← Quay lại trang sách

MARIA, VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI abc

Hôm nay, ngày mùng tám tháng mười hai, chúng ta trọng kính đức Maria được giáo hội tuyên dương với danh hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội. Danh hiệu vô nhiễm nguyên tội có nghĩa không vướng mắc tội theo Kinh Thánh ám định của nghĩa từ chương, nghĩa đen, nơi câu truyện bà Evà ăn trái cấm trong vườn địa đàng để rồi mang án phạt cũng như gieo rắc lỗi phạm cho loài người; lỗi phạm này được mệnh danh là tội tổ tông.

Thực ra, là người Công giáo, chúng ta tin tưởng nơi những lời dạy dỗ, tuyên xưng của các đấng các bậc trong hội thánh. Chúng ta từ khi được chịu phép rửa tội Công giáo, chúng ta thuộc về hội thánh; chúng ta là thành viên của hội thánh; chúng ta là con cháu của các thánh trong hội; chúng ta là nghĩa tử của Đấng Tuyệt Đối thánh, dẫu nhận biết hay không. Tuy nhiên, chúng ta tự nhận định, và được dạy dỗ rằng chúng ta là kẻ có tội, thì chúng ta cũng thuộc về hội tội. Sự thể này là một thực thể ai cũng nhận biết và đương đường tuyên xưng mà thường thì rất ít khi đặt vấn đề về sự thể mình lập lững giữa hai hội, hội thánh và hội tội.

Thế nào là thánh và thế nào là tội? Đã bao giờ chúng ta tự đặt vấn đề, tự đối diện với con người của mình để phân định cho rõ ràng thực trạng thân phận làm người hầu nhận ra giá trị làm người, nhận ra những hồng ân trong cuộc đời cũng như những giá phải trả nơi cuộc sống nhân sinh. Có thể nói, chúng ta thường chỉ đặt vấn đề theo nhãn quan thế tục, hữu vi, mà vô tình hay ít khi hoặc không bao giờ nghĩ tới vị thế tâm linh; điều này có nghĩa, ít khi hoặc không bao giờ dám tự suy tư để định vị chính mình trước mặt Thiên Chúa; dẫu chúng ta đã được đức Giêsu, chúng ta xưng tụng là chúa chúng ta, và chúng ta được dạy xưng tụng Thiên Chúa là Cha. Và như vậy, sự lãng quên, hay tránh né chân nhận Thiên Chúa là cha; bởi thực tâm nhận thức thực trạng nhân sinh không xứng đáng, nên phát sinh đóng cửa lòng, khóa trái tâm tư hầu tách rời, tạo hố sâu ngăn cách giữa Thiên Chúa và loài người, giữa thực thể hiện hữu của một người với chính bản thân mình, giữa linh hồn và thân xác của mình. Sự thể này cũng chứng tỏ chúng ta đã không để tâm suy nghiệm Tin Mừng, lời rao giảng, và cũng chính là mục đích cuộc đời của đức Giêsu (Lc. 4:43).

Thử phân tính danh hiệu, "Vô Nhiễm Nguyên Tội." Cứ theo nghĩa từ chương, nghĩa đen, được nghe, được viết thế nào hiểu thế ấy. Vô nhiễm có nghĩa không vướng mắc, không bị ảnh hưởng, không dính dáng gì. Nguyên tội tức là tội tổ tông. Không cần bất cứ minh chứng nào, chỉ cần hồi tâm suy tư nơi chính mình, nơi thực thể cuộc đời mình khi đối diện với những quảng cáo, tuyên xưng, tuyên dương ồn ào nơi cuộc sống ở bất cứ thời đại nào hoặc bất cứ nơi đâu, tội nguyên tổ coi chừng chỉ là l‎ý thuyết ám định hầu dẫn tâm tư, suy nghiệm đến ơn cứu độ, đến Tin Mừng đức Giêsu rao giảng. Thiển nghĩ, vì chúng ta đã không để ý, không suy tư, suy nghĩ, suy nghiệm, để nhận biết Tin Mừng mà đức Giêsu rao giảng nên sẵn lòng chấp nhận câu chuyện giả tưởng, huyền thoại, không rõ tác giả nào trong lúc ngất trí nhận ra sự thể yếu hèn của thân phận nhân sinh sáng tác một cách ám định về thực thể mỏng dòn, bất nhất, không dám đối diện với thực thể chính mình của mỗi người chúng ta.

Thử nêu lên thực trạng đơn giản nơi mỗi người. Ai trong chúng ta đã bỏ thời giờ suy tư hoặc có cơ hội, tự trả lời một trong những câu hỏi, chẳng hạn, tại sao hay lý do gì, nguyên nhân nào, mình được sinh ra? Hay, mình được sinh ra để làm gì? Mục đích cuộc đời của mình là chi? Thế rồi, sau khi chết, mình có còn là gì nữa không; nếu còn là một thứ gì thì mình sẽ đi về đâu? Thế nên, khi đối diện với những trắc trở cuộc đời, con người nhận ra chính mình không thể, không có cách nào làm chủ cuộc đời của mình, và đồng thời, "Đa thọ thì đa nhục," trong khi ai cũng muốn sống lâu; mà càng sống lâu càng phải chịu đựng những phiền hà, bệnh tật nơi cơ thể, đồng thời mơ ước những điều không thể chẳng khác gì bà Evà nơi câu truyện ám định tạo dựng thế nhân trong cuốn Kinh Thánh phần Sáng Thế K‎ý.

Chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu. Chúng ta có biết rõ ràng tin vào Thiên Chúa là tin thế nào không? Hay chỉ nghĩ, chỉ cho rằng mình tin vào sự thể mông lung nào đó được mệnh danh là Thiên Chúa, Ông Trời, Thượng Đế. Chúng ta cho rằng, nghĩ rằng Chúa quan phòng, thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, thế sao Phúc Âm có câu, "Ta bảo các ngươi, hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những kẻ bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở rên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác... Vậy các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 44-48). Chẳng những thế, nơi Lão học cũng có câu, "Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu" (Trời đất đâu thương xót, thiên vị ai, coi mọi sự như loài chó rơm). Coi chừng những gì chúng ta mệnh danh là tin chỉ là không tưởng. Sự thể này đã được Thomas Aquinas nói lên điều ít ai dám nhắc tới, "Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu, chúng ta không thể nói được gì về Ngài; tất cả những gì nói về Thiên Chúa đều chỉ là tưởng tượng." Có thể nói, chúng ta đã thiếu suy tư, thiếu suy nghĩ, thiếu nghiệm xét; chúng ta tin theo, hùa theo, quả hợp với danh hiệu theo đạo, hùa theo những gì người khác nói chứ không để ý, không biết mình tin gì, không tìm hiểu, suy tư về điều mình tin theo.

Sự thể thực trạng tâm tưởng tin theo của chúng ta đã như thế, thì có nói gì chăng nữa cũng chỉ như nước đổ lá môn, nước dội đầu vịt. Thêm vào đó, nếu đã không tự suy tư, không suy nghiệm, không nghiệm xét thì cho dù tuyên xưng, tuyên dương, truyền bá cũng chẳng khác gì ngồi trước mâm cỗ thịnh soạn mà không ăn thì bụng vẫn đói; rượu, nước, sẵn đấy mà không uống sao có thể say, sao có thể hết khát; trong khi sự suy nghiệm, suy tư chỉ về người thực hành, chỉ hành giả mới cảm nhận được, không thể chia sẻ cho bất cứ ai, chẳng hề bao giờ nhận được đồng cảm, quả hợp câu nói, "Người biết không nói, kẻ nói không biết" (Lão).

Nơi thực trạng tâm tư mỗi người, nếu bố mình làm gì sai hoặc ăn trộm bị đi tù, mình có dính líu gì về lỗi phạm của ông ấy không? Mình có chấp nhận cả đời bị lỗi lầm ấy không? Có chăng chỉ thông phần đau xót tâm tư thế tục, đau xót vì chính danh dự của mình là con kẻ lầm lỗi bị mọi người chung quanh khinh khi. Thực ra, họ khinh mình tự nơi tâm hồn của họ, đâu liên hệ gì tới mình dẫu mình bị ảnh hưởng bất lợi trong cuộc sống. Tuy nhiên, mình vẫn là mình; họ lấy dao cắt tay họ thì họ đau chứ mình có cảm thấy chi đâu. Sự thể này không khác chi ý nghĩa ám định nơi câu nói, "Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu."

Tự nghiệm nơi chính bản chất nhân sinh nơi mỗi người, câu truyện bà Evà ăn trái cấm là chính cách tính nơi mỗi người chúng ta; như thế mới thực sự giống tội nguyên tổ. Chúng ta ai không thế, muốn đủ điều, ước mơ muôn ngàn thứ và không muốn cho ai biết tham vọng của mình nhưng không chấp nhận hậu quả, để rồi lại đổ lỗi cho Chúa phạt. Nếu ai đó quan niệm Kinh Thánh viết truyện lịch sử thì cho đến muôn đời sẽ không thể nhận thức được Tin Mừng đức Giêsu rao giảng là gì nơi cuộc đời của mình, cũng như đã hơn kém hai ngàn năm cho tới nay, Tin Mừng vẫn còn bị dấu kín dẫu Kinh Thánh đang hiện diện nơi nhà mình, có thể đọc bất cứ lúc nào.

Thế nên, tuyên xưng, tuyên dương đức Maria vô nhiễm nguyên tội, chúng ta tuyên xưng thân phận của chính chúng ta, con cái của Thiên Chúa, anh em, mẹ của đức Giêsu như Ngài đã nói nơi Phúc Âm, "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta,' và giang tay chỉ các môn đồ của Ngài, Ngài nói, 'Này là mẹ Ta và anh em Ta. Phàm ai là theo ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời, kẻ ấy là anh em và là mẹ Ta'" (Mt. 12:48). Phúc Âm khuyên nhủ, "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã và sự công chính của Người, và mọi sự khác sẽ được ban cho các ngươi" (Mt. 6:33). Đến đây tôi chợt nhận ra, bà Evà được tạo dựng, và sống trong thiên đàng, nước của Thiên Chúa, Nước Trời, mà cũng như chúng ta, bà đã không cần biết Phúc Âm nói gì,không lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa mà chi lo tìm quyền năng, lợi ích nhân sinh, thế tục, làm liên hệ đến con rắn, bị kết án phải bò trên bụng, chỉ biết ăn đất, không biết bắt chuột hay những chim chóc khác.

Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta nơi hành trình đức tin. Amen.

CHỦ NHẬT 3A MÙA VỌNG 2002 (Mt. 11:2-11)

Qua cuộc đối thoại của Đức Giêsu với những người được Gioan sai đến, thêm một lần nữa Phúc Âm nhắc nhở chúng ta để tâm suy nghiệm về Tin Mừng Ngài rao giảng. Phúc Âm nhiều lần lặp đi lặp lại về nhiệm vụ cũng như sứ mạng của Đức Giêsu đó là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Thế nên, khi nhắc tới hai tiếng Tin Mừng, chúng ta cần nhận biết đó là Tin Mừng Nước Trời. Điểm đặc biệt của bài Phúc Âm vừa được công bố chính là câu nói, “Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó, và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta.” Lý do gì Phúc Âm phải đề cập đến vấn đề vấp ngã vì những lời giảng dạy của Đức Giêsu?

Như chúng ta đã biết, những văn từ được dùng nơi Phúc Âm thường mang ý nghĩa ám định, khác với ý nghĩa bình thường chúng ta nhận biết. Điều rõ ràng chỉ những ai để tâm nghiệm chứng mới có thể cảm nhận được đó là người nghèo được nhắc đến nơi Phúc Âm mang nghĩa những ai khát khao nhận biết Tin Mừng Nước Trời, những ai tâm trí chuyên nhất tìm hiểu hầu nhận biết Thiên Chúa, tìm hiểu về thân phận con người của chính mình và sự liên hệ giữa Thiên Chúa và con người như thế nào. Bởi thế, đọc hoặc nghe công bố mà không để ý mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa, chúng ta sẽ có cảm nghĩ Phúc Âm bao gồm những điều nghịch thường, trái ngược với nhận thức của con người.

Chẳng hạn chúng ta vừa nghe lời Phúc Âm được công bố, “Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.” Lẽ đương nhiên, thoạt mới nghe đến những lời này; ai không cảm thấy khác thường. Theo sự nhận biết và lý luận nhân sinh, ai không hiểu được những người nghèo khó cần những nhu yếu căn bản nơi cuộc sống chẳng hạn nơi ăn chốn ở, thực phẩm, quần áo, vật dụng. Thế sao Phúc Âm không nói đến sự chia cơm sẻ áo, đón nhận, và giúp đỡ những kẻ khốn cùng trong khi lại đem sự rao giảng Tin Mừng cho họ làm bằng chứng. Điều này nói lên Tin Mừng Nước Trời cần thiết và quan trọng đối với con người hơn cả những nhu yếu căn bản cho cuộc sống.

Nhiều lần Phúc Âm nhắc nhở chúng ta, Nước Trời đang hiện diện giữa chúng ta và thường được dịch là đến gần hay gần bên. Nơi Phúc Âm Mátthêu chẳng hạn, chúng ta đọc được, “Trong những ngày ấy, Gioan Tẩy giả xuất thân rao giảng trong sa mạc xứ Giuđêa rằng, Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 3:1-2), hoặc, “Từ bấy giờ, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và “nói, “Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 4:17), hay, “Hãy đi và loan báo rằng: Nước Trời đã gần bên” (Mt. 10:7), hoặc nơi Phúc Âm Marcô, “Sau khi Gioan đã bị nộp thì Đức Giêsu đến xứ Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa mà rằng: Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15).

Đức Giêsu cũng rõ ràng tỉnh thức dân chúng nhận biết Tin Mừng bằng cách minh chứng nơi những công việc Ngài đã thực hiện khi những người có ý đồ bất chính dùng lời tuyên truyền xúc phạm đến Ngài, cho rằng Ngài đã nhờ quỷ vương được gọi là Bêelzêbul để chữa bệnh, “Nếu Ta nhờ Bêelzêbul mà trừ quỷ thì bè phái các ngươi nhờ ai mà trừ quỷ? Bởi thế, ví bằng Ta nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12:28). Xưa nay chúng ta thường được dạy dỗ về những sự tưởng tượng theo lối suy tư thế tục của loài người và tạo nên quan niệm Nước Trời là nơi chốn nào đó được gọi là thiên đàng. Nơi Phúc Âm, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: Này ở đây hay ở đó, vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21).

Thiên Chúa là quyền lực sự sống. Ngài là cội nguồn và là quyền lực hiện hữu nơi mọi loài, mọi vật hữu hình cũng như vô hình. Ngoài Thiên Chúa không có bất cứ sự hiện hữu nào; thế nên, bất cứ gì hiện hữu đều có sự hiện diện của Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa ngự trị nơi mọi loài, mọi vật. Như vậy, sự hiện hữu của mọi vật, mọi loài, hữu hình cũng như vô hình chính là sự hiện thể của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau. Tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, tham vọng của chúng ta là những sự hiện hữu, và vì thế đều chất chứa sự hiện hữu của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bởi không để tâm nghiệm chứng chúng ta đã không nhận biết, do đó đã luôn luôn sử dụng không đúng đắn. Những sự sử dụng không đúng đắn quyền lực của Thiên Chúa nơi mình từ ý nghĩ, lời nói, lối sống, hành động chính là cội nguồn những sự tội lỗi. Như vậy, bất cứ những gì lạm dụng quyền lực của Thiên Chúa nơi mình đều được gọi là tội lỗi vì ngăn cản hành trình đức tin nơi mình.

Vì Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mọi loài, mọi vật hữu hình cũng như vô hình do đó giáo lý dạy: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Và như thế, Nước Trời là chính Thiên Chúa; Tin Mừng Nước Trời có nghĩa Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đây là ý nghĩa tại sao Phúc Âm nói Nước Trời ở giữa các ông; Nước Trời ở trên các ông; Nước Trời ở trong các ông… Cũng chính vì thế Phúc Âm được viết, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: Này ở đây hay ở đó, vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21). Suy như thế, ai nhận thực được chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi chính mình, nơi cuộc đời mình, nơi mọi vật, mọi loài, người đó được gọi đạt tới hoặc ở trong Nước Trời.

Bài Phúc Âm nêu lên câu nói của Đức Giêsu, “Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong Nước Trời cũng còn cao trọng hơn ông,” nhắc nhở và khuyến khích mỗi người chúng ta để tâm nghiệm chứng sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình. Gioan thực hiện phép rửa như một hành động chứng tỏ lòng thống hối để thanh tẩy và mở rộng tâm hồn, nhận chân sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người. Đức Giêsu rao giảng cho chúng ta biết chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Như vậy, sự nhận thức thực thể hiện hữu của Thiên Chúa nơi mỗi người quan trọng hơn bất cứ danh vọng hay quyền lực nào nơi trần thế.

Tóm lại, sự hiện hữu của mỗi người chúng ta chính là sự hiện thể của Thiên Chúa vô hình nơi tâm trí, linh hồn, và hữu hình nơi thân xác cũng như nơi những sinh hoạt trong cuộc sống. Nhận thực được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi cuộc đời được gọi là thức ngộ hoặc ở trong hay thuộc về Nước Trời. Những ngày trong mùa vọng, xin mọi người để tâm suy tưởng lời Phúc Âm, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” hoặc Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, hay “Nước Thiên Chúa ở trong các ông.” Amen.

CHỦ NHẬT 4A MÙA VỌNG 2002 (Mt. 1:18-24)

Nếu để ý đến tình cảm, cảm nghĩ, hay vị giác, kinh nghiệm sống cung cấp cho chúng ta nhiều cơ hội nhận thức về chính mình. Đến mức độ nào đó nơi diễn tiến tự tìm hiểu, chúng ta cảm thấy mình chất chứa một sự mầu nhiệm khó thể nhận biết. Nhiều sự thể hoặc diễn tiến chúng ta thường kinh nghiệm hoặc hành động, hay làm theo thói quen nên không để ý nhưng lại không thể nào giải thích cho người khác cảm nhận được như chính mình, chẳng hạn khi chiêu một ngụm trà hay nhấp miếng cà phê. Dầu chúng ta cố gắng dùng đủ mọi ngôn từ hoặc tác động hay ám định để giải thích, không ai có thể cảm thấy được sự cảm nhận chính xác của chúng ta khi uống trà hay cà phê.

Dĩ nhiên, nếu ai đó đang lúc khát nước, chúng ta càng giải thích về sự ích lợi, hoặc tính chất, hay công dụng của nước, hoặc cà phê, hay trà, và bất cứ thức uống giải khát nào, người khát nước càng cảm thấy khó chịu. Sự giải thích về các thứ giải khát không thể khiến người đang khát nước hết khát được. Thế nên, muốn thực sự nhận thức được tách cà phê hay ly trà thi vị, tuyệt vời ra sao, chúng ta phải uống hay nhấp thử, không còn cách nào khác.

Thêm một thí dụ về trường hợp yêu thương. Cho dù sử dụng bất cứ phương pháp thực nghiệm hay lý thuyết nào, quý vị cũng không thể giải thích để bất cứ ai có thể cảm nhận được thực sự quý vị yêu thương người bạn đời và từng đứa con của quý vị ra sao. Chính ngay quý vị cũng không thể nào giải thích cho vợ hay chồng của mình cảm nhận thực sự được lòng yêu thương của quý vị đối với họ, mà có chăng, càng cố gắng giải thích, quý vị chỉ càng làm cho họ bực mình. Cũng như trường hợp nơi tâm tình yêu thương, chúng ta chỉ có thể tự cảm nhận, chấp nhận, và có cảm ứng riêng tư cá nhân về Thiên Chúa nhưng chúng ta không thể nói hay diễn giải về Ngài bằng bất cứ cách nào, cũng như không thể nói được sự liên hệ của Ngài đối với chúng ta thực sự ra sao.

Thực thể này tâm tư này tương tự tâm tình cảm nhận chung của mọi người đối với Thiên Chúa. Tất cả những ngôn từ ám định, những lý thuyết, triết thuyết giải thích hoặc những chủ thuyết bày tỏ quan niệm đều không nói được chút gì về Thiên Chúa, mà có chăng chỉ giống như câu Phúc Âm đã nói, “Mù mà dẫn đàng cho mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Mt. 15:14). Ai để tâm nhận thức hay cảm nhận về Thiên Chúa, tự người đó biết, nhưng nói ra không được. Đây chính là ý nghĩa câu nói thời danh nơi Lão học đã khiến nhiều người tốn công sức và thời gian nghiệm chứng, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Thánh Tô Ma Aquinas cũng để lại câu nói mạnh bạo rất ít người Công Giáo dám để ý suy gẫm, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Người ta không thể nói được gì về Thiên Chúa; thế nên, tất cả những gì con người có thể nói về Thiên Chúa đều chỉ là sự tưởng tượng.”

”

Bởi vậy, quý ông bà anh chị em hãy để ý suy nghiệm về những gì tôi chia sẻ từ sự suy nghiệm của tôi về Chúa chứ đừng vội tin hoặc cho rằng tôi nói đúng hay sai. Những gì tôi nói chỉ phần nào ám định cảm nghiệm của tôi về Chúa, chứ không phải của quý ông bà anh chị em, nên chỉ có thể được coi như đặt vấn đề để quý vị suy nghiệm, chứ không thể mang ích lợi gì cho ai nếu người đó không tự suy nghiệm. Quý vị hãy đặt những câu hỏi và tự trả lời sao cho hợp tình hợp lý để có thể chấp nhận được nơi mọi trường hợp. Đây là phương pháp suy nghiệm, dùng tri thức để nhận biết về thực thể Thiên Chúa nơi mình và hoạt động nơi mình. Lối suy nghiệm này sẽ dẫn quý vị nhận thức về Thiên Chúa nhanh nhất nhưng cũng gây nơi tâm trí nhiều nỗi kinh hoàng; đôi khi có thể nói, chúng ta sẽ bị hoảng sợ vì chính mình đã dám nghĩ tới những điều hoàn toàn đối nghịch với lòng chân thành và sùng kính từ bao lâu nay.

Bài Phúc Âm vừa được công bố trình bày về Tin Mừng Đức Giêsu đã rao giảng và mục đích nhiệm vụ Ngài thực hiện trong những ngày sống tại dương thế (Lc. 4:43). Câu chính yếu của bài Phúc Âm được chép, “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Chúng ta gọi ông George Bush là tổng thống vì ông ta đã được bầu cử để giữ nhiệm vụ của tổng thống, nhiệm vụ tối cao của đất nước Hoa Kỳ. Tổng thống là danh hiệu của ông vì ông được bầu để thực hiện công việc này.

Cũng thế nơi câu Phúc Âm, “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel,” đây chính là danh hiệu của Đức Giêsu. Đức Giêsu có danh hiệu Emmanuel, chính danh hiệu này nói lên nhiệm vụ hay công việc Ngài thực hiện. Danh hiệu Emmanuel có nghĩa“”Thiên Chúa ở cùng chúng ta” chứng tỏ Ngài có sứ mạng rao giảng, công bố cho mọi người nhận biết Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” chính là Tin Mừng Nước Trời Đức Giêsu đã dùng cả cuộc đời của Ngài rao giảng; chẳng những thế, Ngài còn sai các môn đồ ra đi rao giảng cho mọi người. Vì Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người thế nên đức tin là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người. Đức Giêsu rõ ràng công bố cho chúng ta nhiều lần nơi Phúc Âm, đức tin con chữa con (Mt. 9:22); đức tin con cứu con (Lc. 8:48); đức tin con là ơn cứu độ của con (Mk. 10:54; Lc. 7:50), chữa lành con (Lc. 17:19; 18:42).

Tuy nhiên, nơi Phúc Âm Luca, Đức Giêsu nêu lên nghi vấn khá nặng nề đối với những ai tuyên xưng tin tưởng nơi Ngài, “Phỏng khi Con Người trở lại có còn thấy được lòng tin trên mặt đất nữa không!” (Lc. 18:8). Cảm nhận, nghiệm chứng được Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mình hay không chính là sự nhận biết đức tin nơi mình hay không. Sự kiện tâm linh này thuộc về lãnh vực tâm tình và nhận thức của mỗi người chứ không tùy thuộc sự tuyên dương hay tuyên xưng hoặc giảng giải hay chứng tỏ bằng lời nói. Nếu ai đã để tâm suy nghiệm Lời Chúa qua Phúc Âm mới có thể nhận biết thực thể tại sao câu hỏi đầy nghi ngờ về lòng tin của con người đã hai ngàn năm qua vẫn chỉ là câu hỏi mà bất cứ ai cũng cảm thấy ngại ngùng mỗi khi được nhắc tới.

Có thể nói, chúng ta đã cố tình lãng quên câu hỏi này bởi nếu đặt vấn đề tại sao Đức Giêsu đặt vấn đề nghi ngờ lòng tin của con dân Ngài. Chúng ta phải đối diện với thực tại trống rỗng nơi tâm hồn, và đó là chúng ta đã không thực sự cảm nhận được đức tin hay lòng tin là gì. Không dám đối diện với thực tại tâm linh nơi mình, chắc chắn chúng ta thường xuyên phải mang nỗi lòng lo âu, e sợ mỗi khi nghe tới danh hiệu Tin Mừng Nước Trời. Như vậy, được gọi là tin mừng nhưng chính vì không để tâm suy nghiệm, tin mừng đã trở thành tin buồn tạo nỗi khắc khoải luôn luôn day dứt cõi lòng. Amen.