Chủ Nhật 26A (Mt. 21:28-32)
Quý ông bà, anh chị em trong đức Kitô.
Ai trong chúng ta, dù sang hèn, giầu nghèo, sung sướng thảnh thơi, hay khổ tâm vất vả, là con người, không những luôn phải đối diện với cuộc đời luôn biến chuyển, thay đổi nhiều khi chẳng ngờ dẫu để ý hay không mà còn mang một thân phận đầy huyền nhiệm chính mình cũng không thể hiểu nổi. Chẳng hạn, tại sao cặp mắt ai cũng ở dưới trán mà không ở sau gáy hay cái mũi lại ở giữa mặt mà không nằm phía sau lưng. Cho dù các nhà khoa học có phân tích, phân cốc để tìm ra DNA giải thích đến thế nào thì chính ngay các vị ấy cũng vẫn không bao giờ trả lời được từ đâu họ đến chốn này nơi dương thế, mục đích cuộc đời của họ là gì, và chết rồi họ sẽ đi về đâu, cũng như mọi người chúng ta; dẫu Kinh Thánh đã nói qua sách Giảng Viên, “Không có gì lạ dưới ánh mặt trời” (GV. 1:9).
Để trả lời cho nỗi thao thức về mục đích hay thân phận một người, phúc âm dạy, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33); trong khi lại cũng phúc âm đã minh xác, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: Này ở đây hay ở đó, vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21). Nước Thiên Chúa ở trong các ông có nghĩa Nước Thiên Chúa ở nơi mỗi người chúng ta. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa là sự sống, sự hiện hữu nơi mỗi người; thế nên Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa có nghĩa, tiên vàn hãy nhận biết Thiên Chúa nơi mình. Và muốn nhận biết Thiên Chúa nơi mình thì cần phải suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét.
Thế nên, tiên vàn hãy suy nghĩ, suy tư, nhận biết về chính mình vì nếu không nhận biết về thực thể chính mình sao có thể nhận ra Thiên Chúa nơi mình! Muốn nhận biết chính mình thì cần đối diện với chính mình; thực tâm, chân thành, có sao nhận vậy, không bào chữa, không suy đoán, giải thích lý “gio” lý “trấu.” Dĩ nhiên, ai cũng đều nghĩ rằng, cho rằng mình biết rõ ràng về mình hơn ai hết. Xin thưa, ai không “Tốt khoe, xấu che;” ai không tự lừa chính mình; tôi cũng vậy và mọi người đều thế. Thôi thì, xin nghe dại, lấy một tờ giấy, vạch một đường thẳng giữa trang chia đôi tờ giấy. Không cho ai biết, chỉ một mình, một bên viết xuống tất cả điều hay, cái đẹp từ ý nghĩ, lời nói đến những việc tốt lành đã thực hiện. Bên kia, viết xuống tất cả những gì không nên không phải của mình từ ý nghĩ, lời nói, đến những sự việc chẳng nên mình đã làm. Nhớ ngồi trên ghế chắc chắn, có dựa lưng, kẻo khi viết xong té ngửa lại phiền ra.
Tôi nói trước, nếu thực lòng, và chân thành đối diện với chính mình, ngay khi viết xong, sẽ không một ai, dù nơi đấng bậc nào, có thể chấp nhận những gì mình vừa viết ra. Hãy cất kín nó đi và kiểm điểm xem lòng mình thế nào; ai thử, người ấy sẽ biết. Cỡ hai tiếng sau đọc lại với lòng ngay thẳng, chân thành chấp nhận những điều đã được viết do chính mình viết ra và là chính mình. Ngay lúc này, mọi sự biến đổi. Tôi muốn nói mình nhận chân được mình cũng tốt lành, thánh thiện lắm và cũng đốn mạt không thể ngờ. Hy vọng, bất cứ ai thực hiện công việc đối diện với chính mình lúc này sẽ nghiệm được câu nói nghịch thường, “Cái bóng của Thượng Đế là Quỷ vương.”
Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, “Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần đến” (Mt. 3:1-3). Câu này cũng tương đương với lời rao giảng của đức Giêsu, “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:14-15). Hối cải hay sám hối đều thuộc về một trong những ý nghĩa của động từ Hy Lạp, “Metanoia.”
Động từ “Metanoia” nơi tiếng Hy Lạp có nhiều nghĩa. Nghĩa gốc của nó là, thay đổi hướng đi, chiều hướng; các nghĩa phụ là, suy nghĩ khác thường, cải tạo tư tưởng, thay đổi tư duy, ăn năn thống hối, hối cải. Nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước do 14 vị học giả Kinh Thánh biên soạn và được in ra năm 1994 tại Sài gòn, phần ghi chú được viết, “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Từ Hy lạp Metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, chắc phải hiểu sám hối (metanoia) theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng, từ ngôn sứ Giêrêmia: thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước và dấn bước vào một cuộc sống mới. Đức Giêsu còn kêu gọi dân chúng lấy đức tin mà đón nhận toàn diện thông điệp Người công bố.” Theo sự ghi chú này, ngôn từ “Sám hối” nơi phúc âm Marcô, mang nghĩa suy tư, nghiệm xét, chiêm nghiệm.
Bài phúc âm vừa được công bố lên phán quyết, “Kẻ thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông; vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông đã không tin ngài, nhưng những ngưởi thâu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài.” Lý do gì phúc âm nói là tin và không tin lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả? Xin thưa vì không suy nghĩ, không biết mình là gì và cũng không biết Thiên Chúa, Nước Thiên Chúa là gì, không biết mình tốt lành thánh thiện và đồng thời đốn mạt ra sao.
Tóm lại, xin mọi người vì lợi ích cho phần rỗi chính là nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình, hãy bình tâm suy nghĩ, hãy nhận biết thực thể mình là thế nào. Xin Thánh Thần soi sáng và dẫn dắt mọi người nơi hành trình nhận thức Thiên Chúa nơi mình. Amen.
Chủ Nhật 27A 99 (Mt, 21:33-43)
Qua đoạn Phúc Âm, Lời Chúa cảnh cáo mọi người nếu chúng ta đặt mình vào địa vị của những tư tế và trưởng lão nơi xã hội Do Thái thời Đức Giêsu. Theo Kinh Thánh, vườn nho thường được dùng để ám chỉ dân Chúa, và những người tá điền được ám chỉ những người chăn sóc dân Chúa chẳng hạn linh mục, giáo sĩ, v.v... Nếu nhìn rộng hơn, tá điền có thể được coi như tất cả những người tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, và vườn nho là bất cứ ai chưa có cơ hội hiểu biết về những lời dạy dỗ của Đức Giêsu.
Qua câu truyện dụ ngôn Phúc Âm, những tá điền muốn cướp vườn nho vì thế đã đối xử tàn tệ với những người được chủ đất sai đến. Ngay cả đối với con của chủ họ cũng giết hầu mong kiếm lợi lộc riêng tư. Vì thế, Phúc Âm đặt vào miệng Đức Giêsu lời cảnh cáo, "Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái." Đọc Phúc Âm, chúng ta cũng thấy những lời cảnh cáo khác; chẳng hạn nơi Máthêu, "Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, vì cácngươi khóa nước trời chận người ta lại. Các ngươi sẽ đã chẳng vào mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng chẳng để cho vào" (23:13). Hoặc nơi câu chuyện cây vả không sinh hoa trái ở Phúc Âm thánh Luca (13:7-9).
Chúng ta phải làm gì để tránh những lời cảnh cáo này? Chỉ có một câu trả lời độc nhất đó là hãy tiếp tục thực hiện những việc Đức Giêsu đã làm được chừng nào hay chừng đó. Đức Giêsu đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Điều này được Phúc Âm Luca đoạn 4 câu 43 ghi chép rõ ràng, "Ngài bảo với họ: Ta còn phải đem tin mừng nước thiên chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến." Đàng khác, nhiệm vụ chính yếu Đức Giêsu sai các môn đồ ra đi cũng chỉ là để rao giảng tin mừng nước trời. Như vậy, tin vào Đức Giêsu, theo Đức Giêsu có nghĩa thực hiện những điều ngài khuyến khích chúng ta thực hiện và đó là công bố tin mừng nước trời cho muôn tạo vật (Mc. 16:15) bằng chính cuộc đời của mỗi người chúng ta như Đức Giêsu đã thực hiện.
Vấn đề còn lại đó là Phúc Âm đã nói gì về Tin Mừng Nước Trời. Nếu chúng ta không biết chắc chắn tin mừng nước trời là gì, hoặc không nhận thức được thực thể tin mừng nước trời để sống tin mừng; tất nhiên chúng ta không thể nào rao giảng bằng cuộc đời chúng ta được. Bởi thế, tôi đề nghị và khuyến khích quí ông bà anh chị em chịu khó đọc Phúc Âm; đọc với lòng chân thành, đọc với tâm hồn khát khao tìm hiểu sao cho nhận thức được thực thể tin mừng nước trời nơi chính mình. Kinh nghiệm sống minh chứng không ai có thể ăn hoặc uống dùm cho chúng ta thì tất nhiên cũng không ai có thể suy nghĩ dùm cho mình. Thêm vào đó, sự thức ngộ tâm linh qua Phúc Âm chẳng khác gì sự uống nước. Ai uống, người nấy biết nước nóng lạnh ra sao. Ngược lại, dẫu cho bất cứ ai giỏi dang thế nào giải thích về sự tốt lành và lợi ích của nước cũng không thể nào giúp người đang khô cổ hết khát nước. Nguyện cầu Đức Giêsu sai Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn từng người đồng thời chúc lành cho chúng ta và đặc biệt những ai khát khao tìm hiểu tin mừng nước trời.
Chủ Nhật 27A (Mt. 21:33-43) 2022
Bài phúc âm vừa được công bố mở đầu với câu, “Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng; các ông hãy nghe dụ ngôn này.” Như vậy, câu truyện ông chủ và tá điền nhắc nhở chúng ta một cách ám định về nhận thức của con người nơi hành trình đức tin, hành trình nhận biết Nước Thiên Chúa. Hôm nay, lời Chúa khuyến khích chúng ta đặt lại vấn đề với câu, “Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái.” Thiên Chúa chính là sự sống, sự hiện hữu nơi mọi người, mọi sự vô hình cũng như hữu hình. Tin Mừng Nước Trời, Nước Thiên Chúa chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi mỗi người. Thế sao lại nói “Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái?” Xét như vậy, làm trổ sinh hoa trái có nghĩa thăng tiến nhận thức về sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người.
Nếu để ý, chúng ta sẽ đếm được đúng tám lần, ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca nhắc nhở câu, “Ai có tai thì nghe,” hoặc “Ai có tai để nghe thì nghe” (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Thử hỏi, ai là người không có tai? Thế tại sao phúc âm phải lặp đi lặp lại những tám lần, “Ai có tai thì nghe?” Chẳng lẽ chúng ta có tai nhưng không nghe hoặc nghe như không nghe? Dĩ nhiên, kinh nghiệm sống minh chứng, bình thường, rất nhiều chuyện chúng ta đã nghe như không nghe. Chẳng hạn, tham dự thánh lễ, nhưng nếu ai đó hỏi lại hoặc mình tự hỏi, bài phúc âm vừa được công bố muốn nói về điều gì, nói về vấn đề nào thì mình sẽ trả lời ra sao; mọi người tự biết. Điều này minh chứng chúng ta đã nghe như không nghe. Và như vậy, phúc âm muốn nhắc nhở mọi người chúng ta để tâm suy nghĩ, suy tư lời Chúa.
Bài phúc âm nói về cách đối xử của những tá điền với những người được sai đến để thâu hoa lợi; chẳng những các tá điền đã chiếm hết hoa lợi mà lại còn giết hại những người được sai đến. Là những người tin theo Chúa Giêsu, tin vào Thiên Chúa, ai cũng biết vườn nho được ám chỉ về dân Chúa và những tá điền là các vị rao giảng, được dùng chung bằng những danh hiệu, “Các vị thượng tế và kỳ mục.” Tôi muốn nói tất cả những vị mang sứ vụ rao giảng lời Chúa, trong đó kể cả tôi.
Giở phúc âm, chúng ta đọc được câu, “Khốn cho các ngươi, biệt phái và ký lục; các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Các ngươi chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Lc. 11:52). Các vị thượng tế và ký lục hay Biệt phái và ký lục đều là những người mang sứ vụ rao giảng lời Chúa, thuở xưa cho đến thời đức Giêsu, rao giảng lời Chúa qua Cựu Ước, và ngày nay thêm phúc âm. Vậy họ rao giảng thế nào mà bị phúc âm lên án, “Các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Các ngươi chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Lc. 11:52)? Tôi không chỉ đặt vấn đề về phương cách rao giảng của các vị khác mà còn về chính mình trong sứ vụ chia sẻ lời Chúa với quý ông bà, anh chị em.
Suy nghĩ về sự việc này dẫn tâm trí tôi nhận ra một sự rất bình thường mà xưa nay chúng ta rất ít khi để tâm nhận định. Thí dụ, bất cứ ai trong chúng ta cũng biết những con chim sẻ thường gặp chúng bay quanh kiếm thức ăn và làm tổ nơi ngóc ngách của mái nhà thờ. Có ai vô tình nhắc tới chúng thế nọ thế kia thì chúng ta cũng biết chúng là những con chim sẻ. Nhưng thử hỏi, bản năng của những con chim sẻ này thế nào, chúng thường công rác làm tổ và đẻ trứng vào tháng mấy trong năm, chúng thích ăn những hạt giống nào, tháng nào trứng chim nở và khi nào những con chim con ra ràng, bố mẹ chúng dẫn dắt, tập bay cũng như bảo vệ những con chim con ra sao, có lẽ ít người trong chúng ta có thể trả lời được. Chúng ta, từ nhỏ đã được nghe nói chúng là chim sẻ và tưởng rằng biết tên chúng là chim sẻ là đã biết về những con chim bé nhỏ thường làm tổ nơi mái nhà thờ hay mái của những dinh thự quanh nơi chúng ta ở. Như vậy, chúng ta nghĩ rằng biết về chim sẻ nhưng chỉ biết tên đặt cho chúng chứ thực ra chúng ta không biết gì về chim sẻ.
So sánh sự nhận biết về chim sẻ với sự nhận biết về chính mình, về Thiên Chúa của mỗi người, nếu tôi không lầm thì cũng tương đương. Mặc dầu danh hiệu Chúa, danh hiệu linh hồn thường đậu trên môi miệng mỗi người, nhưng thực ra chúng ta đã chẳng nhận biết gì về Chúa, về linh hồn của chính mình. Thử hỏi, tại sao chúng ta không nhận biết? Xin thưa, bởi chúng ta không suy nghĩ tìm hiểu. Sự thiếu sót không tìm hiểu này nguyên nhân phát sinh từ đâu? Chúng ta không tìm hiểu về chim sẽ và nghĩ rằng, cho rằng, mình biết về chúng nhưng thực ra mình chỉ biết tên, chỉ biết danh hiệu của chúng là chim sẻ.
Tương tự như thế, chúng ta chỉ nghe biết danh hiệu “Chúa, hay Thiên Chúa,” nhưng thực sự, chúng ta đã chẳng biết Chúa là thế nào, là gì, liên hệ tới mình, liên hệ tới cuộc đời mình ra sao. Chúng ta cũng chỉ biết danh hiệu linh hồn của mình nhưng nếu hỏi linh hồn mình là gì, nếu tôi không lầm, không ai có thể nói chi. Lý do, chúng ta đã chưa bao giờ suy nghĩ về linh hồn nơi mình. Đồng ý rằng, không ai mới được sinh ra đã biết hết mọi sự, và cũng đồng ý rằng chúng ta cần học hỏi, cần suy tư, suy nghĩ để nhận biết dẫu chưa quen hay chưa để tâm suy nghĩ.
Nhận thức sự thể thực trạng nhận biết nơi mỗi người như thế, chúng ta nhận ra, xưa nay chúng ta chỉ được dạy dỗ, rao giảng những danh hiệu chứ không được khuyến khích, hay thách đố, kích thích suy nghĩ, suy tư. Cũng bởi thế, những gì được gọi là tin theo, biết, nhận thức, chỉ là lặp lại những phạm trù, những danh hiệu trong khi lòng ruột trống rỗng. Thế nên, thay vì khuyến khích dân Chúa suy nghĩ, suy tư về sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình, sự rao giảng lời Chúa đã bị biến thành ban phát những thành ngữ, những phạm trù, những điều phải tin trong khi không biết tin là gì, tin vào Chúa là tin thế nào, tin mình có linh hồn nhưng cũng chẳng biết linh hồn mình là gì, liên hệ tới xác thân và cuộc đời của mình ra sao.
Nhận rõ thực trạng tâm trí chúng ta như thế, tôi xin mọi người từ nay để tâm suy nghĩ lời Chúa nơi cuộc đời của mình. Tôi cũng chân thành xin lỗi mọi người nếu đã vô tình giải thích lời Chúa thay vì khuyến khích mọi người suy nghĩ. Nếu để ý, chúng ta sẽ nhận ra, đem lời Chúa, lời phúc âm giải thích theo luân lý, đạo đức nhân sinh, thế thục, đúng là chặn đứng sự suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét lời Chúa nơi mọi người, ngăn cản người ta nhận biết về Thiên Chúa, về Nước Thiên Chúa. “Khốn cho các ngươi, biệt phái và ký lục; các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Các ngươi chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Lc. 11:52). “Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái.”
Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt mọi người thăng tiến nơi hành trình nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mỗi người. Amen.
Chủ Nhật 28A (Mt. 22:1-14)
Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta qua dụ ngôn về tiệc cưới của một vị hoàng tử. Những người được nhà vua mời tham dự đều từ chối; kẻ bận việc riêng, người lại bắt sứ giả của vua, hành hạ và giết đi. Nhà vua nghe biết, nổi giận trừng phạt những khách mời vô lương tâm ấy và cho đầy tớ ra các ngả đường mời gọi bất cứ ai vô dự tiệc cưới. Tuy nhiên, có một người tham dự tiệc cưới không mặc lễ phục nên bị vua giam vào nơi tối tăm. Dụ ngôn được kết luận với câu, “Những kẻ được gọi thì nhiều, còn những người được chọn thì ít.”
Ai cũng biết, lời Chúa qua phúc âm kêu gọi, mời gọi mọi người, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người; rồi mọi sự khác sẽ được ban cho các ngươi” (Mt. 6:33). Thử hồi tâm đối diện thực trạng chính mình, đã có ai trong chúng ta nhận biết Nước Thiên Chúa là gì chưa? Tại sao chúng ta chưa biết? Ai không hiểu, không biết nằm lòng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi! Ai chưa nhận ra Thiên Chúa chính là sự sống, sự hiện hữu nơi mình? Thế nhưng tại sao chúng ta chưa nhận thực được sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình? Có lẽ câu trả lời đúng đắn nhất là vì chúng ta chưa suy nghĩ, chưa để tâm suy tư, nghiệm xét về sự thể hiện diện của Chúa nơi mình. Quả đúng với câu, “Những kẻ được gọi thì nhiều, còn những người được chọn thì ít.” Như vậy, những người được chọn là những người suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét, về thực thể sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình.
Tất nhiên, ai cũng biết, không ai ăn dùm, uống dùm cho mình được thì cũng không ai có thể suy nghĩ, suy tư dùm cho mình được. Nơi cuộc đời này, không ai có thể mổ đầu bò mà nhét óc chó vào được, và nếu làm như thế thì con bò cũng không thể sủa gâu gâu như con chó được. Hơn nữa, đã có những người cho rằng họ không có hoặc không đủ khả năng suy nghĩ, suy tư vì họ không có cơ hội đến trường lớp học hành như những người khác. Xin thưa, sự nhận thức không thể học được, kinh sách, các phương tiện truyền thông, những sự giảng giải của bất cứ đấng bậc nào cũng chỉ là phương tiện, hay cơ hội cho một người nhận thức mà thôi. Sự nhận thức chỉ có thể ngộ. Sách vở, tất cả những sự giảng giải chẳng khác gì sự hô hào, tuyên truyền, giải thích về nước uống hay thực phẩm nào đó. Không ai chỉ có thể nghe giải thích về nước uống mà hết khát; cũng như không ai chỉ nghe giải thích về lợi ích của thực phẩm mà có thể no chiếc bụng đang kêu réo vì đói. Muốn no bụng, phải ăn, muốn hết khát phải uống. Không ai có thể ăn dùm hay uống dùm cho bất cứ ai; thế nên, không ai có thể giải thích cho bất cứ ai nhận thức được thực thể hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mình. Mình cần suy nghĩ, suy tư, hay nghiệm xét.
Dĩ nhiên, muốn nhận biết về Nước Thiên Chúa, cần phải nhận biết Thiên Chúa là gì. Phúc âm Gioan đã minh xác, “Đàng, sự thật, và sự sống chính là Ta” (Gioan 14:6). Thiên Chúa chính là sự sống, sự hiện hữu nơi mình, nơi mọi người, mọi sự vật, sự việc dù vô hình hay hữu hình; vì ngoài Thiên Chúa sẽ không có chi hiện hữu. Thế nên, muốn nhận biết Thiên Chúa cần nhận biết chính mình vì Thiên Chúa là sự sống, sự hiện hữu của mình, nơi mình. Con người mình bao gồm xác thân và linh hồn; vậy linh hồn mình là gì, liên hệ với thân xác và cuộc đời mình thế nào? Chúng ta kinh nghiệm, mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ; vậy khi linh hồn ra khỏi xác rồi thì mắt còn có thể nhìn, tai còn có thể nghe, miệng có thể nói và óc có thể suy nghĩ nữa không?
Thế nên, kết luận của lời Chúa, “Những kẻ được gọi thì nhiều, còn những người được chọn thì ít,” có nghĩa mọi người được kêu gọi nhận biết, nhận thức sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mình, nhưng chỉ những người suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét mới có thể nhận biết, mới gọi là được chọn. Lời Chúa hôm nay kêu gọi, mời gọi, khuyến khích, thách đố chúng ta suy nghĩ để nhận thức, nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi chính mình. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta suy nghĩ, suy tư để nhận biết sự hiện diện của Chúa nơi mình. Amen.
Chủ Nhật 29A (Mt. 22:15:21)
Quý ông bà, anh chị em trong đức Kitô,
Ai trong chúng ta, là người, đều có 2 cuộc sống nhân sinh và tâm linh bao gồm thân xác và linh hồn. Dẫu thân xác và linh hồn là hai thành phần khác biệt, một thuộc hữu vi, nhân sinh, hữu hình, sống động, một không thể nhìn thấy mà chỉ có thể nhận biết. Chúng ta nhận biết phần hồn bởi chúng ta có ước muốn, ước mơ, ý định, tham vọng, yêu, giận, ghét, ganh tỵ, thèm muốn. Tuy nhiên, dẫu khác biệt nhưng cả hai là một và chính sự nên một này kiến tạo tâm trí và tâm trí bao gồm yêu thương, ham muốn, tham vọng.
Hoạt động của thân xác bao gồm những sự kiện hữu hình như ăn uống, làm việc, ngủ, nghỉ và các hoạt động khác. Hoạt động của linh hồn được thể hiện qua tâm trí. Nếu xác không hồn chỉ còn cách đem chôn. Nếu hồn không có xác, nào ai biết đấy là đâu. Nhưng hồn nhập vô xác phát sinh tâm trí. Như vậy một người bao gồm ba phần không thể phân chia là xác, hồn, và tâm trí. Ba là một và một là ba, thiếu một, không phải là người bình thường.
Sự sống của một người trong liên hệ với thế giới bên ngoài tạo thành cuộc đời, và nếu để tâm nhận định, cuộc sống tinh thần, cuộc sống tâm linh dẫn dắt toàn bộ cuộc sống nhân sinh; đồng thời thể chất xác thân cũng ảnh hưởng tâm trí, tinh thần của một người. Có thể ví diễn tiến cuộc đời của một người phần nào chẳng khác gì chiếc xe và người lái xe. Linh hồn điều hành thân xác thực hiện các công việc, biến ước mơ, tham vọng thành sự thật, nhưng nếu thân xác yếu ớt hay đau ốm, bệnh hoạn, vẫn ảnh hưởng mạnh mẽ tới tinh thần.
Bình thường cuộc sống xác thân cần nhiều nhu cầu nhân sinh đại khái được gọi cơm áo, gạo tiền. Những nhu cầu nhân sinh này đòi hỏi và khuyến khích cũng như thăng tiến năng lực của một người hầu kiến tạo và đạt thành những nhu cầu sinh tồn. Dĩ nhiên, cuộc đời thay đổi, như mưa nắng bất chợt tạo nên những khó khăn mưu sinh trong cuộc sống khiến tâm trí một người luôn bận rộn hầu thỏa mãn nhu yếu cuộc sống; do đó ít khi đặt vấn đề hay nghĩ tới cuộc sống tâm linh, dẫu đôi khi có nỗi thao thức tâm linh chợt hiện đến nơi tâm trí.
Nếu để tâm nhận xét, chúng ta sẽ nhận biết, ước muốn, tham vọng, ý định, ham muốn, yêu, giận ghét, phát xuất tự linh hồn. Chúng ta kinh nghiệm hay đang thực chứng, con mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, và óc suy nghĩ. Nhưng khi linh hồn đã xuất ra khỏi xác, thế là miệng hết nói, tai hết nghe, mắt hết nhìn, và óc hết suy nghĩ. Điều này chứng tỏ, tai, mắt, miệng, khối óc, cả thân xác, cả cuộc đời một người chỉ là phương tiện cho hồn hoạt động. Nói cách khác, cuộc đời một người là cơ hội cho hồn học bài học cần phải học; những thăng trầm trong cuộc sống, sự liên hệ với người khác, với thế giới chung quanh, tất cả làphương tiện hay cơ hội cho hồn học hỏi.
Thế nên, vì ước muốn, tham vọng, ý nghĩ, yêu thương, hận thù, phát xuất từ linh hồn nên khi xác thân qua đi, linh hồn tiếp tục theo đuổi những ước mơ, tham vọng đó. Nhận biết như thế, chúng ta có thể biết trước, sau khi thân xác chết, linh hồn mình sẽ đi về đâu. Phúc âm nói rõ, “Quả thật, Ta bảo các ngươi, mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi thái cởi, thì cũng được tháo cởi trên trời” (Mt. 18:18).
Thực trạng cuộc đời một người minh chứng cho chúng ta biết, một người được sinh vào đời với đôi bàn tay trắng, thì khi ra đi khỏi cuộc đời này cũng với trắng đôi bàn tay. Mình không mang gì vào cuộc đời thì cũng chẳng có thể mang đi bất cứ gì, dù danh vọng, vị thế, tiền bạc. Những gì thuộc về thế gian này đều trả lại cho thế gian. Tuy nhiên, những gì thuộc về tinh thần, hồn vẫn theo đuổi.
Lời Chúa hôm nay nói lên thực trạng của kiếp người. Những gì của Ceasar thì hãy trả cho Ceasar; những gì thuộc về Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa.” Chúng ta thực chứng, mọi của cải, danh vọng, vị thế, quyền lực thế gian này đều là những mong muốn, ướcmơ nhân sinh, thế tục được ám định là “Những gì của Ceasar.” Cuộc đời một người là phương tiện hay cơ hội cho linh hồn học những bài học cần phải học để nhận thức thực thể của mình là gì, để nhận biết sự hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình. Cứ nhìn lại ước muốn, ước mơ, tham vọng của mình sẽ biết mình đi về đâu sau khi xác thân qua đi.
Phúc âm khuyến khích, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33); đồng thời chúng ta cũng đọc được, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền. Người ta không thể nói được, ‘Này ở đây’ hay ‘Ở đó.’ Vì này, Nước Thiên Chúa ở giữa các ông, ở trong các ông, và ở trên các ông” (Lc. 11:20;17:21). Nước Thiên Chúa cũng chính là Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ở trong mỗi người. Chúng ta đã có những suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét gì để nhận biết, nhận thức về linh hồn, về sự liên hệ của hồn và thân xác, về Thiên Chúa và sự liên hệ của Ngài với cuộc đời chúng ta?
Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mỗi người. Amen.
Chủ Nhật 30A (Mt. 22:34-41)
Phúc âm hôm nay nêu lên thao thức thiết yếu nhất nơi tâm hồn mỗi người chúng ta, “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào quan trọng nhất?” Ai cũng biết, bất cứ lý thuyết, chủ thuyết, quan điểm, lề luật thành văn hay bất thành văn, những sáng tạo, khám phá, hay kết quả nghiên cứu về bệnh tật để chữa trị, y lý, hay văn chương, kỹ thuật v.v… đều vì lợi ích cho con người và đều do con người thực hiện dẫu nơi sách Giảng Viên nói lên sự thể hiện hữu, “Không gì mới lạ dưới ánh dương” (GV. 1:9). Có điều, xưa nay, nay xưa, người ta đã hao tổn biết bao công sức, tiền tài, năng lực cũng như sinh mạng nghiên cứu và thực hiện cũng chỉ trong giới hạn mưu cầu giúp ích cho con người trong cuộc sống nhân sinh trong khi những kinh sách tâm linh, kinh sách về phần tinh thần lại ít được để ý tới hoặc có được ít người nghiên cứu thì cũng bị ảnh hưởng quá nặng nề bởi quan điểm thế tục để rồi gượng ép nêu lên muôn ngàn cung cách thực hiện nhân sinh như nghi thức, lề luật phải tuân giữ.
Thử hỏi, lề luật nào nói lên hay giải thích được sự khôn ngoan nơi câu tục ngữ, “Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt cho bùi?” Lề luật nào bắt con tim ai đó chỉ được phép yêu thương người này hay ghét bỏ người khác. Lề luật nào ngăn cấm hoặc định vị được tâm tư một người bay bổng muôn phương, hay chăm chú dồn hết năng lực vào tâm điểm nào đó khi tham dự nghi thức thờ phượng. Xét thế, lề luật chỉ nói lên hình thức bên ngoài hay hành động hữu vi vì lợi ích cho con người hay một tập thể.
Đọc Tục Ngữ, Ca Dao của dân Việt, chúng ta thấy dẫu được dùng những sự việc, sự thể hữu vi, nhân sinh thế tục, nhưng ý nghĩa ám định về trạng thái tâm tưởng, cách ăn, nết ở của một người nên có, Tục Ngữ, Ca Dao nói về sự thể tâm tình, tâm linh của con người. Chẳng hạn, “Liệu cơm gắp mắm, liệu bò đo chuồng,” hay, “Yêu nhau, cau sáu bổ ba, ghét nhau, cau sáu bổ ra làm mười.” Lời Chúa, lời Kinh Thánh, lời phúc âm được viết ám định qua những câu khôn ngoan, những dụ ngôn chẳng khác gì Tục Ngữ, Ca Dao. Đây là tính chất đặc biệt của kinh sách đạo học bởi không thể giải thích thực trạng tâm tưởng, nên phải dùng cách nói ám định.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta, “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Và hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” Ai cũng không ít thì nhiều mang tâm trạng yêu thương, yêu mến nơi tâm khảm, nơi tâm hồn. Ai cũng cảm nhận được phần nào sự rung động, ít nhất nơi tâm tư, nếu không muốn nói là toàn bộ tâm cảm, lan rộng đến thân xác. Nhưng, nếu tôi không lầm, thì khi nói đến, hay nhắc đến yêu mến Chúa, hoặc kính mến Chúa, thì lòng mình thường vẫn thấy như chân sim, móng đá, không cảm được rung động gì.
Thử hồi tâm nhìn lại chính mình., khi mình nhắc đến hay tưởng nhớ đến người mình thực lòng yêu thương, hoặc ai đó đã có công lao giúp mình công việc trọng đại nào đó thì lòng mình cảm thấy thế nào. Nếu đem so sánh tâm cảm của mình khi nhắc đến hay nghĩ đến Chúa, với cảm xúc khi mình nghĩ đến người mình tha thiết yêu thương, chúng ta sẽ nhận ra được một điều, và đó là mình chưa thực sự nhận biết Chúa là gì, hoặc chưa bao giờ được thực sự tiếp xúc với Chúa trong cuộc đời nên khó sinh tâm cảm kính mến, yêu mến Ngài. Thực trạng tâm cảm này nói lên điều cần thiết đó là chúng ta cần suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét về sự hiện diện của Thiên Chúa và sự liên hệ của Chúa đối với mình.
Phúc âm cho chúng ta biết, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: Này ở đây hay ở đó, vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21).
Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; Thiên Chúa là sự sống, sự hiện hữu nơi mỗi người. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Thế nên, nhận biết, nhận thức sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình cần suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét. Bởi vậy, hồi tâm nhận định tâm cảm của mình khi nghĩ về Thiên Chúa, chúng ta biết được mình cần phải thế nào để có thể thực hiện lời dạy nơi giới răn, “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Và hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.”
Có câu nói, “Nếu bạn thực sự yêu thương ai và muốn giữ, muốn có được lòng yêu thương ấy bền vững, thì đừng yêu thương họ, mà hãy chấp nhận họ như chính họ.” “Yêu thương kẻ khác như chinh mình,”nghe hoặc nói hay nghĩ thì dễ nhưng thực hành, thực nghiệm lại không dễ. Tuy nhiên, thử nhìn lại chính mình, mình có bao giờ đặt vấn đề yêu thương chính mình hay chưa. Thiển nghĩ, có chăng mình đang o ép, thúc đầy chính mình thực hiện ước muốn, ước mơ. Mình đang cưỡng ép thân xác cũng như cuộc đời mình theo ước muốn, cho dù ước muốn ấy thuộc loại nào. Không thế mà phúc âm phải nhắc nhở, “Hãy nhìn chim trời, không gieo vãi, không gặt hái, không cất vào kho lẫm mà Cha các ngươi còn lo cho chúng phương chi các ngươi, quân yếu tin. Hãy nhìn bông huệ ngoài đồng, sớm nở tối tàn mà Cha các người còn mặc cho chúng, ngay cả Salamon trong sự vinh quang của ông cũng không có được chiếc áo nào đẹp như thế. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài và các sự khác sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6:26-33).
Tất nhiên, ai cũng nghĩ là mình thương yêu chính mình nhất, nhưng để tâm nhìn lại mình thực sự là gì, như thế nào thì ít ai có đủ can đảm để tự nhận biết. Thế nên, muốn yêu tha nhân như yêu chính mình, trước hết cần nhận thực được Thiên Chúa là gì, cần nhận thức được vị thế của mình nơi Thiên Chúa. Biết mình là gì, nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình, chúng ta mới có thể thực hành đức yêu thương đến người khác.
Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta nhận biết chính mình, nhận biết sự hiện diện của Chúa nơi mình để thực hành giới răn mến Chúa yêu người. Amen.
Lễ Các Thánh (Mt. 5:1-12) ABC
Hôm nay chúng ta mừng lễ cách thánh nam nữ của Thiên Chúa nói chung và đặc biệt các thánh nam nữ của Thiên Chúa trong giáo hội Công giáo. Vì thế, tôi mời gọi mọi người dùng đôi giây phút để tìm hiểu các thánh là ai, liên hệ với chúng ta thế nào; đồng thời nhìn lại vị thế của mỗi người chúng ta trong dòng sinh biến vô cùng của tạo vật.
Thử nhìn lại tâm tình của chúng ta đối với những vị được gọi là thánh trong giáo hội Công giáo; có những vị được chúng ta chấp nhận là thánh chỉ vì có mối liên hệ với đức Giêsu; chẳng hạn thánh cả Giuse, thánh Phêrô và các tông đồ, thánh Martha, và em là Mary, hoặc thánh Phao lô, bốn thánh sử viết phúc âm, thánh Micael, thánh Gioakim bố của đức Mẹ.
Chúng ta lại có những vị thánh được giáo hội tuyên phong là thánh. Lên net, tôi đọc được hơn hai trăm vị được tôn vinh trong giáo hội Công giáo nhưng chưa thấy ghi tên đấng đáng kính Nguyễn Văn Thuận trong khi lại có tên những đấng đáng kính khác. Có lẽ website đã lâu chưa bổ túc. Thực ra, nói là đọc được hơn hai trăm, nhưng trong ngày kính các thánh tử đạo VN thì ít nhất đã có 117 vị được tôn kính trong 1 ngày. Thế nên tôi nghĩ, còn nhiều vị thánh được tuyên phong vẫn chưa được ghi trên website, hoặc sẽ không bao giờ được ghi nơi bất cứ phương tiện truyền thông nào vì không được biết.
Nhìn vào cuộc đời các thánh, trước hết các thánh phải là người như chúng ta. Có những vị cũng mang lầm lỗi có khi hơn mình. Thánh Agustinô, giám mục, là con của bà thánh Monica, khi còn trẻ, ngài đã làm phiền lòng mẹ. Thánh Phêrô chối Chúa ba lần, là dân chài lưới lại không biết bơi đến nỗi phải hốt hoảng kêu lên, “Lạy thầy xin cứu tôi.” Nêu lên đôi trường hợp như thế, tôi muốn nói lên, các thánh có cuộc đời như mọi người để chúng ta suy nghĩ, đặt vấn đề về thân phận và vị thế của mình trước mặt Chúa và hội thánh.
Hồi tâm nhìn lại mình là ai, mình thế nào. Kinh Thánh viết, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (KN 1:27). Thử hỏi, đã bao giờ chúng ta đặt vấn đề, hay suy nghĩ về mình là hình ảnh của Thiên Chúa chưa? Hay cứ giả mù sa mưa, chấp nhận mình là con người tội lỗi để chạy theo những gì mình muốn hay thích. Nếu thực sự chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa thì mình cần sống thế nào? Chính bởi không dám nhận chân thực thể của mình nên đành chấp nhận sống cho qua, sống không cần mục đích, không cần biết mình là gì, mình là ai. Từ điểm này, chúng ta nhận ra các thánh là những người nhận chân được thực thể mình là hình ảnh của Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, cuộc sống thay đổi, biến chuyển, trong khi con người mang cảm xúc, niềm tự hào, hãnh diện, nỗi đau, nỗi buồn, tham vọng. Đối diện với những thăng trầm, khó khăn, phức tạp của cuộc đời nênphát sinh nhiều nhu cầu cấp thiết tạo nên lắm chiều hướng nhân sinh thế tục khó bề cưỡng lại. Tất nhiên, dù sao, sinh tồn phải là điều tiên quyết bất chấp lý do gì. Con người là thế và không thế thì không phải là người.
Thêm nữa, tất cả những gì liên hệ đến Thiên Chúa đều được gọi là thánh vì Thiên Chúa là cội nguồn của thánh thiện. Nhà thờ được gọi là nhà thánh. Nơi đặt bàn thờ được gọi là gian cung thánh. Dân Chúa được gọi là dân thánh dẫu dân Chúa được dạy dỗ và chấp nhận cũng như nhận biết chắc chắn nên tin thật mình là người tội lỗi. Xét như vậy, hội thánh cũng còn được gọi là hội tội vì bao gồm mọi dân Chúa.
Tuy nhiên, một sự thể chúng ta ít để ý được thánh Phao lô nhắc nhở đã hai ngàn năm, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19). Thiên Chúa là cội nguồn của sự thánh thiện; Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Thế nên, gốc gác thực thể của mỗi người là thánh cho dù chúng ta nhận biết hay không. Xét theo quan điểm này, Những vị thánh là những ai đã nhận thức được mình là hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức nhân sinh.
Nhìn lại phúc âm, chúng ta đọc được, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: Này ở đây hay ở đó, vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21). Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; Thiên Chúa là sự sống, sự hiện hữu nơi mỗi người, Nước Thiên Chúa là chính Ngài, và Tin Mừng Nước Thiên Chúa chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Xét như vậy, chúng ta mang gốc thánh nơi mình mà đã không nhận ra. Lý do tại sao chúng ta không nhận ra, có lẽ tại chúng ta đã không để tâm suy nghĩ, không để tâm tìm hiểu mình thực sự là gì, thế nào trước mặt Thiên Chúa, Đấng đang ngự trị và hoạt động nơi mình.
Nhận biết như thế, kính mừng các thánh, chúng ta kính mừng sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình. Chúng ta tuyên dương, tuyên xưng Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu rao giảng cho chúng ta biết. Do đó, từ nay, khi chúng ta lên tiếng tuyên xưng cùng với linh mục, “Chúa ở cùng anh chị em… và ở cùng cha,” chúng ta để tâm nghiệm tính chất thánh thiện của Thiên Chúa nơi mỗi người. Xin Thần Linh Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta nhận ra gốc gác thực thể của mình chính là Thiên Chúa đang ngự trị nơi mình. Amen.