì hãi hùng. Đến độ anh cảm thấy nó cô lại thành hình dạng thực tế – tựa bàn tay người chết nhét trong tủ lạnh, đột nhiên sống dậy dù đã lìa khỏi xác, rồi trườn vào áo anh, nắm chặt phần thịt bên ngoài trái tim anh. Hình ảnh ấy thật ngớ ngẩn, gớm ghiếc và ngớ ngẩn, nhưng ô kìa, nó chẳng có vẻ ngớ ngẩn chút nào. Không hề.

Louis bước ra cửa mà chân như tê dại, nâng then cửa bằng những ngón tay chẳng còn sức sống. Lúc đẩy cửa mở, anh đã nghĩ: Hẳn đó là Pascow. Như người ta nhận xét về Jim Morrison, trở về từ cõi chết, lớn lao hơn bao giờ hết. Pascow sẽ đứng đó trong chiếc quần đùi thể thao, to cao và mốc meo như bánh mì để cả tháng trời, Pascow với quả đầu móp méo dị dạng, Pascow đến để cảnh cáo anh: Đừng đi lên đó. Bài hát ngày xưa của nhóm The Animals bát thế nào nhỉ? Người thương, xin đừng đi, XIN đừng đi, em biết anh yêu em vô ngần, người thương, xin đừng đi…

Cửa mở ra và đứng đó, trên bậc tam cấp ngoài cửa, trong đêm đen mịt mùng đầy gió thốc, giữa ngày thăm viếng đám tang và ngày hạ huyệt con trai anh là ông Jud Crandall. Mái tóc bạc thưa mỏng của ông rối tung trong màn đêm lạnh lẽo.

“Vừa mới ngẫm trong đầu thì ông đã đứng ngay trên bậc cửa” Louis mau miệng. Anh gượng phá lên cười. Thời gian như tự động quay ngược trở lại, về ngày lễ Tạ ơn. Chốc sau, họ sẽ bỏ cái xác cứng quèo và nặng đến dị thường của con mèo Winston Churchill mà Ellie nuôi vào túi rác rồi lên đường. Ồ đừng hỏi đó là gì, cứ để bọn ta đi thăm một chuyến.

“Ta vào được chứ, Louis?” Ông Jud hỏi. Ông lấy gói thuốc Chesterfield từ trong túi áo ra rồi ngậm một điếu trên miệng.

“Ông biết không,” Louis cất tiếng. “Khuya rồi, mà từ nãy đến giờ, cháu đã nốc cả đống bia.”

“Ái chà, ta ngửi thấy mùi mà,” ông Jud nói. Ông quẹt diêm nhưng gió làm nó tắt ngóm. Ông khum tay đánh thêm một que khác nhưng tay run quá, khiến que diêm chẳng chống chọi nổi cơn gió. Ông lấy ra que thứ ba, toan quẹt thì ngước nhìn Louis khi ấy chắn ngay cửa. “Ta không quẹt được diêm,” ông Jud nói. “Cháu có tính để ta vào không đây, Louis?”

Louis bước sang bên, để ông cụ vào nhà.