KHÚC MỘT
Trong văn chương nghệ thuật đã có nhiều người viết truyện, vẽ tranh, mô tả các anh Gù. Điều ấy tôi biết. Có lẽ các anh Gù được sinh ra ở trên đời này không phải chỉ để cho người ta kinh sợ. Tất cả những người bị tật nguyền đều có một cái gì đó đặc biệt tinh anh. Tôi đã thấy có một anh Gù trong rạp xiếc. Anh này rất lấy làm viên mãn sau mỗi lần diễn trò cùng chú khỉ. Và càng viên mãn hơn khi bàn tay to (thật hiếm có bàn tay nào to như thế) nắm được một nắm tiền lẻ mà khán giả hâm mộ ném tặng. Con khỉ thì coi đồng tiền cũng như cái rác, thành thử nó cúc cung tận tụy lượm tiền giúp anh. Trong số khán giả vô tư, chỉ cốt mua vui, có một người hét lên: "Ngu như khỉ! Ranh như Gù!" khiến anh Gù rạp xiếc bỗng dưng tự ái. Và thế là anh ta nằm co con tôm trên chiếc ghế đẩu, ông chủ rạp phải ra dỗ mãi anh Gù mới đồng ý diễn trò tiếp. Người ta kể rằng: anh Gù rạp xiếc nuôi được cả bố mẹ anh, cũng như nuôi cả rạp xiếc ấy, bằng cái sự gù của mình. Trong chương trình mà thiếu tiết mục của anh, khách vơi đi già nửa.
Số tiền bố thí của khán giả, anh Gù có quyền sử dụng, nếu bị tước đoạt, anh liền đình công! Tất nhiên anh cũng nhớ tới chú khỉ. Anh mười thì khỉ ta cũng được một phần.
Tôi cũng có dịp làm quen với một anh gù đi Hon Đa, chạy mánh giữa Sài Gòn hồi mới giải phóng. Những bao cát tiền Bắc trong tay anh ta, như có phép màu giữa Bến Thành, chuyển giao cho đàn em, trong chừng hai tiếng rưỡi đồng hồ, tụ về nơi quán nhậu thành ra những bao cát tiền Nam. Rồi số tiền ấy lại được biến thành búp bê, khung xe đạp mà các chiến sĩ giải phóng coi như món quà nhất thiết phải có trước khi về quê. Anh Gù chở một xe Hon Đa búp bê nhấp nháy tới tận cổng doanh trại... Nhà anh ta là một biệt thự khiêm nhường trong xiệc. Cô vợ mặt hoa da phấn cùng ba đứa con, hai trai, một gái, chẳng đứa nào giống đứa nào. Cô cưng chiều anh ta tới mức lạ lùng. Cô đón anh ta từ ngõ, dắt xe vô nhà, dẫn anh ta vào buồng tắm, tắm cho anh, rồi đặt anh vào salon, với ly cà phê pha theo lối Pháp. Ba đứa con cùng cô vợ xinh đẹp rối rít tít mù quanh anh ta phục vụ, hỏi chuyện, và xoa bóp. Đó là lúc cuộc đời dưới mắt anh Gù sung mãn diệu kỳ.
Tôi có thể kể ra đây hàng chục anh Gù mà tôi được gặp, được quen. Quả tình tôi cũng không còn nhớ vì lý do gì mà tới đâu tôi cũng để ý thu lượm những mẩu chuyện chung quanh các anh Gù. Ví như chuyến công tác lên Điện Biên vừa rồi, dọc đường thấy có cái quán, mà người chủ quán là một anh Gù, tôi liền lưu lại. Anh Gù này cũng có một cô vợ khá múp míp, xinh xẻo, hai đứa con, một đứa tinh anh sắc sảo lạ lùng, nhưng tiếc thay, nó cũng bị gù. Còn đứa thứ hai thì chậm chạp, nhưng không thấy giống anh Gù tí nào. Anh ngồi đan rổ rá, giần sàng, nhanh thoăn thoắt, nhưng còn một cái tinh nhạy nữa, là anh có tài thẩm định vàng. Anh sống bằng nghề ấy từ khi có phong trào đào vàng trên miền ngược. Người ta đem vàng tới cho anh xác nhận. Anh chỉ nhìn qua, rồi phát luôn: Vàng chín sáu! Vàng chín tám! Đưa đây hai đồng (tức hai ngàn). Một ngày anh thử vàng ít nhất cho năm bảy người. Thế là cô vợ anh cứ việc xách làn đỏ chót xuống chợ mua sắm đồ ăn, thức uống...
Càng đi càng gặp lắm các anh Gù, sao tôi cứ thấy thương cho hoàn cảnh anh Gù trong ngõ mình. Trời đã sinh ra anh, cũng một con người, sao Trời không cho anh đôi chân để đi? Đã thế anh lại phải làm con ông lão Hượu không rõ quê quán mình ở đâu. Con người ta đến quê hương mà cũng mù tịt thì hỏi còn làm nên trò trống gì? Ông lão Hượu xích lô chắc thời trai trẻ cũng là tay bán trời không văn tự.
Người ta kể rằng, ngày ngõ chúng tôi chưa được gọi là ngõ Lỗ Thủng như bây giờ, ông Hượu đạp cái xích lô, chở bà vợ ông cùng anh cả Gù, đổ xuống đống rác dưới gốc bàng, lấy chiếu manh, cành bàng dựng nên túp lều. ấy thế mà cũng thành ra một gia đình. Chiều chiều cái gia đình ấy cũng đỏ lửa nấu nướng, xì xụp ăn uống. Rồi ông Hượu cùng cái xích lô của ông đi kiếm ăn. Bà Hượu vùi con vào đống giẻ rách âm thầm ra hồ nước rửa ráy, rồi biến luôn vào bóng tối, bán thân kiếm sống. Sáng ra, cả hai người cùng phờ phạc trở về, cùng mở hầu bao tính toán. Bà Hượu đi chợ mua gạo, mua rau, nấu cơm nấu nước hầu chồng con. Ông Hượu ôm anh cả Gù đánh một giấc tới xế chiều. Rồi lại như thế, như thế... ngày qua ngày, cho tới cái đận Nhà nước hô hào lấp hồ, san bãi rác làm công viên, những gia đình kiểu như gia đình ông Hượu được gom lại, lấy cây bàng làm tâm, xây cho mỗi gia đình một gian.
Cái dãy nhà từ thiện chéo theo tường công viên hình thành. Nhà ông Hượu hóa ra đẹp nhất ngõ. Bà Hượu quay ra bán ốc luộc, cái thứ hàng một vốn bốn lời ấy đã cứu bà ra khỏi cảnh đi đêm. Và ông Hượu cũng được mở mày mở mặt. Chiều chiều trước bữa, có chén rượu với đĩa ốc. Sáng về ăn một bụng cơm rồi lăn ra ngủ. Sướng nhất đời rồi còn gì? Ông Huợu té ra cũng là người có chữ. Ông dạy thằng con ông học chữ hẳn hoi. Ăn ốc ăn khoai mà thằng Gù nhà ông sáng dạ ra trò. Ông dạy chữ nào là thằng Gù cũng thuộc ngay tắp lự. Đâu có vài tháng là cậu cả Gù đọc được sách. Ông kiếm Tam quốc diễn nghĩa về, cứ mỗi tối bắt Gù phải đọc cho ông nghe một hồi, trước khi đi làm. Gù ta thuộc lòng cả bộ Tam quốc chí. Rồi Thủy Hử. Rồi Tây Du. Vốn chữ trong đầu Gù phong phú.
Gù có tài kể chuyện. Kể chuyện Tam Quốc ăn tiền. Mỗi hồi một hào. Đám dân trong ngõ, ai muốn nghe thì tới ăn ốc, uống rượu nghe Gù kể chuyện. Gù ngồi trên cái ghế con, một tay làm trụ, nghiêng người, xoay cái ghế một cái, ấy là Gù nhích lên rồi đấy. Gù đi bằng hai tay trên chiếc ghế. Chính vì vậy mà hai khối u trên hai vai Gù mỗi ngày một đầy lên. Nhưng mà hai cánh tay, bộ ngực của Gù thì thật là cường tráng. Gù có khuôn mặt trái xoan rất dễ ưa, thêm nữa, trên khuôn mặt ấy, đôi mắt Gù mở to, đẹp đến lạ lùng. Hàm răng, mái tóc là góc con người. Khuôn mặt Gù, hàm răng Gù, mái tóc Gù y hệt là của mẹ truyền cho. Khóe miệng hơi rộng với hàm răng đều tăm tắp. Cái trán hơi dô với bộ tóc đen như mun, mai trổ dài xuống, nom cứ như Lã Bố.
Gù rất có ý thức về vẻ đẹp của mình. Không biết ai đã cho Gù mảnh gương, thỉnh thoảng vắng người, Gù lẳng lặng soi gương, tự ngắm mình. Ông bà Hượu có ý đặt cho Gù cái tên khác: Hùng hay Hoành hay Huy, nhưng Gù không chịu. Nếu đặt tên khác mà lành lặn được thì Gù cũng vui lòng. Đằng này, cái tên không cứu được Gù thoát khỏi hai khối u và nhất là hai cái chân nhũn nhẽo như hai cái đuôi trong ống quần thùng thình. Mẹ kiếp, không có nó thì thiên hạ bảo mình không có chân. Mà có nó, chỉ làm mình thêm khó chịu! Cái tên thì làm đếch gì. Hồi Gù còn bé, sao không đặt tên cho Gù là Hùng hay Huy đi? Con người ta không tự túm tóc mình nhấc lên khỏi mặt đất được. Thế thì cái tên chỉ là cái để mà gọi. Gù hay Hùng đã chắc gì hơn nhau. Gù cũng được. Thằng nào chê, con nào chê bố thì cút xéo. Ông Khổng Minh ông ấy dạy rằng: trong thiên hạ kẻ ngu lắm hơn người hiền. Mà đã ngu thì là ác, hay cũng gần kề với ác. Đã ác thì tâm không sáng. Tâm không sáng tức là hành động sẽ ám muội. Cái lõi của con người ta là ở trong cái tâm ấy vậy! Chứ còn cái tên, muốn gọi là gì mà không được? Gù thì cứ gọi là Gù không thể Gù mà gọi là Ngay hay Thẳng được!
Gù ta hay lý sự cùn như thế đấy!
Nhà ông lão Hượu hồi ấy làm ăn phát đạt hơn cả. Có điều không hiểu vì sao, bà Hượu cứ sinh con trai, đứa nào tới 5 tuổi cũng lại bỗng dưng bị chết! Trời không có mắt hay sao hả Trời? Có tới hơn 10 năm sau khi đẻ ra thằng Gù, mỗi lần nghĩ tới sinh đẻ là bà rợn tóc gáy. Con ơi là con, sao con lại thế này? Nhưng mà con là con mẹ. Các cụ đã dạy rồi: có đầu có tai, nuôi dai cũng lớn. Con lớn lên cũng thành thằng người? Cái thằng người kỳ quái khôn ranh... Cái thằng người kỳ quái cướp hết cả phần khôn của các em! Ôi chao là số kiếp con người?
Thằng Hùng, em Gù bị chết vì ngã xuống hố vôi trước cửa nhà. Gù trông thấy mà không làm sao kêu lên dược. Miệng lưỡi cứng lại như có cái khóa, khóa chặt cả xương hàm, cho tới khi em Hùng chìm xuống! Rồi đến thằng Huy, cái thằng mới 5 tuổi đầu đã leo trèo như ranh. Không biết bằng cách nào nó leo được lên cây bàng, để rơi nhào cổ xuống, chết ngay trước mặt Gù! Mẹ lại sinh em Hy. Em Hy lớn lên, đẹp như một hoàng tử. Không thể có đứa trẻ nào đẹp hơn nó. Cái gì đẹp của bố mẹ là nó lọc lấy hết. Gù suốt ngày quanh quẩn cùng em, không cho nó đi chơi, không cho bước ra khỏi cửa. Cái năm em Hy lên năm tuổi, cả nhà cứ nơm nớp lo. Bà Hượu đi đâu một tý cũng phải dặn dò Gù trông em thế này, nhắc em thế kia. Mùa đông mưa phùn gió bấc, Gù ôm em Hy trên giường, kể chuyện tam anh chiến Lã Bố cho nó nghe. Kể thế nào mà rồi anh thì ngủ tịt, em mò dậy chơi. Cái bếp điện của nhà bị đứt dây, thằng bé mò xuống nghịch. Tiếng kêu của thằng bé dựng Gù dậy. Nhưng mà không kịp nữa rồi. Cái dây điện quấn vào người thằng bé, xòe ra những tia lửa. Gù lăn xuống đất, nhưng không nhích được lên vì cái ghế Gù để trên giường!
Đến khi hàng xóm biết, mẹ Gù về thì thằng bé đã được đặt lên giường, không ai hiểu bằng cách nào Gù đưa được em lên. Chính Gù cũng không còn nhớ được chi tiết của sự việc. Gù chui trong gầm bàn, nằm sâu trong xó tối. Người ta lôi Gù ra xỉ vả nó như một tên tội phạm. "Thằng Gù khốn lạn! Thằng Gù giết em!". Rồi ông Hượu về. Ông về vào lúc nửa đêm về sáng. Ông đang đạp xích lô, chở hai bà buôn, hàng hóa chất đầy, và họ trả ông hậu hĩnh, nhưng không hiểu sao, đạp được nửa chừng thì chân ông cứng lại. Ông thở không ra hơi. Có cái gì đấy cứ níu ông lại, không cho cơ thể ông hoạt động. Và ông đành phải gọi một anh xích lô đang ngủ trên hè phố, cho anh ta chở khách.
Chính ông cũng không nhớ bằng cách nào ông đủ sức đạp xe về được tới gốc bàng. Người ông đổ xuống như một bao tải gạo, hất ra khỏi cái xe. Người ta xúm vào khiêng ông, đặt ông vào giường. Trong tiếng khóc khản đặc thảm thiết của bà Hượu, ông như kẻ mất hồn. Ông chồm dậy, cầm con dao phay, tìm thằng Gù. Ba bốn thanh niên ôm ghì ông lại. Người ta bế Gù trốn sang nhà cô Hạnh. Gù bị nhốt trong buồng như một con chó dại. Suốt một đêm, một ngày nữa, không ai để ý đến Gù. Người ta xúm xít lại lo cho đám tang em Hy. Gù trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, rồi lịm đi vì đói.
Những ngày u ám ấy thật khủng khiếp, nếu như Hạnh không bất chợt bước vào buồng trút bộ quần áo bê bết bùn đất vừa ở nghĩa địa về. Cô thét lên một tiếng rợn người khi bàn chân vừa giẫm phải một vật gì nhùn nhũn: Gù nằm ngay sát cửa ra vào căn buồng bề ngang ba mét, bề dài bốn mét tối tăm, sặc mùi son phấn của Hạnh. Cô bế anh lên giường, lặng lẽ mua phở về đổ cho anh. Gù tỉnh dần và nhận ra mình đang ở đâu. Anh òa khóc. Đây là lần đầu tiên trong đời Gù khóc. Trong ánh sáng mập mờ của bóng điện bị chạm mát, tiếng khóc ư ử của Gù tạo nên cảm giác rờn rợn, khiến cô Hạnh không chịu nổi. "Khóc cái đéo gì" - cô nói, điếu thuốc thơm lập lòe trên môi. "Bố anh chết rồi!". Điếu thuốc vẫn lập lòe nguyên một chỗ. Gù không tin vào tai mình. Anh nhào xuống đất, hai tay cào cào vào không khí: "Cái gì cơ... Hạnh ơi!", anh nói, giọng lặng đi. Hạnh bắt chéo chân, hẩy hẩy tàn thuốc, nói: "Ông ấy treo cổ lên cây bàng, đêm hôm kia, khiếp bỏ mẹ!". Cô đứng dậy, xốc nách Gù, đặt anh lên giường. "Cho tao về,... mẹ chúng mày!", anh nấc lên.
Người ta bế Gù về, đặt lên cái ghế của anh, trong căn nhà nghẹt mùi hương khói. Mẹ anh chít khăn tang, đi lại như cái bóng. Gù ngồi ủ rũ trong xó tối, đầu óc mụ mị đi vì cái chết của em Hy và của bố. Sao lại có thể nhanh như thế được nhỉ? Bỗng anh chồm lên, lăn lộn trên nền nhà, gào la thảm thiết: "Ôi giời ơi là giời! Sao lại thế nhỉ? Hả? Sao bố tôi không giết tôi đi rồi hãy chết? Bố ơi là bố ơi! Bố bỏ con hay sao bố ơi...".
Người ta lại bế Gù lên giường. Mẹ anh ngồi bên anh, vuốt vuốt lại mớ tóc rối bù của anh. Anh ôm ngang lưng mẹ, ấm ức khóc. Đã lâu lắm rồi, mẹ chỉ quan tâm đến các em, vuốt ve các em, còn đối với Gù, chưa kịp gì mẹ đã mắng rồi. "Mày có cất quyển sách đi không, Gù!" - "Mày để mặt thằng bé thế này mà nom được à, Gù?". ấy thế mà đêm nay ngoài hai mươi tuổi đầu rồi, Gù lại được mẹ âu yếm, được mẹ vuốt ve. Bàn tay mẹ như có phép màu đưa Gù vào giấc ngủ...
Phải qua 49 ngày ông Hượu và em Hy, mẹ con Gù mới trở lại cuộc sống bình thường. Bà Hượu thôi không bán ốc nữa. Bà không thể bán ốc mà thiếu thằng Hy đòi mút những con ốc còi. Bà không thể bán ốc mà thiếu đĩa ốc để lên cái ghế đẩu, cạnh xích lô, nơi ông Hượu thường ngồi luôn trong lòng xe, nhấm nháp chén rượu, mút ốc, nghe thằng Gù đọc truyện. Nhưng chiều chiều, bà vẫn luộc ốc, cúng ông. Vốn liếng của bà cũng đã cạn rồi. Có được đồng nào bà đổ hết ra, lo hai cái tang cùng một ngày. Sớm sớm chiều chiều, bà lẩn thẩn chui qua lỗ thủng, nhận mua cá mè câu trộm của mấy người hàng xóm, đem ra chợ bán, lấy lời. Từ ngày ông Huợu và con chết, bà luôn nhận được sự giúp đỡ của mọi người, kể cả "mụ Còng phù thủy". Những ngày sau cái chết của chồng con bà, tối nào bà Còng, nhóm trưởng, cũng tới ăn trầu, nói chuyện nhà quê cho mẹ con bà khuây khỏa. Hình như có sự phân công nào đó của bà Còng, cứ tối tối, hôm nay nhà này, hôm mai nhà khác, cử người tới chơi, khiến bà quên hết mọi cuộc cãi vã đã từng diễn ra trong suốt mấy chục năm trời. Chưa bao giờ bà gắn bó với cái ngõ nhà mình như những ngày này.
Thế nhưng, cuộc sống không phải lúc nào cũng diễn ra dễ thương như vậy.
Vào một buổi tối, bà Còng sang chơi, không phải với tư cách cá nhân như mọi bận, mà là, với tư cách của người cán bộ.
- Tôi đến để báo cho đồng chí từ mai chấm dứt việc buôn bán lậu cá mè, tiếp tay cho bọn ăn cắp.
Bà Hượu còn đang ngơ ngác chưa hiểu đầu đuôi ra thế nào, thì bà Còng đã nói luôn một mạch:
- Các đồng chí ở trên phường đã nhắc nhở nhiều lần rồi, ai còn câu trộm cá, buôn bán cá công viên, người ấy phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Anh em nhà thằng Dũng Hào chúng tôi đã nhắc nhở nhiều lần, không nghe buộc tổ chức phải bắt đi cải tạo. Cả bố con nhà anh Lương nữa. Cái lỗ thủng ra công viên nay mai trên sẽ cho xây lại. Chẳng ở đâu như cái ngõ nhà mình, người ta đã đặt cho cái tên là ngõ Thắng Lợi rồi, không ai chịu gọi, cứ tự bôi xấu vào mặt mình, gọi là ngõ Lỗ Thủng. Thật chả còn hiểu ra làm sao cả.
Nói rồi, bà Còng quay ra không để cho bà Hượu kịp phản ứng gì.
Và sáng hôm sau, cả ngõ lặng đi vì cái dáng tất bật của bà Còng. Chính vì cái dáng tất bật ấy mà bao nhiêu người phải ra tù, vào tội... Cái biệt danh "mụ Còng phù thủy" được dân trong ngõ đặt cho không phải không có ý nghĩa. Tôi cam đoan với bạn đọc rằng, nếu làm cuộc điều tra: ai yêu, ai ghét bà Còng, chắc chắn số ghi ghét sẽ đạt tới mức mà nhà kiểm phiếu phải kêu lên: tuyệt đại đa số! Thế nhưng, trong các cuộc bầu cử người đại diện cho mình để làm việc với Phường, thì bà Còng luôn được bầu với số phiếu cao nhất!
Âu đó cũng là một điều lạ lùng, khó giải thích trong đời sống của chúng ta vậy.