← Quay lại trang sách

KHÚC HAI

Từ sau cái hôm ra quán anh Gù uống nước chè ghi nợ về, ông già tiến sĩ của tôi nhìn nhận cuộc sống có vẻ thoáng hơn. Ông không quá ngạc nhiên trước những chuyện thường ngày trong ngõ nữa. Thậm chí ông có vẻ mê anh Gù. Số báo nào ra ông cũng đem tặng anh Gù ngay, và anh Gù cũng đón nhận một cách khá trân trọng. Sự thân tình giữa hai người đã tạo nên những bước ngoặt đáng kể về nhận thức. Ông tiến sĩ cho rằng giới trí thức nước nhà bấy nay trở nên u trệ, tù đọng, chính là vì mọi nhận thức đều chiếu theo những công thức có sẵn. Rằng ánh sáng của đời sống đã tới lúc đủ sức chiếu thẳng những tia cực mạnh vào trong cõi thâm nghiêm. Chính những tia sáng sắc nhọn ấy đã đánh thức các học giả, khiến họ có đủ bản lĩnh rũ bỏ bộ áo công chức yên phận. Tôi đã quá quen với lập luận hùng hồn ấy, và tôi im lặng. Sự im lặng của tôi đã kích thích ông. Ông đem tới cho anh Gù những bản dịch về triết học phương Tây, những luận điểm về cõi vô thức của Phrơt. Anh Gù tự biết mình không kham nổi những mớ kiến thức siêu phàm, nhưng anh rất lấy làm tự hào có một người bạn chân tình và uyên bác. Anh say mê nghiền ngẫm Sử ký Tư Mã Thiên và anh cho rằng tư tưởng "bất cơ" của Ngài đã giúp Ngài gần gũi thần dân, thấu hiểu nỗi bất hạnh của người đời.

Những cuộc đàm luận giữa anh Gù và ông tiến sĩ thường diễn ra bên chén rượu và đĩa lạc khi khách đã vãn, dưới gốc bàng. Ông tiến sĩ có ý gợi mở để anh Gù kể những chuyện vặt hàng ngày trong ngõ Lỗ Thủng. Quán nước anh Gù là nơi tụ điểm của mọi đầu mối éo le. Chuyện nhà ai anh Gù cũng thành thạo. Đây là vùng đất mới mà ông tiến sĩ của tôi nhập vào không phải khó khăn như trước đây ông vẫn hình dung. Và thế là ông bảo tôi đánh riêng cho ông cái chìa khóa, để ông có thể chủ động về trú ngụ lúc nào tùy thích. Tôi vui vẻ chiều ông. Sự thức tỉnh trong con người ông có thể nói bắt đầu từ chén rượu hôm nào cô Hạnh "mời bố" cùng với những cuộc tiếp xúc tiếp theo, ngày càng trở nên sinh động và hấp dẫn. Gương mặt ông trở nên sáng rỡ, và đặc biệt mỗi lần tới cơ quan, những định kiến vốn dĩ nặng nề trong cõi lòng bấy lâu dường như đã được gột rửa. Ông trở nên bớt cực đoan trong ứng xử: mềm mại và vị tha hơn đối với thói hách dịch vô lối của ông tổng biên tập mới, một người không có chuyên môn, vừa được bổ về tòa báo theo con đường tổ chức.

Thực ra tổ chức bao giờ cũng chơi những quả bất ngờ đối với sự không ổn của dư luận quần chúng. Chẳng là dư luận thì luôn luôn hướng tới những mong muốn của đám đông. Người ta cứ ồn lên rằng, tiến sĩ sẽ được bổ nhiệm làm tổng biên tập thay cho ông tổng biên tập (cũ) sắp về hưu. Rằng, tiến sĩ là người nhân hậu, giỏi nghề, lại năng động. Rằng, thời nay đổi mới tư duy rồi, việc tiến cử những người chủ trì các cơ quan, nhất là cơ quan chuyên môn, thế nào cấp trên cũng cho bầu tổng biên tập. Rằng các ứng cử viên phải trình bày các chương trình, kế hoạch của mình với sự bảo đảm bằng những biện pháp tiến hành cụ thể, nhằm đưa cơ quan tiến lên cả về vật chất lẫn tinh thần. Vân vân. Mấy tổ phóng viên đều khấp khởi mừng, thậm chí chúng tôi còn "cố vấn" cho ứng cử viên của mình khá nhiều những chương trình kế hoạch mạnh mẽ và quyết liệt. Ông tiến sĩ của tôi cũng có vẻ hăng hái và tự tin.

Ấy vậy mà, đánh đùng một cái, ông Sĩ, tổng biên tập mới được điều về. Cơ quan tôi như một quả bóng bay bơm quá căng, xì một cái! Ông Sĩ vốn là phó ban thi đua của tổ chức công đoàn ngành, lâu nay là cộng tác viên loại ba của tòa báo. Thực ra cộng tác viên loại mấy, đối với cánh phóng viên chúng tôi cũng thế thôi, cái chính là anh ta có gửi tin, gửi bài, qua bàn tay nhào nặn của biên tập viên, thế là thành ra chữ ti-pô kêu ngân lên với những con số và chất lượng nhưng việc phân loại vẫn cứ là phân loại, phân loại để biết khả năng của từng cộng tác viên, từng khu vực đề tài, và phân công từng tổ nắm vững. Chính tôi đã đôi lần nhận biên tập tin, bài của ông Sĩ, nên tôi biết. Thực chất chưa bao giờ ông ta viết được một bài báo cho ra bài báo, thậm chí câu chữ cũng chưa chuẩn! Ấy vậy mà ông ta ngồi trong cái xe con màu mận chín mang nhãn hiệu LADA của công đoàn, đỗ xịch trước cổng cơ quan, đầu đội mũ phớt, tay ôm cái cặp to bự, với cái dáng khá đẹp mã tới bắt tay lần lượt từng người.

Hai ứng cử viên của chúng tôi, tiến sĩ Thái và phó tổng biên tập Sửu trở thành hai anh hề dẫn lối cho ông ta tới từng phòng để làm quen. Vì giận cái lối xun xoe cam chịu của hai ứng cử viên một phần, phần nữa, cũng do cái giọng rè rè, the thé của ông Sĩ cùng với cái bắt tay trịch thượng hững hờ của ông ta, khi tới phòng tôi, mà tôi trở nên thô bạo. "Cậu ở ban phòng nào?", ông ta hỏi. Và tôi trả lời xách mé: "Báo cáo tổng biên tập mới, tôi ở tổ chuyên biên tập bài và tin cho các cộng tác viên loại ba. "Nét mặt ông Sĩ thoáng biến đổi, nhưng chỉ là thoáng thôi. Ông ta vỗ vai tôi: "Xin bắt tay nguời lính chuyển ngành". Ông ta bắt lại tay tôi rất chặt, và tiếp: "Tớ cũng là lính."

Trưa hôm ấy tôi được đồng nghiệp đãi một chầu bia hơi với lý do: "Nổ phát súng đầu tiên!".Thực ra tôi đâu có ý định làm việc ấy, chẳng qua tôi là thành viên của cái cộng đồng lam lũ mà bấy nay người ta vẫn gọi là ngõ Lỗ Thủng. Quả tình thì, cuộc sống ở nơi này có ít nhiều ảnh hưởng tới tính cách của tôi...

**

Ngôi quán anh Gù, nhìn chếch sang trái khoảng bóng mát của cây bàng gió hun hút thổi, cứ như cái quạt tự nhiên, thốc từ góc công viên sang. Chiều chiều đám dân trong ngõ hết thảy đều ra đây, qua cái lỗ thủng để tiến hành những phi vụ của mình. Người câu trộm cá, hái trộm hoa, bứng trộm cây cảnh, hái trộm củi, cắt cỏ. Người bê mẹt ô mai, thuốc lá, kẹo cao su, bán cho các đôi nam nữ ngồi ghế đá. Lại cũng có người chờ cho nhá nhem tối, vào đó hành nghề son phấn. Cái lỗ thủng chính là cửa ngõ mở ra với thế giới bên ngoài. Nó chấp chới xềnh xoàng, nó nham nhở, hôi hám vì cái rãnh nước chạy dọc theo tường công viên đen ngòm bốn mùa, uế tạp bốn mùa. ấy vậy mà nó linh thiêng, linh thiêng tới mức, giờ đây nó được tồn tại như một vật thiêng liêng của cộng đồng, tựa như cây duối, cây đa cùng với những huyền thoại về con rắn hói đầu, con ma đói lập lòe trong đống rác của làng xã.

Chiều hôm về khuya, trăng sáng, tôi tựa gốc bàng, giả như đang lắng tai nghe những câu chuyện tâm tình của hai nhà triết học (tôi gọi ông tiến sĩ và anh Gù như thế). Nhưng thực ra, tâm tưởng của tôi lại để ở nơi khác. Tôi nhớ những ngày chiến đấu cam go ở thành cổ Quảng Trị. Cũng chỉ có mỗi cái lỗ thủng - có thể ví như thế - mỗi cái lỗ thủng. Vậy mà từ đó toát lên bao nhiêu ý nghĩa lớn lao của cảmột chiến địch chiến lược, tài trí của người chỉ huy cùng binh sĩ cả hai bên đối đầu. Lính ngụy chết dưới chân nó không biết bao nhiêu mà kể. Chiến sĩ ta hy sinh vì cái lỗ thủng ấy không biết bao nhiêu mà kể. Tướng tá ngụy rớt lon, các cấp chỉ huy ta cũng có người mất sao, mất gạch, chỉ vì nó, cái lỗ thủng! Cái lỗ thủng, nếu không có nó, liệu đám dân trong ngõ chúng tôi tồn tại bằng cách nào? "Nó sẽ bục ra một lỗ thủng khác!", đó là lời ông tiến sĩ. Và tôi cho rằng ông nhận định đúng.

Mấy chục năm nay, cái lỗ thủng của ngõ chúng tôi được che khuất khách đi đường bằng lùm găng và đống rác lúc nào cũng chất ngang thắt lưng người. Sự bố trí ngẫu nhiên ấy, tạo nên cảm giác yên tâm cho nhà chức trách, nhất là đồn công an phía bên kia đường cái, chếch hướng tay phải quán anh Gù. Thực ra chung quanh công viên, không phải chỉ có mỗi cái lỗ thủng. Nhưng cái lỗ thủng của chúng tôi mang một ý nghĩa khác. Nó chỉ được tạo nên, dành riêng cho "khách quen". Tất nhiên, lượng "khách quen" mỗi ngày một đông. Và các mâu thuẫn chính là bắt nguồn từ cái sự tăng nhanh ấy! Đã không biết bao nhiêụ lần người ta yêu cầu bà Còng chỉ huy dân ngõ, xây bít cái lỗ thủng. Tất nhiên, nguyên vật liệu được Phường chi kinh phí được phường cấp. Nhưng sự chỉ huy của bà Còng đối với cái ngõ toàn dân thất cơ lỡ vận này, chỉ là để cho có hình thức.

Bà Còng chỉ huy công trường

Gạch đem làm bếp, xây tường bằng xi

Bà Còng ngồi khóc tỉ ti

Gạch ơi gạch hỡi gạch đi đường nào...

Cũng tự nhiên như mỗi lần xây bít, mỗi lần chọc thủng, lũ trẻ trong ngõ nhanh chóng có một câu vè, bài hát để nắm tay nhau diễu qua nhà bà Còng mà trêu chọc.

Gạch cho không biếu không!

Công trường đã mở đây rồi.

Gạch cho không biếu không!

Biếu không thì ta cùng đi

Tí ti ti ti ti tì...

Hoặc:

Mụ Còng phù thủy

Dạy khỉ xây tường

Bắc loa ễnh ương

Bắc giường ra ngủ

Bắc củ ra ăn

Ôm chăn mà đắp

Ù à ù ập...

Ù à ù ập. Đó là kết quả ai cũng biết trước, kể cả cán bộ trên Phường, mỗi lần ký quyết định xây bít lỗ thủng. Nhưng đó là công việc của chính quyền địa phương, là trách nhiệm và nghĩa vụ. Thực ra, việc này không phải chỉ có bà Còng chỉ huy. Đối với dân ngõ, ai chỉ huy cũng thế. Đã một vài lần Phường cử lực lượng về canh giữ hăm bốn trên hăm bốn. Sau khi tường khô, còn cử hai đồng chí công an, tay cầm dùi cui, đi đi lại lại thêm một thời gian nữa. Nhưng chả lẽ phải cử người đặc cách trông coi cái lỗ thủng? Không được! Làm thế chả hóa nhân dân không biết làm chủ, không biết bảo vệ của công? Nhất định đồng chí Còng phải cử thanh niên hoặc giao trách nhiệm cho mỗi gia đình trông coi một vài ngày! Oái oăm thay, cứ có các đồng chí công an gác, bức tường nghiêm ngắn ấy trở nên nghiêm ngắn khác thường. Nhưng chỉ cần sơ suất một tí, thế là những viên gạch cứ như có phép thần, bỗng dưng bục ra một lỗ nhỏ. Rồi một viên, hai viên, cứ từ từ bục ra, khiêm tốn và quyết liệt. Một ngày, hai ngày, loáng một cái, hình thù cái lỗ thủng lại trở về như cũ. Không to hơn, nhưng cũng không nhỏ hơn. Và thế là luồng gió hút trong công viên không còn phải vất vả trườn qua tường mà cứ việc thốc thẳng một đường chéo qua quán anh Gù!

Ve vẻ vè ve

Cái vè xây lỗ

Xây rồi lại đổ

Đổ rồi lại xây

Thách cả thằng Tây

Thách thêm thằng Nhật

Biện pháp bí mật

Biện pháp công khai

Hết đêm lại ngày

Hết ngày lại tháng

Rộng bằng cái háng

Cao bằng cái đầu

Nhìn trước nhìn sau

Ù à ù ập...

Ngày tôi về đây, quán anh Gù đã có rồi. Nhưng nó còn sơ sài lắm. Vài ba cái bàn con, ghế con bằng gỗ tạp, ly tách loại xoàng, mặt hàng chủ yếu là chè chén, lạc rang và các loại kẹo màu, bánh rán, bánh mỳ, bánh xu xê, bánh gai, các loại thuốc lá, thuốc lào. ấy thế mà khách đông. Quán nghèo, khách cũng tuyền khách nghèo. Chủ yếu là đám người trong ngõ, cánh sinh viên của một trường đại học về quê, ghé chờ xe ngoài phố. Cả các bác thợ mộc bên xưởng gỗ, cánh công nhân vệ sinh, bọn thanh niên đầu trộm, đuôi cướp tụ tập nhau đánh bài ăn thuốc lá ba số...

Bà Hượu già nua, lẩm cẩm, nhưng được cái sạch sẽ. Bà cặm cụi lau rửa các thứ suốt ngày. Từ khi ông Hượu chết theo các con, bà thôi bán ốc, chuyển sang buôn bán cá mè câu trộm của mấy người lối ngõ. Rồi dịch vụ buôn bán cá mè ranh ấy cũng không còn thích hợp được với tuổi cao sức yếu, không thích hợp với sự nhắc nhở thường xuyên của bà Còng, bà quay ra bán khoai lang, khoai sọ luộc.

Hồi đó, chưa tính ra chuyện làm ăn, Gù ta nằm khan ở nhà, đọc sách tạp nham. Anh không chịu nổi cái cảnh cứ chiều chiều, mẹ anh thắp hương, lầm rầm cúng khấn. Không khí căn nhà u ám, nặng nề với mùi hương rẻ tiền, lòng anh rầu rĩ vô cùng. Bỗng một hôm, anh nằm trên cái xích lô, tài sản lớn nhất của bố anh để lại, nhìn lên đám lá bàng xòe tán sum sê, màu xanh ngùn ngụt, Gù cảm thấy phấn khích, ý nghĩ bán cái xích lô lập quán nước bắt đầu từ đó. Những ngày tiếp sau, anh thường ngồi trên bực cửa nhìn chéo sang phía bên kia đường, nơi ấy là quán nước nhà hàng phố, càng kích thích anh. Anh nhẩm tính số lượng người ra vào phía cổng trường đại học, phía đồn công an, những tốp công nhân nghèo bên xưởng gỗ cùng với mấy chị công nhân vệ sinh thỉnh thoảng lại ghé vô ngõ hẻm xin nước uống.

Rồi cả thằng Nghẽo vác cái đầu to tướng trên cái cổ mềm oặt, trên cả cái thân hình mềm oặt, đẩy chiếc xe bốn bánh con con, chở hai thùng nước, ngày ngày ẽo ọt diễu qua cửa, sang bán cho cô Hạnh, bán cho những nhà lỡ không lấy được nước ngoài vòi công cộng, kích thích Gù. Đến cái thằng Nghẽo mà cũng kiếm ra nghề để sống! Gù tự nhiên thấy mình còn khá hơn nó. Hơn nó là cái chắc! Hơn ai chứ hơn thằng Nghẽo khốn khó ấy, đâu phải là niềm tự hào của anh. Nghe đâu thằng ấy cũng chỉ còn hai bố con. Bố già, con thì tàn tật! Thằng anh cả nó Gù biết. Chỉ được cái xác to khỏe nhưng lại ngu đần, lấy phải con vợ đành hanh, hai đứa đánh bạc thua chổng vó, bỏ bố già mù lòa cùng thằng em Nghẽo chạy ăn ngoài chợ giời, thành thử thằng Nghẽo phải nuôi bố. Nó còn nuôi được bố nó nữa là mình!

Mấy năm trước đây, chưa bao giờ cây bàng trước cửa nhà anh tươi tốt như thế này. Nhìn lên cây bàng, nhiều lúc Gù hốt hoảng nhớ tới cái chết của em Huy, cái chết của bố. Những cành bàng chĩa ra nhức nhối, nhung nhúc những con sâu róm năm nào, gợi cho Gù cảm giác rờn rợn. Hình như Gù có đọc được ở đâu đó người ta nói: trồng cây, nuôi thú thích hợp với tuổi già thanh cao, nhưng cũng lại rất ngại cho người làm ăn, buôn bán. Cứ nhìn cây là biết vận hạn nhà mình. Cây tươi tốt thì phải tranh thủ mà tiến tới. Khi cây héo, thú ốm, tức thì trong nhà không ổn. Có lẽ cái vận hạn xúi quẩy nhà mình đã qua rồi, thành thử cây bàng mới tốt trội lên thế.

Gù âm thầm nuôi chí, chờ ngày giỗ bố, anh bảo mẹ sắm một mâm cỗ thịnh soạn đặt lên bàn thờ, thắp hương dưới gốc bàng, ngoài hố vôi, rồi mời bà Còng, cô Hạnh sang dự. Chuyến này anh quyết ra tay, làm lại cuộc đời. Những nén hương cong vút, đều tăm tắp, báo có điềm lành, khiến anh càng tự tin. Cô Hạnh, bà Còng, hai người vốn rất ghét nhau, nhưng cảhai người không thể thiếu trong ý định của anh. Và anh cứ thản nhiên mời. Hai người được mời không thể từ chối. Họ cùng ăn mặc trang trọng, nền nã sang nhà Gù.

Cô Hạnh đặt lên bàn thờ một đĩa hoa cùng với tờ bạc năm ngàn. Cô lặng lẽ thắp hương, đứng chắp tay cúng rất lâu, rất thạo. Ba nén hương của Hạnh cũng cháy đều, cong vút. Rồi đến bà Còng. Bà cũng mang hương hoa, trầu cau đặt lên bàn thờ, trịnh trọng sửa áo, trịnh trọng bật diêm, thắp hương. Bà chắp tay khấn, rồi quỳ thụp trước anh linh của người đã chết. Bà lầm rầm cầu khấn cho tới khi ba nén hương của bà Còng cũng cong vút. Chuyến này ắt bố và các em sẽ phù hộ cho mẹ con Gù. Cả nhà hạ cỗ, cùng ăn uống vui vẻ. Gù và cô Hạnh uống rượu còn bà Hượu và bà Còng móm mém nhai các món ăn, gắp cho nhau, chị chị em em ấm cúng và thân thiết. Chẳng mấy khi có dịp sum họp ngồi với nhau cởi mở thế này. Bà Còng và cô Hạnh hôm nay đều tỏ ra đại lượng, quên những chuyện vặt vãnh thường ngay. Hạnh mời bà Còng rất lễ phép. Cô gọi bà, xưng con, như thể bấy nay hai bà con chẳng có chuyện gì. Bà Còng cũng không gọi Hạnh là "đồng chí" nữa. Chỉ riêng có bà Hượu là cứ thui thủi, vui là vui gượng, nét mặt bà vẫn cứ u ám âu sầu.

Cỗ tàn, hai bà già ngồi ăn trầu, Gù và Hạnh vẫn cứ ngồi uống rượu. Câu chuyện lần về quá khứ đau thương buồn thảm của hai bà già đã khiến cô Hạnh mất hết cái hung hăng thường có. Hai khóe mắt Hạnh đỏ hoe, rơm rớm nước. Bà Còng kể rằng ngày xưa bố cô Hạnh là người phúc đức, chỉ thích giúp người. Cứ động thấy ai có việc gì là ông sà vào giúp. Giúp xong, tịnh không tơ hào của ai nửa đồng xu. Đố ai mời được ông chén nước, điếu thuốc. ấy thế mà rồi cái số khổ vẫn hoàn khổ. Ba mươi bảy tuổi đầu đã mắc chứng bệnh ung thư, lại muộn vợ, muộn con, cả ngõ đưa tang ông cụ đều khóc. Rồi cái đận mẹ Hạnh đi bước nữa, gặp phải người không ra sao, lại bỏ về ngõ, rồi lại đi thêm bước nữa, lôi con bé con theo cái kiếp hồng nhan bạc mệnh của mình chán rồi lại quay về... Rồi chết!

Ở với nhau mãi mà hôm nay anh Gù mới tỏ tường hoàn cảnh Hạnh, người con gái lâu nay chỉ toàn phải mang trăm thứ tiếng tăm. Nhưng thôi. Miệng lưỡi người đời đã bao giờ sạch sẽ đâu! Con người ta được sinh ra, ai cũng cần sống cả. Và đã sống tất phải có sĩ diện của bản thân. Thế nên, ai cũng cố tìm ra cái để mà trông đợi, để mà tự hào. Hoàn cảnh càng éo le, người đời càng chú ý, càng bình luận, bình phẩm. Nhưng khốn thay thói đời vẫn thế, người ta có cần gì biết đến nỗi chua xót sâu xa của kẻ khó. Con người ta sống được là phải biết bơ cái sự bình phẩm ác mồm, ác miệng ấy đi. Người ta tồn tại được, truớc hết phải vì chính con người mình. Biết đâu cái thằng Nghẽo khốn nạn, dở người, dở ngợm kia, nó cũng có cái vinh cái nhục của nó. Nếu không, suốt ngày nó cứ vác cái đầu to tổ bố ấy, nghễu nghện đẩy cái xe nước tới từng nhà để làm gì? Nếu chỉ cần có miếng ăn không thôi thì thà chết đi còn hơn. Đúng thế. Rõ ràng là thế. Cả cái ngõ này, ai cũng thương hại nó, và ai cũng ngợi khen nó. Nó còn nuôi được bố, huống hồ...

Nghe tiếng khóc thút thít của Hạnh, anh Gù cảm thấy hãnh diện, niềm hãnh diện ngấm ngầm, man mác một nỗi buồn. Hạnh âm thầm thu dọn mâm bát cùng bà Hượu. Bà Còng ngồi nhai trầu bỏm bẻm, thỉnh thoảng đưa vạt áo lau nước mắt. Gù pha ấm trà thật ngon, đu người lên cái ghế tựa của mình, sát bên bà Còng. Đợi cho mẹ và cô Hạnh từ trong bếp bước ra, anh mới bắt đầu nói ý định của mình:

- Hôm nay cháu có mấy nhời muốn nói với bà. Hoàn cảnh nhà cháu chả phải nói bà cũng biết rồi. Cháu cứ nghĩ mãi mà vẫn chưa dám làm. Nay nhân ngày giỗ bố và em cháu, cháu định đem ra bàn, xin bà cho cháu được coi bà là người thân cận.

Bà Còng đủng đỉnh nói:

- Anh cứ việc phát biểu.

Gù hắng giọng tiếp.

- Cháu muốn bán cái xích lô của bố cháu để lại, lấy vốn làm ăn.

- Anh hỏi ý kiến bà lão chưa?

- Dạ chưa.

- Thế anh định lấy vốn làm gì?

- Cháu lập quán nước.

- Ấy chết - bà Còng giãy nảy lên - Quán sá ở đây thế nào được? Phường đang phát động phong trào làm sạch đẹp đường phố, cấm ngặt các gia đình lập quán vỉa hè, anh không biết à?

- Nhưng cháu lập quán tại gia, với lại hoàn cảnh nhà cháu thế này...

Bà Còng gật gù:

- Chỉ có ba đối tượng ưu tiên: gia đình liệt sĩ, thương binh, cán bộ già cả về hưu. Nhà anh lại không có trong diện ấy.

Hạnh xen vào:

- Bà nói ngang bỏ mẹ, anh Gù thế này làm sao đi bộ đội để có được cái tiêu chuẩn ưu tiên của bà?

Bà Còng thõng chân xuống đất, quơ quơ đôi dép, nói:

- Đồng chí bảo ai nói ngang?

- Tôi bảo bà nói ngang đấy - Hạnh trở nên đanh đá - Bà tưởng bà ghê lắm đấy à? Nghe bà thì có mà chết đói!

Bà Còng không vừa;

- Mày đừng già mồm, bà thì bà nói cho cái ngữ nhà mày biết, trong sổ đen có tên hết những đứa bán trôn nuôi miệng, nay mai rồi đi cải tạo mọt gông, đừng trách bà!

- Tôi thách bà đấy!

Anh Gù nháy mắt ra hiệu cho Hạnh thôi không nói. Rồi anh nắm tay bà Còng lễ phép:

- Cháu tưởng hôm nay vui, hóa ra lại buồn. Bà và cô Hạnh đều nóng tính quá. Cháu nghĩ thế nào bà cũng ủng hộ mẹ con cháu. Chí ít bà cũng làm ngơ. Chỉ cần bà làm ngơ thôi... Mọi sai trái với phường cháu xin bà cho cháu nhận.

Bà Còng nói, giọng rầu rầu:

- Tôi mà không nghĩ tới cái tình cũ nghĩa xưa, thì ở đây ối đứa vào tù. Thời buổi bây giờ, nứt mắt non ra đã láo toét, vuốt mặt không nể mũi.

Anh Gù lại phải nhăn mặt ra hiệu cho Hạnh im. Rồi ngọt nhạt:

- Ở cái ngõ Thắng Lợi này, không có bà thì có mà loạn. Cháu biết thế nên cháu mới phải hỏi ý kiến bà trước. Bà cho thì cháu được nhờ. Bà không cho cháu cũng phải chịu. Cháu chỉ làm cái quán nhỏ thôi, bán vài chén nước chè, dăm ba điếu thuốc, nói thật với bà, trông còn đẹp hơn mẹ cháu bê mẹt khoai lang với lại ngô luộc ra cửa...

- Thôi được anh để tôi hỏi các đồng chí trên phường đã.

- Phường là bà chứ còn ai ở cái ngõ Thắng Lợi nhà mình nữa. Bà phúc đức cho con cháu nhờ.

Bà Còng được Gù gọi mình là phường, lại nhắc tới cái tên ngõ Thắng Lợi thì lấy làm vừa lòng lắm. Tuy nhiên không phải bà ủng hộ ngay. Bà đứng dậy, cái lưng bà gập xuống, lọm cọm bước ra cửa, nói:

- Thôi chào bà lão, tôi về. Anh làm gì thì làm, nhưng chớ có ầm ỹ quá, trăm tội tôi lại phải chịu...

Bà Còng đi rồi, Hạnh bĩu môi một cái rõ dài, nói với anh Gù:

- Việc đếch gì phải lịnh mụ Còng phù thủy. Em không ngờ anh mà cũng hèn thế. Em nói thật, phường chứ quận em cũng không sợ. Anh muốn kiểu gì em cũng chiều.

- Em bảo anh lập quán có xứng đáng không?

- Có thế mà cũng phải bàn. Anh làm đơn đi, mai ngồi vào xích lô, em chở lên phường xin thủ tục, chỉ trong nháy mắt. Rồi anh em mình ra thẳng chợ giời sắm các thứ, gọi khách về đẩy cái xích lô nhà anh đi.

- Phải đẩy xích-lô trước mới có vốn chứ.

- Em cho anh mượn.

- Làm thủ tục nhiêu khê bỏ mẹ, đâu phải chuyện dễ.

- Chứ lại chả dễ! Thằng cha Tửu chủ tịch, con dê cụ ấy cứ thỉnh thoảng lại mò đến em, ẽo à ẽo ợt như thằng chết rồi mà còn máu. Em cho "tuột xích" tại trận, méo mặt!

- Thôi đang chuyện nọ xọ chuyện kia!

- Thế ai bảo anh muốn biết?

Gù đớ mặt nhìn Hạnh. Trong lòng anh cảm thấy giận, giận đến run lên, nhưng giận Hạnh hay giận cái thằng cha Tửu dê cụ nào đó thì anh không phân rõ được. Hạnh cười rúc rích, hình như nhận ra rõ ràng trong đầu Gù đang nghĩ gì. Cô nhìn trước nhìn sau, không thấy bà Hượu đâu, liền cúi xuống, ôm ghì đầu Gù, áp vào ngực mình. Gù bàng hoàng luồn tay lên ngực cô. Hạnh nâng mặt anh lên, nói tỉnh khô:

- Không được mất trật tự!

Rồi cũng nhanh như động tác ôm đầu Gù, cô hôn ập vào môi anh, lút lưỡi.

Gù run rẩy chặt cổ Hạnh. Nhưng Hạnh đã kịp buông anh ra, chí vào trán một cái:

- Thôi em phải về đây, sáng mai cứ thế nhá.

Gù thẫn thờ một lúc, đến khi xoay được người thì không còn trông thấy Hạnh đâu nữa.

**

Lần đầu tiên trong đời Gù cảm thấy cuộc đời có nhiều cái hấp dẫn đến bàng hoàng cả người. Sự kiện bất ngờ tối nay khiến anh trằn trọc mãi không ngủ được. Anh thả mình xuống ghế, nhích dần, nhích dần ra cửa. Mẹ anh đã ngủ rồi. Cả cái ngõ Thắng Lợi hay Lỗ Thủng này cũng đã ngủ mê ngủ mệt rồi. Ngủ làm gì nhỉ? Mình sẽ thức suốt đêm nay, chờ sáng. Sáng mai Hạnh sẽ đến, hai đứa sẽ lên phường. Mới chỉ nghĩ tới đó Gù đã cảm thấy sung sướng lắm rồi. Anh ngồi im phăng phắc, he hé cánh cửa, lắng nghe tiếng động tĩnh phía cuối dãy, nơi ấy có một căn phòng sực nức mùi đàn bà, con gái. Hạnh đang làm gì? Chắc gì cô ấy đã ngủ được. Có khi Hạnh cũng đang nghĩ tới anh. Nhưng nếu không ngủ được thì cũng phải đi ra, đi vào, hoặc có tiếng động chứ. Đằng này cứ im như tờ!

Gù cố xích ghế lên, trườn ra tận gốc bàng, đến khi nhìn được tới phía ấy, anh mới dừng lại. Không có ánh đèn, chắc là ngủ rồi. Mà đêm nay lạnh, mình hoạt động nhiều nên mới thấy nóng người lên thôi. Anh ngồi sát gốc bàng, nhìn chò chõ vào bóng đêm. Có hai con chó nhà nào động tình phóng ầm ầm qua, rồi lại phóng trở lại. Một cơn gió thốc vào ngực Gù. Anh khẽ rùng mình, áp má vào thân cây. Trời xao xác trên tán lá. Bắt đầu mưa phùn rồi.Anh hậm hực quay ghế, nhích dần, nhích dần vào nhà. Từ bé tới giờ, Gù vẫn coi ban đêm chỉ dành cho giấc ngủ. Chưa bao giờ anh thức khuya thế này. Té ra ban đêm mới thực là cái dành cho con người. Chỉ những kẻ hèn mọn, ngu dốt mới không biết đến vẻ đẹp của đêm đen. Anh hình dung ra quán nước nhà anh vào dịp Tết này, khách ra vào tíu tít. Hạnh sẽ lo hết mọi bề cho anh, anh chỉ việc ngồi trên ghế bán hàng, chuyện phiếm với khách.

Gù cảm thấy thoang thoảng đâu đây mùi son phấn. Đúng rồi, chứ còn gì nữa. Anh đưa tay vuốt mặt, rồi liếm môi, cái vị đắng của son sao mà hấp dẫn, hấp dẫn đến nao lòng Gù. Nó như là một khối vật chất mang hình người con gái ấy, lại cũng như hư ảo, chỉ là hư ảo. Gù phát cuồng lên vì hạnh phúc. Cái thằng Nghẽo có mà suốt đời cũng không được hưởng phút giây kỳ diệu ấy. Chẳng có con đàn bà nào lại dám ghé vào đôi môi dày của nó, bố thí cho nó một cái hôn. Thế thì còn sống làm gì kia chứ! Sống ở trên đời mà cứ phải vác cái đầu to tổ bố trên cái cổ mềm oặt ra, trên cái thân hình cũng mềm oặt ra, với đôi chân rệu rọ, phải tựa vào thành xe để đẩy, ấy thế mà cũng có lúc thấy nó toác miệng ra cười hềnh hệch. Cứ tưởng mình đã nhục, vậy mà còn khối thằng nhục hơn. Nhưng nhục thì nhục, con người vẫn tìm ra được cái gì để thích thú, để vui cười! Vinh với chả nhục thì làm gì, nếu không được hôn, như Hạnh hôn Gù! Làm chủ tịch phường hẳn hoi, cứ tưởng thế đã oai à?

Ơ, nhưng tại sao mình lại nghĩ tới thằng Nghẽo với lại thằng dê cụ ấy nhỉ? Mình việc gì phải đem so sánh mình với thứ dở người dở ngợm ấy? Chúng nó thì đáng gì để so? Nay mai quán của Gù sẽ được hình thành, cái lộc của bố làm vốn, thế mà cứ nằm ềnh ra đây, mãi tới bây giờ mình mới phát hiện ra. Nhưng việc gì cũng phải có thời cơ, đến cái lúc của nó. Cái lúc Gù ra tay đã đến rồi. Lại có Hạnh ở bên thì thách các con nhé! Cuộc đời sao lại chuyển xoay nhanh thế nhỉ.

Lâu nay Gù chả hề nghĩ gì đến Hạnh, ấy là nói nghĩ đến chuyện yêu đương kia. Chứ còn Hạnh sống thế nào, cả cái ngõ này, ai còn lạ gì. Hạnh có tài đan len vừa đan vừa nói chuyện. Hạnh có tài may cắt, chỉ tội nhà không có máy khâu, nhưng cô khâu tay không kém gì may máy. Hạnh có tài trang điểm cô dâu, cắt sửa tóc, ai cần thì Hạnh giúp, chả thèm đòi cảm ơn. Hạnh kiếm ra tiền bằng cái nghề nửa công khai, nửa bí mật của mình. Thỉnh thoảng lại có "anh bạn" từ miền Nam ra, ở lại trong nhà vài ngày, sắm cho Hạnh vài bộ quần áo, thậm chí mua cho Hạnh cả cái xe mi pha. Có hôm hai ba anh, đem cả "vợ" tới, họ mua hàng thùng, hàng thùng bia lon, những chai rượu Tây giá nửa chỉ vàng về nhậu. Nhậu suốt ngày, suốt đêm, khiến đám dân trong ngõ đi qua, ai cũng dè bỉu, thậm chí có người nhổ phì phì. Mặc! Đó là việc của họ.

Bà Còng đích thân đến: "Đồng chí Hạnh, yêu cầu đồng chí...?" - "Bà muốn gì? Tôi cho bà xem cái giấy của Chủ tịch phường, bạn của anh ấy đấy!". Thế là bà Còng tiu nghỉu ra về. Bà ta ra về, mang theo một lô một lốc những chuyện nhảm về cô Hạnh. Cô Hạnh qua cái miệng độc ác ấy hóa ra một con điếm, bán trôn nuôi miệng! Khiếp quá. Cũng chỉ tại thói đời ghen ăn, ghét ở mà sinh ra cả. Đã có hồi Hạnh là công nhân nhà máy dệt, nhưng vì làm mãi không xin được vào biên chế, cô mới về nhà đan len. Cả cái ngõ này đều mặc áo len do Hạnh đan giúp. Việc gì cũng giúp, cứ ynhư tính ông cụ ngày xưa. Hạnh có cần gì đâu, tiền Hạnh có, nhà Hạnh có. Nhiều người khuyên cô lấy chồng, cô chỉ nói một câu là hết khuyên ngay: "Đàn ông là con vật!" Chẳng biết vì lý do gì mà Hạnh thù đàn ông, ghê tởm đàn ông, chơi đàn ông đến thế!

Nhưng với Gù thì khác. Gù là đàn ông, nhưng không phải thứ đàn ông để cho cô ấy khinh. Khinh thế nào được Gù. Chẳng thế mà bỗng dưng ôm lấy người ta, hôn lấy hôn để, rồi chạy. Chẳng thế mà cái ngày gặp nạn, cô ta đãđưa Gù vào đúng căn buồng của mình, để rồi lo cho tang lễ nhà Gù đến nơi đến chốn. Cái ơn ấy biết bao giờ mẹ con Gù mới trả được. Lại thêm cái ơn nữa! Cái ơn mà chỉ Gù mới có quyền được ghi, ấy là nụ hôn vội vàng của tình yêu! Chỉ có tình yêu mới thế. Sự thực thì Gù cũng chưa bao giờ để công suy nghĩ về tình yêu, thậm chí, cái sự khao khát ấy đối với Gù là quá tầm, quá cao xa nên Gù không nghĩ tới. Nhưng giờ đây Gù đã thành con người khác, thành ra đối tượng của tình yêu, hà cớ gì không nghĩ, không tự chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm trên chính tình yêu mình có, chứ còn thứ tình yêu trong tiểu thuyết bấy lâu Gù đọc, nhạt thếch!

Gù cảm thấy lạnh. Lạnh thấm vào người anh nhanh quá khiến anh run lên. Gù hậm hực nhích ghế quay vào. Mẹ anh nghe tiếng động vội nhỏm dậy. Thấy Gù đang xích ghế, bà không hiểu anh đang muốn gì, liền hỏi:

- Con tìm gì thế, Gù?

Gù không trả lời. Bà mẹ vén màn, bật điện. Gù tự dưng nổi cáu:

- Mẹ ngủ đi! Vớ vẩn!

Bà mẹ âm thầm nằm xuống, buông một tiếng thở dài.

- Mẹ có tắt điện đi không?

Như một cái máy, bà mẹ trở dậy tắt điện.

Gù lặng lẽ tới chân bàn, tìm cái rương. Trong cáirương ấy là những bộ quần áo cũ của bố anh. Trong cái rương ấy, có một chiếc áo len gai chắp nối nhiều màu, do chính tay Hạnh đan hộ năm nào. Gù sẽ lấy chiếc áo ấy ra mặc. Rồi Gù sẽ lại lần ra cửa nghe ngóng. Tay Gù chạm phải chai gì trong khe, giữa cái rương và bức tường ẩm mốc. Đúng rồi, chai rượu Gù và Hạnh uống mới hết già nửa. Bây giờ Gù sẽ uống. Uống hết, cho ấm người lên. Uống đế lấy sức mà thức, mà lần ra cửa, nhìn sang bên ấy. Biết đâu Hạnh thức dậy...

Và thế là Gù ngửa cổ tu. Tu một hơi hết phần rượu còn lại. Rồi anh mở rương, mặc áo len vào. Cái áo len lâu ngày được đem ra mặc, cái mùi gì mông mốc, lại cũng tựa như có cả mùi bàn tay người ấy còn vương lại. Anh cúi xuống vạch áo ra tìm. Chỉ có bàn tay Hạnh mới đan được những mẩu len vụn ấy thành ra cái áo. Bây giờ mà gặp Hạnh, anh sẽ bày tỏ tình yêu của mình. Có đúng là Hạnh yêu anh không? Không yêu sao lại ôm ghì đầu anh, áp vào ngực? Cái cảm giác ấm và mềm của đôi vú ấy khiến anh run lên...

Gù đã nhích ra khỏi cửa, anh lại tới bên gốc bàng, chõ mắt vào đêm tối. Vẫn yên tĩnh. Vẫn mưa phùn. Mặc! Anh bắt đầu nhích lên, hướng về phía ấy. Anh sẽ sang tận nơi, gọi cửa và chỉ cần trông thấy Hạnh. Chỉ cần trông thấy qua khe cửa sổ thôi cũng được. Gù phải sang, để Hạnh biết rằng, anh không phải loại người chỉ biết chờ, mà anh cũng biết tìm. Anh đi tìm tình yêu của anh. Nếu Hạnh đang ngủ, anh sẽ đu người lên cửa sổ, nhìn qua khe, thế là đủ lắm rồi. Và sáng mai, anh sẽ kể cho Hạnh nghe cuộc hành trình đến cái đích ấy...

Anh bặm môi, nghiêng người bên nọ, nghiêng người bên kia một cách quyết liệt. Từ bé tới giờ, có lẽ đây là lần đầu tiên anh di chuyển một cách quyết liệt thế.

Và anh đã tới đích.

Qua ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn trên chái khu nhà, anh nhận ra cửa nhà Hạnh khóa. Hạnh đi đâu? Gù cảm thấy máu dồn lên mặt. Anh nhích lên. Nhích lên nữa, tới sát bên cửa sổ, loay hoay mãi vẫn không tìm được cách nhoi lên, đành vơ hòn gạch vỡ. Anh đã toan ném thẳng vào cánh cửa. Nhưng tự trong lòng anh, có một tiếng nói, một lời khuyên. Lời khuyên ấy bảo rằng, chớ có làm thế. Đêm nay Hạnh không có nhà, chính là vì anh. Biết đâu Hạnh đi tìm thằng cha dê cụ ấy, làm việc trước với hắn. Hoặc giả Hạnh đến nhà cô bạn nào đó, mượn tiền giúp cho anh lập quán ngày mai. Cái gì cũng phải bình tĩnh. Mà liệu chắc gì Hạnh đã yêu anh. Hạnh đi với một thằng cha nào đó, ở đâu đó, cũng là vì cần một món tiền cho anh mượn...

Gù không biết rằng, cái động tác kéo ghì đầu anh vào ngực mình, và vội vàng hôn của Hạnh hoàn toàn không phải động tác của tình yêu. Đối với Hạnh, hôn hít chẳng có nghĩa như thế. Và tất cả những động tác ấy chỉ là vì tối nay, cô đã có hẹn với một đám khách mới, cô không thể lỡ hẹn với người ta.

Và cái giờ hẹn ấy đã sắp đến rồi...

Sáng hôm sau Hạnh xuất hiện với bộ quần bò mốc mới toanh, nom cô như một nữ hoàng! Gù run rẩy mời Hạnh vào nhà "uống nước cái đã". Hạnh như người vô tình, cô không hề để ý tới nét mặt đầy xúc động và những động tác thiếu tự nhiên của Gù. Mặt Gù tái mét, đôi môi mấp máy, hai cánh tay lực lưỡng của anh xoay đi xoay lại trên ghế một cách tội nghiệp. Bà Hượu bê tô phở từ trong bếp ra, đặt trên giường mời Hạnh. Cô cười khi khí rồi rút bao thuốc "ba số" từ túi áo ngực ra, đưa cho Gù. Gù lấy một điếu. Hạnh lại móc túi lấy bật lửa ga, xòe lửa cho anh. Cô cũng lấy một điếu ra hút.

- Bà ăn đi, cháu không ăn đâu - cô nói rồi ngồi nghiêng cổ hút thuốc.

Bà mẹ ngồi xuống bên Hạnh, nói nhỏ nhẹ:

- Cháu ăn phở đi, rồi hôm nay giúp anh...

Gù cảm thấy khó chịu vì sự có mặt của mẹ. Anh nói giọng cắn cảu:

- Thôi mẹ cất đi! Vớ va vớ vẩn.

Bà Huợu nhẫn nhục cúi xuống bê bát phở, lặng lẽ vào bếp. Tự dưng óc Gù trì độn tới mức, anh không biết phải nói với Hạnh và xử sự với cô thế nào.

- Tám giờ có khách tới bắt xích lô, anh cứ đòi hai chỉ, Hạnh nói. Anh đưa đơn đây, em lên phường một mình cũng được.

- Ơ hay... Gù lúng túng.

- Thôi được, - Hạnh ngắt lời anh - đơn từ rách việc, để em nói miệng cũng xong. Anh chờ em về rồi đi mua các thứ.

Gù không kịp phản ứng thì Hạnh đã đứng dậy, lách ra khỏi cửa. Đầu óc Gù vẫn u trệ đến thảng thốt. Phải tới vài phút anh mới tỉnh. Chỉ có thế thôi ư? Vậy mà suốt đêm qua Gù thao thức, Gù trông mong chờ đợi, để đến cái phút gặp nhau, anh lại trở nên ngớ nga ngớ ngẩn! Anh tự xỉ vả mình tự cảm thấy vì tất cả những ý nghĩ vô duyên mà suốt đêm mà anh cho là sáng suốt và minh mẫn.

Gù hậm hực xích dần, xích dần ra cửa. Rồi khônghiểu sao, anh lại lụi cụi quay trở vào.

Khuôn ngực cường tráng của anh dồn ứ lên. Và hai giọt nước mắt đậm dần, rồi chảy thành hai vệt dài trên má.

Gù khóc.