Các Thánh Tử Đạo VN (Mc 13:24-32) -hiên Chúa sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương.
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ về ngày quang lâm của Người: “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho tới cuối chân trời. Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nẩy lộc, thí anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xẩy ra, anh em biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Con Người cũng không, chỉ trừ có Chúa Cha biết mà thôi.” Đó là Lời Chúa.
Đọc phúc âm, nếu không để tâm suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy lời phúc âm câu này đối nghịch câu kia, hoặc ngược hẳn với luân lý, đạo đức thế tục. Chẳng hạn, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta ắt không xứng với ta. Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại" (Mt. 10:37-39). Nếu ai suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét câu này, sẽ nhận ra phúc âm không nói gì đến yêu thương hoặc cha mẹ, hay con cái. Nhưng nếu để ý đến diễn trình tư tưởng khi suy tư, chúng ta thấy rõ, tâm trí chúng ta luôn biến chuyển, hoạt động. Trong khi mình đang suy nghĩ về một vấn đề gì, thì có những tư tưởng trời ơi đất hỡi nào đó xuất hiện phá rối dòng suy tư của mình.
Phúc âm dùng cha mẹ, con cái để chỉ về những tư tưởng trời ơi đất hỡi này. Từ đó chúng ta nhận ra phương cách định hướng suy tư, và đó là trong khi suy tư, suy nghĩ, suy nghiệm, nghiệm xét, thí dụ, linh hồn mình là gì và liên hệ với thân xác cũng như cuộc đời của mình ra sao. Bất cứ tư tưởng, quan niệm nào hiện đến, tâm trí chúng ta không dõi theo chúng mà lờ đi, để nó tự sinh tự diệt. Chúng ta không cần gạt bỏ hay chống lại những tư tưởng trời ơi đất hỡi này; bởi nếu cố gắng gạt bỏ hay chống lại chúng, chúng ta biến nó thành đối tượng tranh đấu khiến tâm trí suy nghĩ trật chủ đích. Thử xét trường hợp, một người đứng hò hét, la lối trước một bức tường. Bức tường không trả lời hay có bất cứ thái độ nào, người đó hò hét mệt hơi rồi cũng tự im lặng bỏ đi.
Lời Chúa hôm nay dùng những hiện tượng thiên nhiên để nói về sự diễn tiến nơi tâm trí, tâm hồn một người suy nghĩ, nghiệm xét về thực thể hiện diện của Chúa nơi mình, được gọi là nhận thức hay thời điểm thức ngộ. Con người bao gồm hai cuộc sống, thân xác cuộc đời và cuộc sống tâm linh. Những chiều hướng nhận thức tâm linh mù mờ, những e sợ mối họa tinh thần của một người do không nhận biết thực thể mình là gì triền miên đè nặng nơi tâm trí tạo nên nỗi ưu tư, lo lắng, sợ hãi giao động tâm trí con người khiến không bao giờ có được nỗi an bình tâm tưởng.
Hiện tượng tai họa thiên nhiên như dịch bệnh, bão tố, gây kinh hãi, tàn phá trong cuộc sống con người ám định những nỗi bất an và mối đe dọa tâm tưởng nơi hành trình suy tư về thực thể chính mình. Tôi không thể nói bất cứ gì về những sự kiện tâm linh xảy đến nơi tâm trí một người nơi diễn trình suy tưởng; mà chỉ có thể nói chung, đại khái; nơi hành trình suy tưởng, suy tư về thực thể của mình, tâm trí một người sẽ phải đối diện với nhiều chiều hướng, tham vọng nhân sinh, những mối đe dọa về thua thiệt danh vọng, tăm tiếng. Kinh nghiệm này, những ai thực nghiệm nhận biết chính mình dưới quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh tất nhận ra áp lực phản kháng nơi tâm trạng từ chối chấp nhận chính mình như thế nào. Tôi chỉ có thể nói được như thế, ai đã thực hành tất nhiên cảm nhận được. Nơi phương diện này, không có gì để giải thích, giải nghĩa; vì sự thể đó lệ thuộc cảm tính thực nghiệm được diễn tả nơi câu nói, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” (Lão). Nói cách khác, chúng ta chỉ có thể so sánh với thực trạng, ai ăn người ấy no; ai uống người ấy hết khát, không gì để giải thích.
Tóm lại, lời phúc âm vừa được công bố ám định những diễn tiến nơi tâm tưởng những ai chân thành suy tư, nghiệm xét, về thực thể chính mình liên hệ với Thiên Chúa, phải đối diện với đe dọa của ham hố, tham vọng nhân sinh, thế tục. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta, “Cũng vậy, khi thấy những điều đó xẩy ra, anh em biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xẩy ra.” Những ai thực nghiệm suy tư, nghiệm xét, sẽ nhận biết, nói cách khác, tất sẽ phải đối diện với thực trạng tâm trí bị dồn đến hiện trạng thường được gọi là “Góc tối suy tư.” Nơi hiện trạng này, tâm trí con người bị dồn vào ngõ bí không thể suy tưởng, nghiệm xét được bất cứ gì. Tất cả những tư tưởng, quan điểm, lý thuyết, chủ thuyết, chiều hướng, tham vọng, toan tính hơn thiệt, e ngại, lo lắng dồn đọng tạo thành một đám mây lộn xộn, quay cuồng tạo sự trói buộc, chèn ép tâm tư, khiến tâm tưởng người đó không biết cách nào thoát khỏi. Chỉ còn một cách duy nhất, và đó là chân thành, thẳng thừng đối diện cho đến lúc nào đó, không còn thấy mình mà đã tan hòa trong sự biến chuyển vô cùng của Thiên Chúa; sự thức ngộ bùng lên, lúc ấy sẽ biết.
Thiên Chúa ngự trị, và hoạt động nơi mọi người. Đấng Thánh tuyệt đối hiện diện nơi mỗi người chúng ta. Mừng kính các thánh, chúng ta mừng kính thực thể thánh thiện của Thiên Chúa nơi chính mình. Nhận biết thực thể này hay không chỉ có một điều kiện, chúng ta có để tâm suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét hay không. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt mọi người thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình suy tư nhận biết thực thể chính mình, nhận biết thực thể Thiên Chúa hiện diện nơi mình. Amen.
Chủ Nhật 31A (Mt. 23:1-12)
Thật là khó hiểu lý do gì phúc âm phải nhắc nhở, “Luật sĩ và Biệt phái ngồi trên tòa Môi sen; vậy những gì họ nói với các ngươi; các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ; vì họ nói mà không làm.” Ai cũng biết, phúc âm được viết cho muôn người, mọi thời đại. Luật sĩ và Biệt phái đại diện cho giai cấp giảng dạy lời Chúa cho dân của Ngài. Nói cho đúng, bất cứ khi nào đọc đến những dụ ngôn, đại khái lên án hay quở trách thượng tế, biệt phái, và luật sĩ, tôi đồng thời tự hỏi còn mình thì thế nào; lời Chúa muốn nói gì với mình, lời Chúa đang nhắc nhở về điều gì đối với mình.
Nhân tiện chia sẻ lời phúc âm với quý vị, tôi có lời chân thành xin lỗi tới bất cứ ai đã cảm thấy phiền lòng vì tôi dẫu vô tình hay nơi trường hợp quên sót. Tất nhiên, nơi những trường hợp bị nặng nề tổn thương tâm tình hay nhận thức, lời xin lỗi không giải quyết được chi, bởi tôi nhận thức được rằng, dù lỡ tay khiến ai đó chẳng may bị chết thì cho dù có xin lỗi cách mấy thì cũng không thể nào khiến người ta sống lại được. Tuy nhiên, dẫu sao thì tôi cũng chỉ là con người với nhiều thiếu sót như bất cứ ai. Thế nên, tôi xin được quý vị chấp nhận thông cảm và tha thứ cho tôi, dù nói ra hay không, nơi trường hợp tôi dù vô tình hay đã không để ý gây nên nỗi phiền lòng đến quý vị.
Nhìn vào những lời phát biểu của phúc âm chúng ta thấy lời nhắc nhở nói lên hai trạng thái sự việc riêng biệt. Trước hết, “Nhưng đừng noi theo hành vi của họ; vì nọ nói mà không làm;” điều này nói lên hành vi, hành động hữu vi, nhân sinh, thế tục. Dĩ nhiên, nơi thế giới nhân sinh, hành động, phản ứng đối với một sự việc trong cuộc sống như cách ăn nết ở đều tùy thuộc vị thế, quan điểm theo lề luật thành văn hay bất thành văn. Thế nên, thái độ, cách đối xử để giải quyết công việc đều không ai giống ai lệ thuộc vị thế của họ. Chẳng những thế, thái độ còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện thực tại, liên hệ, và trạng thái tâm tư của người liên hệ trong cuộc chỉ người đó biết, người ngoài cuộc không thể nào chia sẻ hoặc xét đoán như lời phúc âm đã khuyên nhủ, “Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét” (Mt. 7:1).
Từ nhận xét này, sự thể trạng thái cuộc sống hữu vi, thế tục, không ai nên bắt chước ai vì cuộc đời mình không giống cuộc đời của bất cứ người nào. Mình phải là mình và mình không phải và không thể là bất cứ ai khác. Nhìn vào sự thể cuộc sống tự nhiên, con voi to và khỏe nhưng không ăn thịt mà cũng chỉ như loài bò, loài trâu, chỉ ăn cỏ; tuy nhiên, con hổ, con báo, cỏ tràn lan mặt đất lại không chịu ăn mà cứ bắt những con nai, con hươu làm thực phẩm.
Lời phúc âm nêu lên thực thể tâm linh, “Các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi là anh em với nhau, và các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời.”Có lẽ đây cũng là gốc gác cho nhận định định nghĩa về giáo hội của công đồng Vatican II, “Giáo hội là dân của Chúa.” Ai không là dân của Chúa? Ai không có linh hồn? Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người, nơi quý ông, quý bà, quý anh chị em, nơi tôi, nơi mọi người. Thiên Chúa là sự sống, sự hiện hữu nơi mọi người. Và như vậy, chúng ta là một trong Thiên Chúa. Tất cả là một trong Thiên Chúa, trong sự biến chuyển vĩnh cửu của Ngài.
Sự hiện hữu bao gồm hai trạng thái, hữu hình và vô hình được gọi là dưới đất và trên trời. Thân xác và cuộc sống mỗi người thuộc về hiện hữu hữu hình. Linh hồn, tư tưởng, ước muốn, ý định, tham vọng thuộc về tâm linh, vô hình. Cuộc sống con người bao gồm cuộc sống tâm linh của linh hồn và cuộc sống hữu vi, thế tục xác thân. Cả hai là một không thể phân chia. Cuộc sống hữu hình là cơ hội hay phương tiện để hoàn thành ước muốn, ý định, tham vọng của linh hồn. Khi thân xác qua đi, linh hồn tiếp tục theo đuổi ước muốn, tham vọng của mình. Nhu cầu sinh tồn của thân xác quá hiện thực và cấp thiết khiến tâm trí một người ít để tâm đến cuộc sống tâm linh nên thường ỷ y dựa vào những lời giảng dạy của các bậc rao giảng.
Tuy nhiên, chúng ta đều kinh nghiệm, không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho mình thì cũng không ai có thể suy nghĩ, nghiệm xét dùm cho mình nơi hành trình thăng tiến tâm linh, hành trình đức tin, hành trình nhận biết thực thể Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi mỗi người. Phúc âm khuyến khích chúng ta nên tự suy tư để nhận biết chính mình, nhận biết sự hiện diện của Chúa nơi mình. Lời Chúa là đường, là sự thật, để tâm suy nghĩ về lời Chúa, lời phúc âm dạy, “Không ai có thể đến với Ta nếu Cha, Đấng đã sai Ta không lôi kéo nó” (Gioan 6:44). Thiên Chúa ngự trị, hiện diện nơi mỗi người. Thế nên, muốn nhận biết, nhận thức sự hiện diện của Chúa nơi mình, chúng ta cần suy nghĩ, cần suy tư, nghiệm xét.
Hãy bắt đầu bằng câu phúc âm, “Ai có tai thì nghe” (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35) và tự hỏi, cái tai của mình có thể nghe tự nó không? Khi linh hồn ai đó ra khỏi xác, tai họ có còn nghe được nữa không? Như vậy, tai không thể nghe tự nó và nó chỉ là phương tiện cho linh hồn nghe. Tương tự như thế, mắt, miệng, bộ óc, cũng hết hoạt động khi linh hồn ra khỏi xác; chúng cũng chỉ là phương tiện cho linh hồn làm việc. Từ đó suy ra, ước muốn, tham vọng, ước mơ phát xuất tự linh hồn và thân xác cũng như cuộc đời một người thực hiện ước muốn tự linh hồn. Chúng ta sẽ suy ra liên hệ giữa thân xác, cuộc đời và linh hồn. Vậy linh hồn và Thiên Chúa ngự trị nơi mình liên hệ ra sao? Tôi chỉ nêu lên đôi câu hỏi, quý ông bà, anh chị em để tâm suy nghĩ. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt mọi người nơi hành trình suy tư nhận biết sự hiện diện của Chúa nơi mình. Amen.
Chủ Nhật 32A 99(Mt. 25:1-13)
Quí ông bà, anh chị em trong Đức Kitô,
Mới thoạt nghe dụ ngôn nơi Phúc Âm về mười trinh nữ đi đón chàng rể, kết cuộc năm cô phù dâu khờ dại bị từ chối dự tiệc cưới, không ai trong chúng ta tránh khỏi nỗi nghi vấn nơi tâm tư bởi dẫu suy luận thế nào, lý do tạo nên sự từ chối không cho tham dự tiệc cưới đều có vẻ bất công và thiếu sót nếu xét theo tâm lý và luân lý người đời. Thêm vào đó, dụ ngôn mang chủ đích nói về Nước Trời và dùng sự kiện nhân gian, đón dâu và tiệc cưới theo tục lệ Do Thái, để ám chỉ. Nước Trời được ví như tiệc cưới và những trinh nữ phù dâu đại diện cho con người, cho dân Chúa.
Thế nên, nếu nói rằng năm cô phù dâu khờ dại nên bị từ chối, và vì khờ dại nên không được gia nhập nước trời thì quá sức phi lý và bất công. Phỏng ai trong chúng ta muốn được sinh ra khờ dại; mà đã khờ dại, chúng ta đâu ước muốn gì bởi biết gì đâu mà ước và muốn. Nói rằng vì bê trễ và cửa đã đóng lại nên không được vào lại càng phi lý. Theo tập tục Do Thái thời bấy giờ cũng như ngày nay, bởi người đàn ông được phép có nhiều vợ, đồng thời tục lệ đưa dâu vào buổi tối, tất nhiên sự thua thiệt về phận đàn bà; bởi vậy họ đã tạo nên những tập tục làm khó dễ đàng trai khi đón dâu chẳng khác gì nơi một số trường hợp của người Việt, nên sự bê trễ phát xuất từ đôi bên hai họ trai gái. Giả sử hành trình rước dâu đúng giờ đã định thì sao có cảnh bê trễ của năm trinh nữ phù dâu khờ dại.
Xét như thế, nguyên nhân của sự bê trễ chính vì năm cô phù dâu khờ dại đi mua dầu đổ vào đuốc. Điều này có nghĩa năm cô khờ dại đã không chịu suy nghĩ hoặc tính toán hay nhận định sự việc nên làm hoặc những gì cần phải chuẩn bị trước khi tham dự rước râu và tham dự tiệc cưới. Năm cô phù dâu được gọi là khờ dại chính vì nghe sao biết vậy và làm theo mà không suy nghĩ, không cân nhắc, đắn đo, hay nhận xét công việc mình cần thực hiện. Suy như thế, lý do khiến năm cô khờ dại bị từ chối tham dự tiệc cưới chính bởi thiếu ý thức, chỉ sống theo thói quen, bảo sao làm vậy.
Đọc nơi Phúc Âm chúng ta thấy nhan nhản những lời khuyên, "Này Ta sai các ngươi đi như chiên vào giữa sói: hãy ở khôn như con rắn, và chân thực như chim câu" (Mt. 10:16; Lc. 10:3), "Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với nước Thiên Chúa" (Lc. 9:62), hoặc như chúng ta được nghe nơi Phúc Âm chủ nhật tuần trước, "Ký lục và Biệt Phái ngự tòa Môisen; vậy mọi điều họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm theo và hãy giữ lấy; nhưng các ngươi đừng làm theo hành vi của họ" (Mt. 23:2), hay "Hãy cải thiện, hãy thay đổi lối suy tư và tin vào Phúc Âm" (Mc. 1:15), hoặc, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta ắt không xứng với ta. Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại" (Mt. 10:37-39).
Nói tổng quát, đây là những điều kiện tâm trí một người phải đạt tới hầu tìm hiểu lời Phúc Âm dẫn đến Tin Mừng Nước Trời. Phúc Âm đòi hỏi bất cứ ai muốn nhận biết tin mừng đều cần thay đổi lối nhận định theo thế tục lệ thuộc nghĩa đen hoặc gò bó dưới dạng luân lý nhân sinh theo địa phương thay đổi tùy thời điểm. Phúc Âm khuyến khích chúng ta mở rộng tâm hồn sao cho có nhận định vượt hẳn thói quen nô lệ những ý thức cũ xưa hoặc lý luận trần tục. Phúc Âm đòi hỏi mỗi người cần tự suy tư chín chắn về lời Chúa sao có được nhận định bao quát, phù hợp với mọi trường hợp và mức độ tâm linh, chứ không phải đóng tai bịt mắt để rồi hùa theo thói quen, tập tục một cách thiếu suy tư. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người như lời Phúc Âm thánh Matthêu xác định rõ, "Khi người ta nộp các ngươi, thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao, hay nói gì: vì ngay giờ đó sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói, mà là Thần Khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi" (Mt. 10:20). Lời Phúc Âm này có nghĩa "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt. 1:23); Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người từng giây từng phút. Đây chính là Tin Mừng Nước Trời.
Tóm lại, dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể trong đó có năm cô khờ dại bị khước từ tham dự tiệc cưới khuyến khích chúng ta cần biết suy nghiệm Lời Chúa để cảm nghiệm tin mừng nước trời, để cảm nghiệm thực sự Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi chính mỗi người. Xin Đức Giêsu sai Thánh Thần soi sáng cho chúng ta nơi hành trình đức tin, hành trình nhận biết Thiên Chúa nơi mỗi người.
CHỦ NHẬT 33 A 1999(Mt. 25:14-30)
Quí ông bà, anh chị em trong Đức Kitô,
Bài Phúc Âm vừa được công bố là một trong những dụ ngôn nói về điều kiện hoặc trạng thái tâm trí để nhận biết tin mừng nước trời nơi Phúc Âm theo thánh Mathêu. Nếu ai để ý khi đọc Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận thấy qua những dụ ngôn hoặc hình ảnh của ngày sau hết đều nói về trạng thái cảm nghiệm của một người khi thời điểm nhận thức tâm linh, thời điểm nhận thực quyền lực vô biên của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình quả khó thể diễn tả được. Thêm vào đó, để chuẩn bị cho thời điểm này, tâm trí con người phải đạt tới mức độ nào hầu đón nhận mà không bỡ ngỡ, có thể sinh ra tâm trạng ngỡ ngàng, hốt hoảng hoặc lo sợ. Có thể nói đây là lý do tại sao những đoạn Phúc Âm nói về sự tỉnh thức, về đặc tính suy tư, chuẩn bị để tâm hồn luôn luôn sẵn sàng đón nhận được điễn tả qua tâm tình những người nơi thời đại Noe, thời đại ông Lót, hoặc người chủ nhà canh chừng kẻ trộm, hay thái độ của mười nàng trinh nữ đi đón chàng rể trong đó có năm cô phù dâu khờ dại.
Câu chuyện dụ ngôn ba người đầy tớ nhận lãnh mỗi người một món tiền của chủ, hai người làm ăn sinh lợi gấp đôi phần mình được trao cho, được chủ khen là trung tín. Trái lại, người thứ ba đem tiền chôn dấu kỹ càng lại bị kết án là hư thân và biếng nhác. Suy niệm về đoạn Phúc Âm này, tôi cảm thấy ngỡ ngàng. Giả sử ai nhờ vả chúng ta giữ giúp của cải gì, không trả công, dứt khoát chúng ta không chấp thuận. Đàng này, người đầy tớ đã tốn công chôn dấu nén bạc lại còn bị quở trách; điều này cả là sự bất công.
Qua kinh nghiệm sống, chúng ta có thể đặt thêm vào bài Phúc Âm một trường hợp khác, đó là giả sử người chủ trao cho một người đầy tớ thứ tư bốn nén bạc. Người này ngay lành, trung thành, năng hoạt động và luôn luôn hết lòng làm lợi cho chủ. Tuy nhiên, theo Phúc Âm thánh Luca, chúng ta đọc được câu, "Với đồng loại của mình, con cái đời này khôn hơn con cái sự sáng" (Lc. 16:8). Thêm vào đó, đấu tranh giành sống đem lại cho chúng ta sự khôn ngoan nhận xét người cộng tác đó là, "Sự nhiệt thành thiếu hiểu biết, tính toán, chỉ là sự phá hoại." Thế nên, giả sử khi chủ trở về, người đầy tớ thứ tư này vì quá tốt lành đến độ thiếu khôn ngoan, suy xét đã làm ăn thua lỗ hết ba nén rưỡi và chỉ có thể trả lại cho chủ nửa nén bạc mà thôi. Phỏng chúng ta có thể nghĩ thế nào về thái độ của người chủ. Chắc chắn rằng vì biết người đầy tớ thứ tư hết lòng hết sức cố gắng làm ăn kiếm lời cho chủ mà chẳng may vì quá tốt lành nên bị thua lỗ người chủ cũng không thể nào nặng lời quở trách.
Qua nhận định đơn thuần về trường hợp của người đầy tớ thứ tư, chúng ta thấy rõ hơn lý do tại sao người đầy tớ đem chôn nén bạc bị lên án dẫu đã tốn công chôn giấu và không làm thiệt hại chút gì đến số vốn chủ đã trao cho. Người đầy tớ thứ ba bị kết án chính vì đã e sợ bị kết án như trong dụ ngôn đã ghi rõ câu trả lời của anh ta, "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo, và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất." Dĩ nhiên, vì sự sợ hãi, anh ta cũng e ngại lỡ làm điều gì sai lầm và như vậy anh ta đã không dám thử bất cứ công việc gì cũng như không dám suy nghĩ, tính toán bất cứ điều gì để sao cho có thể làm lợi cho chủ. Hơn nữa, cũng theo bài Phúc Âm, sự sợ hãi của anh ta bắt nguồn vì quan niệm rằng ông chủ là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo, và thu nơi không phát. Anh ta đã trở nên quá vô dụng vì có quan niệm không đúng đắn về ông chủ chẳng khác gì chúng ta đã có quan niệm về một Thiên Chúa quá ư hà khắc và ác nghiệt theo nghĩa đen được diễn tả nơi Cựu Ước.
Bài Phúc Âm được viết thêm câu nói nghịch thường, "Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật; còn kẻ chẳng có thì vật gì coi như của nó cũng lấy đi." Kinh nghiệm sống chứng minh, dẫu chúng ta có khả năng nào đó mà không năng tập luyện, phát triển thì chúng ta cũng không thể sử dụng được mà có chăng càng ngày chỉ càng lụn bại. Những công việc nào dù khó đến đâu, nếu chúng ta phải làm đi làm lại nhiều lần, lâu dần rồi cũng thành quen. Tương tự thế, Phúc Âm khuyến khích chúng ta nhận thực rõ ràng quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người vì Ngài ở nơi mọi người. Bất cứ ai muốn nhận thực quyền lực này, hoặc bất cứ ai đọc Phúc Âm để nhận biết quyền lực này đều cần điều kiện dám suy nghĩ, cảm nghiệm và không e sợ sai lầm vì Thánh Thần Thiên Chúa đang làm việc nơi mọi người và vì thân xác chúng ta là đền thờ của Thánh Thần. Chỉ những ai dám bất chấp những quan niệm cũ để nhận biết Chúa ngự trị nơi mình thì mới có thể cảm nghiệm được tin mừng nước trời.
Tóm lại, dụ ngôn những nén bạc khuyến khích chúng ta mở rộng cõi lòng để Thánh Thần làm việc và trợ giúp chúng ta trên hành trình đức tin, hành trình nhận thức thực thể tâm linh của mỗi người, hành trình cảm nghiệm Thiên Chúa ngự trị và đang hoạt động nơi mỗi người chúng ta từng giây từng phút. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng cho chúng ta để nhận biết tin mừng nước trời. Amen.
Thánh Lễ Tạ Ơn (Lc. 17:11-19)
Hôm nay, chúng ta hiệp dâng thánh lễ tạ ơn. Dĩ nhiên, trong cuộc sống, không ai là một hòn đảo. Cuộc sống bao gồm nhiều liên hệ, và trong sự liên hệ phát sinh nhiều tâm tình tùy thuộc những liên hệ khác nhau. Có những tâm tình một đời ghi nhớ, sống để dạ, chết mang theo. Có những ơn huệ lớn lao mà người hưởng thụ không thể nào trả nổi dẫu tiền nhiều đến đâu cho dù đã có câu nói, “Có tiền mua tiên cũng được.”
Nhìn lại sự thể tạ ơn trên thế giới, nhiều nước có những ngày lễ tạ ơn được ghi nhận là ngày quốc lễ được tôn trọng vào thời điểm nào đó trong năm. Tâm tình tạ ơn của mỗi dân tộc của một quốc gia mang nhiều trạng thái khác nhau. Nơi thì bắt nguồn bằng những sự giúp đỡ của những người bản xứ nơi họ mới di cư đến, hoặc ghi nhận ơn trên sau khi gặt hái mùa màng. Xét như thế, tâm tình tạ ơn phát xuất từ nhận thức do liên hệ cuộc sống hữu vi, nhân sinh đồng thời đa phần diễn tả tâm cảm cảm nhận hồng ân trong cuộc sống của con người đối với đấng linh thiêng được hướng dẫn theo niềm tin của họ.
Hồi tâm nhìn lại chính mình, tâm tình tạ ơn nơi mỗi người chúng ta mang tâm cảm nào và phản ứng cũng như được diễn tả nơi cuộc đời mỗi người ra sao? Một điều rõ ràng, mỗi người, không ít thì nhiều, hoặc đơn sơ hay sâu đậm, đôi khi mang tâm trạng phản cảm về cuộc sống, nhưng sự tôn trọng, thiết tha muốn sống cũng như cảm nhận hài hòa với cuộc sống, nếu để tâm nhận định, những tâm trạng này nói lên tâm cảm của mình với cuộc sống dẫu nhận biết hay không.
Cho dù chưa bao giờ đặt vấn đề để tự hỏi và tìm hiểu từ đâu hoặc tại sao mình có cuộc đời, thì dĩ nhiên mình đã sống và đang sống; nhận thức này có nghĩa mình đang có cuộc đời, và mình chấp nhận cuộc đời một cách nhưng không. Tất nhiên, không phải mọi người đều cảm thấy an hòa với cuộc đời, nhưng nói cho đúng, những ai bất mãn với cuộc đời thì cũng đã đang sống đôi khi lại quá tha thiết với cuộc sống nên cố tạo dựng cho mình một lý do nào đó để tiếp tục sống nếu không muốn nói là cố kéo dài cuộc sống.
Nhận thức như thế, dẫu nhận biết giá trị cuộc sống hay không, con người tự thâm sâu đã mang tâm cảm thiết tha với cuộc sống của mình, dẫu được đời ưu đãi hay hất hủi, may mắn hoặc xui xẻo. Thực ra, gọi là đời được ưu đãi, may mắn, hay hất hủi, xui xẻo, chỉ là nói lên sự thiếu hiểu biết về nguyên nhân tạo nên thực trạng cuộc đời mính dưới quan điểm nhân sinh, ước muốn hay tham vọng. Dĩ nhiên, ai cũng muốn có cuộc đời dễ thở hơn dẫu đôi khi nhận biết được, “Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc” thì cũng không thể chối bỏ những giá phải trả cho hương vị cuộc đời thêm đậm đà. Sự thể này cũng dễ hiểu, bởi nếu đã chưa bao giờ đối diện với khó khăn trong cuộc sống, sao có thể có tâm thái an hưởng những giây phút mang niềm vui đơn sơ, thanh thản nơi cuộc đời. Cứ thử nhìn lại quá khứ, nhớ lại tâm trạng khó khăn lúc học hỏi, so sánh với tâm trạng chiến đấu với cuộc đời bây giờ, ai không tiếc nuối thời vàng son của những ngày cắp sách tới trường lớp.
Có câu nói, “Đối với những ơn huệ quá lớn lao khôn thể nào trả nổi, thì phương cách trả ơn tuyệt vời nhất lại là vô ơn.” Vô ơn nơi đây không phải là bất nghĩa, bất nhân, nhưng lại mang tính chất cảm nhận thâm sâu, và đó là an hưởng, chìm đắm trong ân huệ ấy một cách nhiệt tình. Chính tâm tình ham muốn kéo dài cuộc sống, đôi khi tạo nên tham vọng, minh chứng tâm cảm an hưởng ân huệ, hồng ân cuộc sống. Ai không thế, được sinh ra thì sống, dẫu đôi khi không muốn sống; mặc dầu nói hay nghĩ như thế, nhưng lại sợ chết.
Nhận thức được tâm tình của mình với thực thể cuộc sống nơi mình như thế, nhân ngày lễ tạ ơn, tôi đề nghị mỗi người, từ nay, nên để tâm suy nghĩ về giá trị cuộc đời của mình. Mình được sinh ra để làm gì; mục đích cuộc đời của mình là gì; tại sao mình có cuộc đời; mình là ai, thế nào. Nói cho đúng, chỉ khi nào mình thực sự nhận ra mình là ai, mình mới thực sự cảm nhận được tâm tình tạ ơn đi về đâu. Nếu chưa nhận thực được thực thể mình là ai, có cố gắng cách mấy thì tạ ơn chỉ là vô ơn.
Lời Chúa hôm nay nhân ngày tạ ơn tưởng chừng như nói đến tâm tình biết ơn của người Samaritanô, và sự vô ơn, không biết trở lại cảm ơn của chín người Do Thái khác được chữa lành. Tuy nhiên, nếu nhận định theo nghĩa từ chương, nhân sinh như thế, chúng ta đã bị dụ ngôn nơi phúc âm cho leo cây tư tưởng. Điều này nói lên lời Chúa thách đố hay khuyến khích chúng ta suy nghĩ để nhận biết sự khôn ngoan ẩn tàng nơi ẩn dụ, hay dụ ngôn được công bố.
Thử đặt mình nơi hiện trạng dân chúng miền Trung Đông hai nghìn năm trước. Người Samaritanô được coi như người ngoại giáo đối với Do Thái giáo nên họ không bị luật lệ Do Thái giáo cầm buộc; do đó không phải tuân giữ luật trình báo bất cứ vị tư tế nào của Do Thái giáo để được tuyên bố đã lành sạch. Dĩ nhiên, người Samaritanô nhận biết mình đã được chữa lành thì chín người Do Thái kia cũng đều nhận ra, nhưng họ còn đang phải tìm gặp vị tư tế để được công bố lành sạch. Thực ra, sự lành sạch, được chữa lành hay không đâu lệ thuộc được công bố hay không. Xét như thế, lời Chúa muốn chúng ta động não, muốn chúng ta suy nghĩ để đạt đến nhận thức được ám định nơi dụ ngôn. Lời Chúa muốn chúng ta nhận thức gì, ai suy nghĩ sẽ biết. Tôi không biết được những gì quý vị biết; bởi chỉ quý vị mới biết điều quý vị biết.
Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt mọi người nhận biết sự khôn ngoan do lời Chúa dẫn dắt. Amen.
LỄ CHÚA KITÔ VUA 1999 A (Mt. 25:31-46)
Quý ông bà anh chị em trong Đức Kitô,
Nơi kho tàng Tục Ngữ, Ca Dao, chúng ta thấy ghi câu thơ lục bát, "Người ta canh kiệu thì ngon, tôi canh hương án thì đòn vào lưng." Số là có anh chồng kia được mời dự bữa tiệc mừng, khi về nhà tấm tắc khen món canh kiệu ngon tuyệt vời. Tôi không hiểu có rau gì gọi là rau kiệu hay củ kiệu mà mấy tay nhậu thường nhâm nhi với tôm khô. Chị vợ nghĩ thầm, canh kiệu có chi mà khó... vì cái kiệu hay cái hương án thì đâu khác chi. thế nên một hôm nhà có khách, chị vợ quyết định nấu món canh kiệu. Chị tới một ngôi chùa, rình mò sao chẳng biết cạo được ít lớp sơn của chiếc hương án đem về nấu canh. Và rồi chị gặp phiền hà vì cho rằng canh kiệu cũng như canh hương án.
Khi đọc hoặc nghe bài Phúc Âm vừa được công bố qua nhận định luân lý, Lời Chúa khuyên chúng ta cố gắng làm những điều tốt lành cho những người kém may mắn hơn chúng ta như được chép nơi sách Thánh, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta." Đối diện với thực tại cuộc sống hiện nay đã làm nhận thức theo lối nhìn luân lý của tôi về Phúc Âm giao động. Thử hỏi ai trong chúng ta dám đón người lỡ đường khi lái xe trên xa lộ thời buổi này khi chúng ta không biết họ là ai hoặc thế nào mặc dầu chúng ta có dữ chỗ ngồi trong xe. Chỉ đơn giản nhận xét thực tại như thế, tôi đã phải đặt mình vào vị thế một người sống trong thời điểm Phúc Âm được viết.
Vào thời điểm Phúc Âm, chỉ những người chống lại chính quyền La Mã đang đè nặng ách đô hộ trên dân tộc Do Thái mới bị tù tội và bị gông cùm, trừng phạt một cách gắt gao. Bất cứ ai thăm viếng những người này đều bị coi như có liên hệ và sẽ gặp rất nhiều sự phiền hà trong cuộc sống. Sự kiện này chẳng khác gì người ở Việt Nam bây giờ tiếp tế cho những người trốn trong rừng, nếu có, hoặc ngày xưa thời quốc gia, những người dẫu chỉ là buôn bán thuốc men hay gạo, muối cho những đoàn quân Cộng Sản ở trong rừng sẽ gặp phải những trắc trở phiền hà, tù tội. Vì thế, tôi tự hỏi, Phúc Âm được viết với chủ đích gì, hoặc viết về luân lý, xã hội, tâm lý, hay tâm linh?
Nhớ lại hai bài dụ ngôn của hai tuần trước, năm cô phù dâu ngu dại đã bị đối xử tàn tệ vì không chịu suy nghĩ, đặt vấn đề chỉ vì đã làm theo những gì được dạy bảo mà không dám tự hỏi mình phải chuẩn bị ra sao. Người đầy tớ đào lỗ chôn nén bạc đã bị kết án là hư thân và biếng nhác vì quá lo sợ bị sai lầm do đó không dám suy nghĩ nên làm gì. Hai dụ ngôn Phúc Âm này khuyến khích chúng ta nên xét lại để nhận định cho rõ ràng ý nghĩa bài Phúc Âm hôm nay muốn khuyên dạy chúng ta. Đó là bất cứ ai biết và có thể làm bất cứ điều gì để thăng tiến hành trình đức tin hoặc phát triển Phúc Âm mà không thực hiện sẽ bị kết án như Phúc Âm thánh Gioan đoạn 12 câu 48 đã viết, "Kẻ thảy bỏ Ta đi và không chịu các lời của Ta, thì có người xét xử nó: ấy là lời Ta đã nói, chính lời ấy sẽ xét xử nó trong ngày sau hết."
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Kitô vua. Những lời dạy của Ngài hướng dẫn chúng ta trong hành trình đức tin, hành trình tâm linh để trở nên toàn hảo như chính Thiên Chúa, cội nguồn thánh thiện, toàn hảo. Đây là hành trình đạt tới nước trời. Theo chân Đức Kitô, vua của chúng ta đó là thực hiện những lời Ngài giảng dạy qua Phúc Âm. Chúng ta đọc nơi Phúc Âm thánh Máthêu "Người lành tự kho lành mà kéo ra điều lành; còn kẻ ác tự kho ác mà kéo ra điều ác. Mà Ta bảo các ngươi: mọi lời hư từ người ta nói ra, người ta sẽ phải trả lẽ ngày phán xét" (Mt. 12:35-36). Phúc Âm thánh Luca viết, "Đừng xét đoán, và các ngươi sẽ không bị xét đoán. Đừng lên án, và các ngươi sẽ không bị lên án" (Lc. 6:37). Đồng thời Phúc Âm thánh Marcô viết, "Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24).
Những câu Phúc Âm này nói cho chúng ta rằng ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ của chúng ta tự có quyền lực. Vì thế, bất cứ điều gì chúng ta ước muốn cho kẻ khác, chính chúng ta là người lãnh nhận. Chúng ta ước muốn điều tốt cho kẻ khác, chúng ta sẽ gặp những sự tốt lành. Chúng ta muốn điều chẳng may tới cho ai đó, chính điều phiền hà sẽ đến với chúng ta. Đây có thể là lý do tại sao Phúc Âm đã dạy, "Các ngươi muốn được người ta làm cho các ngươi thế nào thì các ngươi cũng hãy làm cho người ta như vậy" (Lc. 6:32; Mt. 7:12). Bất cứ điều gì chúng ta muốn xảy đến cho người khác, điều đó sẽ xảy đến với chúng ta. Dĩ nhiên, khi chúng ta thực sự muốn điều gì xảy đến với ai, chúng ta sẽ dùng mọi cơ hội để thực hiện để điều đó xảy ra. Và theo lời Phúc Âm, chúng ta ước muốn điều gì xảy đến cho bất cứ ai, chúng ta đang thực hiện điều đó cho chính Chúa Giêsu. Và vì vậy, chúng ta sẽ bị xét xử tùy thuộc chính ý nghĩ, ước muốn, ước mơ của chúng ta.
Xin Thánh Thần của Đức Giêsu soi sáng cho mỗi người chúng ta biết nhận định và ý thức những điều Ngài dạy nơi Phúc Âm.
CN 12 A 99 (Mt. 10: 26-33) tân linh mục Trịnh Quang Trường
Trọng kính quí cha, quí tu sĩ, quí ông bà, anh chị em trong Đức Kitô, Nếu tôi không lầm, đa số hoặc hầu hết mọi người đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này đều là giáo dân Công Giáo. Bởi vậy, tôi có một câu hỏi rất đơn giản, nếu có thể được, xin bất cứ ai làm ơn trả lời cho tôi biết. Câu hỏi đó là, điều quan trọng đầu tiên Phúc Âm dạy chúng ta là điều gì? Ai có thể trả lời, xin làm ơn giơ tay...
Phúc Âm thánh Mathêu đoạn 6 câu 33 viết, "Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, và các điều khác sẽ được ban thêm cho các ngươi." Như vậy theo Phúc Âm, điều quan trọng tiên vàn nơi hành trình cuộc sống con người là tìm kiếm nước Thiên Chúa. Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mọi loài mọi vật, vô hình cũng như hữu hình, từ ý nghĩ, lời nói đến hành động, thân xác hoặc sự vật.
Giáo lý dạy chúng ta, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Suy như thế, nước Thiên Chúa là chính Ngài. Do đó khi suy tư, nguyện gẫm, chúng ta đối diện với chính Thiên Chúa, đối diện với nước trời nội tại. Và như vậy, cầu nguyện, suy niệm, nghiệm chứng, tất nhiên đối diện với Thiên Chúa hiện hữu nơi lòng mình. Điều này diễn giải câu 21 đoạn 17 nơi Phúc Âm Luca "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền. Người ta sẽ không nói được này nước trời ở đây, hay nước trời ở đó; vì nước Thiên Chúa ở trong các ông." Có thể nói đây là lý do tại sao Phúc Âm thánh Mathêu đã viết, "Còn ngươi, khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi" (6:7).
Tất nhiên, là Kitô hữu, dù ở bất cứ cấp bậc nào, lời Kinh Thánh phải là chủ đề cho chúng ta suy tư, nghiệm chứng hầu áp dụng trong cuộc sống chứng nhân Nước Trời. Đây chính là ý nghĩa câu nói nơi bài Phúc Âm vừa được công bố, "Điều thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng." Dĩ nhiên, nếu ai suy tư, nghiệm chứng Phúc Âm, những lời nói, ý nghĩ của họ đều được liên hệ dẫn chứng từ Phúc Âm vì có đầy trong lòng mới tràn ra bên ngoài. Kinh nghiệm sống minh chứng, kẻ nào lòng dạ chứa đầy hận thù, khi mở miệng thường nói lên những lời căm hờn, đe dọa. Nếu ai ưa bới móc chuyện người khác, lòng kẻ đó đầy ghen tương. Ai suy tư, nghiệm chứng Phúc Âm, mở miệng nói ra tuyên xưng Lời Chúa. Suy như vậy, chúng ta hiểu được Phúc Âm muốn dạy chúng ta điều gì khi đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, "Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời." Tuyên xưng Đức Giêsu là rao giảng lời Ngài đã phán dạy. Ba Phúc Âm Mathêu, Marcô, và Luca ghi rất rõ ràng mục đích cũng là nhiệm vụ của Đức Giêsu nơi trần thế khi viết, "Ta còn phải đem tin mừng nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến" (Mc. 1:38; Lc. 4:43; Mt. 4:23; 9:35).
Chẳng những thế, mục đích Ngài sai các môn đồ ra đi cũng chỉ để rao giảng tin mừng Nước Trời như chúng ta đọc được nơi Luca đoạn 9, từ câu 2 tới câu 6, "Và Ngài sai họ đi rao giảng Nước Thiên Chúa... họ ra đi rảo khắp các làng, loan báo Tin Mừng..." Linh mục là người được giao phó nhiệm vụ nối gót Đức Giêsu tiếp tục công cuộc rao giảng Tin Mừng Nước Trời như Ngài đã thực hiện. Nơi phương diện này, lời Đức Giêsu tuyên bố rõ ràng trong Phúc Âm, "Không phải các ngươi đã chọn Ta, nhưng chính Ta đã chọn các ngươi, và đã đặt các ngươi lên hầu các ngươi ra đi và sinh hoa trái" (Gioan 15:16). Như vậy, linh mục là người chọn và được chọn để đặc biệt tuyên xưng, rao giảng, chia sẻ suy tư, giải thích nghiệm chứng về những lời Phúc Âm mà Đức Giêsu đã công bố hai ngàn năm về trước.
Qua ánh sáng nhận định Lời Phúc Âm hôm nay, tôi muốn chia sẻ cùng quí ông bà anh chị em về nỗi thao thức của linh mục trong sứ vụ rao giảng Phúc Âm nhân lễ tạ ơn của tân linh mục. Khi muốn nhắc tới chuyện gì cần được chú tâm để ý, câu nói thông thường nơi ngôn ngữ Việt hay dùng lối diễn tả "Năm lần, bẩy lượt." Lật nơi Phúc Âm, tôi đếm đúng tám lần câu nói, "Ai có tai thì hãy nghe!" ba lần nơi Mathêu, ba lần nơi Marcô, và hai lần nơi Luca (Mt. 11:15; 13:9; 43; Mc, 4:9; 23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35. Ai trong chúng ta không có tai? Tuy nhiên theo Phúc Âm, phỏng tai của chúng ta cần được chuẩn bị như thế nào để có thể hiểu được Lời Chúa. Chẳng những thế, càng đọc Phúc Âm, chúng ta càng phải đối diện với Lời Chúa đã gần hai ngàn năm được ghi lại rõ ràng nhưng chưa bao giờ được nghe lời giải thích cho thỏa lòng khả dĩ thực tiễn áp dụng nơi cuộc sống con người. Lời Chúa muốn dạy chúng ta điều gì khi viết, "Hãy ăn ở khôn ngoan như con rắn và chân thực như chim câu?" (Mt. 10:16) hoặc là, "Nhưng có nhiều kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết?" (Mt. 19:30). Làm sao chúng ta có thể áp dụng hài hòa lời Chúa qua câu nói, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta?" (Mt. 10:37). Tại sao Phúc Âm lại đặt vấn đề "Rượu mới không đổ bì cũ" (Mt. 9:17) hoặc "Vải mới không vá áo cũ" (Mt. 9:16), hay khó hiểu hơn như đã được chép, "Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lại sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa!" (Lc. 9:62).
Quí ông bà anh chị em thử đặt tâm tình nơi địa vị linh mục để nghiệm chứng xem lòng mình đau xót ra sao khi đọc lời Kinh Thánh, "Họ nhìn lấy nhìn để mà không thấy; họ nghe lấy nghe để mà không hiểu, kẻo họ trở lại mà được thứ tha?" (Mc. 4:12). Chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin mỗi ngày Chủ Nhật nơi nhà thờ nhưng tại sao Phúc Âm lại đặt nơi miệng Đức Giêsu lời than, "Tuy vậy, khi Con Người trở lại sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không!" (Lc. 18:8). Quí ông bà, anh chị em cảm nhận rõ ràng câu nói, "Nuôi con mới biết lòng cha mẹ" hoặc đã nhiều lần điêu đứng bởi liên hệ cuộc sống như lời tiền nhân phô bày "Có ăn có chọi mới gọi là trâu," nhưng không dễ gì nghiệm chứng được lời Kinh Thánh đặt nơi miệng tiên tri Jeremiah nơi bài đọc thứ nhất, "Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó."
Sứ vụ rao giảng còn đẩy vị sứ đồ vào góc tường không sao tránh thoát đến nỗi Jeremiah cũng đã phải than, "Người đã dụ dỗ tôi, lạy Yavê, và tôi đã để mình bị dụ. Người đã uy hiếp tôi và đã thắng: suốt ngày tôi đã nên trò cười, cả lũ chúng nhạo báng tôi... Tôi những tự nhủ: tôi sẽ không nghĩ đến nữa, tôi sẽ không nói nhân danh Người nữa! Nhưng nơi lòng tôi như lửa bừng bừng, bị dồn ép trong xương cốt tôi. Tôi hết sức nén lại, nhưng không tài nào nén được..." (Jer. 20: 7-9).
Phỏng đây là niềm vui thực sự của những vị thành tâm theo gót chân thày? Thế nhưng, nơi kiểu nói dân quê, đôi khi tôi vẫn nghe thấy lối diễn tả đượm phần chua chát qua ngôn từ "đỗ cụ." Dĩ nhiên, là người, "Ai nên khôn không khốn một lần!" hoặc ai chưa bao giờ lầm lỗi! Và những chuyện "Con sâu làm rầu nồi canh" là điều phải có, cần có, và nên có trong cuộc đời vì không vậy sao gọi thế gian. Có lẽ chính nơi điểm này đã phát sinh câu hát, "Đường đời vạn nẻo chông gai, ai chưa qua chưa phải là người."
Xét về phương diện mục vụ, nhà báo lão thành Mạc Kinh, dẫu không theo đạo Công Giáo cũng đã viết, "Giữa linh mục và giáo dân luôn luôn gắn bó như hình với bóng trong đời sống hàng ngày. Linh mục không chỉ là vị thừa sai của Chúa mà còn là một thừa sai của giới con chiên, một đầu sai thì đúng hơn." Linh mục, sống giữa dân Chúa để nghiệm chứng và rao giảng Lời Ngài qua những công việc Ngài đang thực hiện nơi họ, dù rơi phải trường hợp, "Này Ta sai các ngươi như chiên vào giữa sói" (Mt. 10:16), hay bị coi như "đỗ cụ" đều đã được lời Chúa qua bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở, "Còn ai chối Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ chối nó trước mặt cha Thầy, Đấng ngự trên trời."
Không những thế, sứ mạng rao giảng được Phúc Âm thường xuyên nhắc nhở nhưng lại rất gắt gao đối với những ai không suy nghiệm Lời Chúa khi đặt vào miệng Đức Giêsu lời cảnh cáo, "Khốn cho các ngươi, luật sĩ, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết! Chính các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản" (Lc. 11:52; Mt. 23:13). Xin cầu nguyện nhiều cho chúng tôi, những thừa sai của Đức Giêsu, những đầu sai của quí ông bà, anh chị em, và đặc biệt cho tân linh mục nơi giai đoạn ban sơ được sai đến giữa lòng dân Chúa. Xin Chúa chúc lành nơi mọi người.
LMT