← Quay lại trang sách

KHÚC BA

Sự bí mật trong tâm tưởng con người thật khó mà lường được. Tuy nhiên, bên trong cõi riêng tư, tưởng chừng kìm giữ được kia, sự rò rỉ ngấm ngầm tạo nên cái cớ cho con người trì hoãn và ngỡ rằng nó cao sang, nó mới đích thực là bản thân mình, và thế là ta chui vào cái bọc triết lý cằn cỗi ấy, để rồi một ngày kia, chính ta bị cái mớ bòng bong triết luận cũ mèm, tưởng như là mới mẻ trói buộc ta, trước những biến động của cuộc sống.

Từ ngày ông tiến sĩ và anh Gù trở nên thân thiết, tôi thành ra kẻ chầu rìa. Nhiều lúc tôi bị họ bỏ rơi một cách không thương tiếc, ấy là nói về phương diện tình bạn thôi, chứ thực ra họ vẫn quý tôi. Tôi có cảm giác, hình như suốt mấy chục năm qua, hai con người này sống được, trải qua bao nhiêu nhọc nhằn được, chính là vì họ hy vọng ở phía trước cuộc sống, đang có một người chờ mình. Và cái người ấy giờ đây đã tìm được rồi. Đến khi tìm được nhau, quên ngay cái duyên cớ mà cuộc sống tạo cho họ. Họ coi trong thế giới này chỉ có hai người, và có lẽ chính vì thế, hai vết rò rỉ trong cõi tâm tư họ cùng lúc xổ tung và họ trở nên những người hạnh phúc.

Còn tôi thành ra kẻ cô độc!

Tôi không giận họ nhưng cảm giác buồn bực ngày càng tăng. Tôi không phải là người thích phân tích sự việc thành thử tôi cũng không để ý nỗi buồn bực ấy bắt nguồn từ họ hay từ bản thân mình.

Và điều ấy thực ra cũng chẳng quan trọng gì.

Mãi tới một hôm, đã khuya lắm rồi, trời lại nóng, tôi cởi trần nằm lơ mơ dưới nền nhà, hai cái quạt con cóc ra sức quay, chĩa vào hai đầu cơ thể. Đầu tôi mang máng nhức. Ranh giới của sự buồn ngủ và không ngủ được cứ chập chờn ẩn hiện, khiến tôi vật vã. Tôi cảm thấy hình như trong óc tôi đang có một cái bọc gì nhầy nhụa lắm. Cái bọc ấy đang tiết ra một thứ nước màu xam xám, rồi loang mãi, loang mãi trên mặt tôi. Tôi đưa tay vuốt mạnh, lập tức thứ nước nhờn ấy chuyển rất nhanh thành màng mỏng, u tối và tù đọng. Tôi không thể vượt qua cái màng mỏng ấy để tiếp cận với chính những ý nghĩ đang quằn quại trong bản thân mình.

Câu chuyện hôm qua nghe được về mối tình đầu đơn phương của anh Gù, khi anh tâm sự với ông tiến sĩ, càng chạnh lòng tôi. Tôi luôn mang sẵn trong lòng cái mặc cảm u tối của một kẻ đã một lần cưới vợ, một lần chia tay. Đã nhiều lúc tôi gồng mình lên, muốn bung ra khỏi bức màn xám của nỗi cô đơn bằng những lời tuyên bố, rằng tôi sẽ chẳng bao giờ lấy vợ, rằng đàn bà vừa là quỷ sứ vừa là thiên thần, nhưng cái phần thiên thần thì ít mà ma quỷ thì nhiều. Rằng tự do muôn năm! Tất cả những lời sáo mòn ấy không che lấp được tâm trạng tôi, nhất là từ khi về cái ngõ Lỗ Thủng này. Tôi đã nhiều lần bị ông tiến sĩ bắt quả tang giữa lúc tôi đang buồn nản và phẫn chí. Ông khuyên giải tôi với những lời cũ mèm, cổ lỗ, nhưng chân tình.

Theo ông thì con người ta không nên đòi hỏi những gì hoàn hảo, rằng sự hoàn hảo bao giờ cũng bóp nghẹt bản năng sáng tạo của giới trí thức. Rằng, trong hoàn cảnh hiện nay, sự hoàn hảo trong mỗi con người phải dùng thước đo của sự chịu đựng và vị tha. Rằng trong mỗi gia đình, tưởng như rất hạnh phúc kia, bên trong nó chứa đựng biết bao nhiêu điều bi kịch. Rằng cái gọi là hạnh phúc gia đình thực ra chỉ là một khái niệm. Tôi biết lời khuyên của ông không phải chỉ dành riêng cho tôi, mà nó còn là lời an ủi chính bản thân mình. Bà vợ ông là một người tháo vát đảm đang, tuổi ngoài bốn mươi, nhưng ở bà toát lên cái sức mạnh lộ liễu của đàn bà. Tôi chỉ tới nhà ông vào ngày Tết, và ông cũng chỉ mời tôi đúng vào thời điểm ấy. Gần như đó là một thứ luật định ngầm của nghĩa vụ mà chúng tôi cùng không tránh khỏi. Bà tiếp đón tôi rất niềm nở, hỏi han đủ thứ về đời tư, và cả hai cô con gái mới bước vào tuổi trưởng thành của bà cũng ríu rít quanh mâm cỗ. Cả năm, đó là cái bữa mà tôi được quan tâm, được trở thành nhân vật chính trong bối cảnh sinh hoạt của một gia đình. Ông tiến sĩ lẳng lặng ngồi bên tôi với cái vẻ kiêu hãnh đặc biệt, không phải đối với tôi, mà là đối với bà vợ và hai cô con gái xinh đẹp.

Ôi gia đình! Hạnh phúc thay cho cuộc sống gia đình! Bởi vì bên trong của nó là tất cả những gì con người có thể phơi bày. Bởi vì bên trong của nó, người ta không cần đậy điệm. Và bởi vì những bông hoa trên bàn, lời ca trong đĩa hát, đá trong tủ lạnh, và cả những lời ca trên những đôi môi tươi thắm của các cô các bà, cùng những món ăn cầu kỳ đều chỉ là thực phẩm. Sự chăm sóc thái quá trong những dịp tiệc tùng trước khách khứa, bạn bè cũng là thực phẩm, thứ thực phẩm chắt chiu, hiếm hoi chỉ dành vào dịp ấy. Ông tiến sĩ đã có lần thốt lên rằng bữa ăn ngon nhất trong năm, yên lành nhất trong năm của ông, chính là cái bữa mùng hai tết có tôi ở đây!

Tình bạn, cái cao quý nhất của tình bạn là sự cảm thông, hãy đừng khuyên răn nhau, hãy để cho nhau yên, và nếu có được thì tốt nhất, hãy lặng lẽ rút lui khỏi những ham muốn giúp đỡ, cải thiện trực tiếp!

Tôi không thể hiểu được, vì sao ông lại có thể sống trong một gia đình, mà vợ ông chỉ là vợ trên danh nghĩa. Còn sự thực thì lại khác. Cái vết rò rỉ trong tâm tưởng ông đã tự nó bục ra ngày càng to, từ khi ông gặp người bạn tâm đắc của mình, đó là anh Gù. Chưa bao giờ ông nói với tôi, nhưng mà anh Gù thì ông lại nói. Và tôi biết được điều đó cũng chính vào cái đêm hai người ngồi bên nhau rủ rỉ tâm sự.

Ông rất yếu về "cái khoản ấy"!

Ông không có con.

Tôi chợt giật mình buông bút và đọc lại những trang vừa viết. Tôi lấy cái quyền gì mà tự dưng đem kể cái chuyện lẽ ra không nên kể chút nào, đối với hoàn cảnh của những người bạn mà tôi hằng yêu mến. Còn tôi? Sao tôi lại có thể giấu biệt cái vết rò rỉ bấy nay âm thầm trong cõi lòng mình. Thực ra anh có thể kể, nếu anh không tự cho mình là người có quyền phán quyết mọi chuyện, thì cái vết rò rỉ ấy ít ra cũng vơi bớt cho ta nỗi buồn. Bởi vì, con người ta không thể chạy trốn bản thân mình. Và nếu như càng tìm cách chạy trốn, thì cuộc đời sẽ vây bủa ta, đẩy ta tới đoạn đầu đài của sự thực.

Chính tôi đã bị đẩy lên đoạn đầu đài ấy.

Thời gian gần đây tôi ít về nhà. Tôi rất sợ những buổi chiều, khoảng từ bốn giờ rưỡi tới chín giờ tối, đối với tôi thật khủng khiếp. Chiều hôm tôi lẩn thẩn đạp xe khắp các phố đông người, chui vào các cửa hàng bách hóa, tôi muốn quần cho cái thể xác của tôi mệt lả, để đến khi đặt lưng xuống là có thể ngủ được. Nhưng tôi đã lầm. Tôi bị mất ngủ không phải vì thể xác. Thể xác chẳng qua chỉ là cái vỏ bọc vật chất không hơn không kém. Nó là con người khi biết tuân theo sự chi phối của trí não. Có hôm tôi tìm bạn đánh cờ. Tôi có thể chơi cờ suốt ngày đêm, nhưng bạn cờ của tôi không ai bỏ công ra chiều tôi. Các con cờ luôn luôn nhảy nhót trong ý nghĩ sau những cuộc ngồi lỳ giết thời gian ấy. Tôi tìm sách đọc. Nhưng chỉ đọc được một lúc, các con cờ và hình ảnh người vợ cũ cứ xen kẽ nhau hiện lên, và tôi không còn biết tôi đang đọc gì. Có phải tôi bị tâm thần không? Không! Tôi rất tỉnh táo, ngay cả khi các quân cờ lâm vào thế bí. Ngay cả khi đạp xe trên đường mà không biết cái đích mình phải đi đâu về đâu. Ngay cả khi đang đọc sách, những ý nghĩ cứ xuyên qua, tách rời các con chữ. Tôi nhìn thấy quân xe của tôi đang dìu quân tốt sang sông, rồi bỗng dưng đôi mã giao chân của đối phương chớp nhoáng nhào xuống, khiến ông tướng của tôi phải chệch sang bên. Và thế là cả xe và tốt đều mắc bẫy. Tôi cố gắng lập lại trật tự cho thế cờ. Khuôn mặt cô ấy lại hiện lên nhìn tôi giận dữ.

Cái hôn của cô Hạnh khiến anh Gù ngạt thở cùng với cái hôn của cô ta với tay Bí thư chi bộ, đang dìu dắt cô ta vào Đảng! Họ hôn nhau ở dưới bếp trong khi tôi đang sửa cái pê đan xe đạp cho cô ta trước hiên nhà. Cô Hạnh không coi hôn là biểu hiện của tình yêu. Anh Gù coi cái hôn là tất cả những gì tuyệt diệu nhất mà con người sáng tạo ra. Ôi, những cái hôn. Có những cái hôn làm nên vẻ đẹp không gì sánh được của bản tính con người. Lại có những cái hôn xé nát tất cả. Anh Gù vô tình kể chuyện ấy với ông tiến sĩ và tôi cũng vô tình nghe được. Tôi biết anh đang buồn, nhưng là cái buồn đầy hạnh phúc. Còn tôi, tôi như bị một cái roi bất ngờ quật vào mặt.

Cô ấy đã khóc khi tôi nói rằng tôi đã nhìn thấy họ hôn nhau. Chúng tôi cùng ký vào đơn ly dị một cách miễn cưỡng, nhưng lại rất quả quyết. Tôi xách va ly ra khỏi căn nhà mới được phân với một tâm trạng trống không. Tôi vừa ngồi lên xích lô thì cô ấy chặn lại: "Anh quay về, tôi cần nói một câu thôi." - "Thế thì nói đi, việc gì phải quay về?". Cô ấy đưa cho ông già xích lô tờ năm trăm và bảo ông thông cảm đi tìm khách khác. Tôi lẳng lặng xách va ly vào nhà. "Tôi yêu cầu anh ở lại nhà khoảng một tháng nữa!", cô ta nói lạnh lùng. "Để làm gì?" - "Tôi không muốn chuyện này vỡ lở...". Tôi biết cô ta không muốn chuyện ly hôn diễn ra trước ngày xét kết nạp. Và tôi đồng ý. Nhưng bữa cơm chỉ có tiếng khua bát đũa và tiếng nhai, những buổi tối xem truyền hình không có lời bình và những đêm dài hai cái xác nằm bên nhau diễn ra không phải một tháng, mà là hai. Cái tháng thứ hai trì hoãn ấy là vì cô ta đang làm thủ tục đi nghiên cứu sinh. Và tôi cũng đồng ý.

Thực ra cuộc ly hôn của chúng tôi không phải chỉ vì cái hôn vội vàng của họ. Nó chỉ là cái cớ để cả hai tự giải phóng. Nhiều lúc nghĩ lại, tôi cứ có cảm giác như màn kịch ấy chính cô ta là đạo diễn. Cô ta muốn chấm dứt cuộc hôn nhân nhạt nhẽo bằng cái hôn, và điểm "tháo nút" là ngày giấy báo gọi cô đi học. Tất cả đều suôn sẻ và gọn gàng. Cô ta được vào Đảng. Cô ta được đi học và mọi thủ tục ở tòa án, cô ta lo. Tôi chỉ việc nhận quyết định. Thêm nữa, tôi sững sờ khi cô ấy trao cho tôi năm chỉ vàng: "Tôi đã bán nhà, đây là phần của anh." - "Tôi đã đồng ý để nhà cho cô kia mà." - "Anh cũng cần phải sống" cô ấy nói. Tôi không hiểu vì sao lúc ấy tôi lại cầm. Con người ta có lúc hành động mà không tự biết mình đang làm gì. Cái nhà có được, chính là do công lao chạy chọt của cô ta. Tuy nhiên, nếu không có cuộc hôn nhân thì cũng chẳng bao giờ có nhà cả. Và tôi yên tâm với lập luận ấy.

Tôi cứ tưởng cô ấy sẽ nhanh quên tôi. Nhưng sau khi đã tới Xôphia, cô có gửi cho tôi một lá thư ngắn. Thực tình là tôi có bị bất ngờ. Tôi không muốn đọc. Tôi đã vò lá thư ấy ném vào sọt rác, nhưng cuối cùng vẫn không cưỡng được trí tò mò, và tôi lượm lên, đọc: "Anh Bình! Tôi không hiểu vì sao hồi ấy chúng la lại lấy nhau. Càng ngày tôi càng cảm thấy hình như có một lực lượng thần bí sắp xếp cho từng số phận con người. Cũng may là chúng ta sớm tỉnh táo nên không vội có con. Và cuộc chia tay cũng không đến nỗi thiếu văn hóa. Tôi biết anh là người rất tốt. Và tôi cũng tin, anh không nghĩ xấu về tôi. Những người tốt không phải vì thế mà sống được với nhau. Tôi tin rằng anh sẽ gặp được người bạn đời xứng đáng. Không hiểu anh có buồn không. Còn tôi, tôi chả thấy lúc nào được vui cả. Chán lắm. Nếu anh có khó khăn gì (về vật chất) cứ viết thư cho tôi, tôi có thể giúp đỡ. Dù sao tôi cũng có lỗi nhiều hơn và tôi rất biết ơn anh. Chúc may mắn. Chào anh."

Tôi nằm dài thượt trên giường suy nghĩ về cô ấy. Có lẽ từ ngày lấy nhau đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi bình tĩnh nhìn nhận lại cuộc hôn nhân vội vã của mình. Tôi được tòa báo phân công tới Viện khoa học, viết bài về cô, một phó tiến sĩ trẻ nhất của ngành, lại là nữ. Chúng tôi gặp nhau ở văn phòng viện và sau đó là tiệm cà phê "Cây Cọ". Trong những cuộc tiếp xúc, cô nói là chính. Tôi cố gắng tập trung tư tưởng lắng nghe, ghi nhận về công trình cô làm chủ nhiệm. Đây là một cô gái thông minh nhất mà tôi được gặp, hồi ấy tôi nghĩ thế. Cô cầm cái thìa cà phê, gõ nhịp cho câu chuyện của mình. Đôi mắt kính cận to trên khuôn mặt hơi dài nhưng rất sáng và linh hoạt. Cô không cố tình làm dáng cho cái vẻ trí thức của mình. Tôi có cảm giác, mọi động tác và lời nói của cô đều rất tự nhiên và thoải mái. Cô nói tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga khi buộc phải nói tới trong các chi tiết của công trình. Và tôi cảm thấy mình nhỏ bé trước con người này.

Cô kém tôi một tuổi, nhưng hiểu biết thì không biết gấp tôi đến mấy lần. Lần đầu tiên trong nghề làm báo, tôi chăm chỉ đi "lấy tài liệu" nhất, nhưng cũng là lần đầu tiên tôi không viết được bài. Tôi bị choáng ngợp trước đối tượng và tôi không xác minh được sự choáng ngợp ấy là vì tôi quá coi trọng bài báo hay coi trọng bản thân công trình mà người làm ra nó quá thông minh sắc sảo. Thực ra tôi có viết, nhưng không đưa in. Tôi đưa cho cô đọc và cô nhận xét: "Anh không phải là nhà báo". Cô không hề có ý hạ thấp tôi, ngay cả khi tôi chìa cho cô xem cái thẻ phóng viên của mình. Cô cười và giải thích cho tôi rằng, theo quan niệm của cô, mảnh bằng và cái thẻ không có ý nghĩa gì trong việc đánh giá tài năng và nhân cách. Tôi im lặng. Cô khẽ khàng đặt bàn tay nhỏ nhắn của mình vào bàn tay tôi và nói: "Anh đã chọn sai nghề. Chỉ cần đọc một đoạn trong bài của anh, người ta có thể tin rằng, nếu anh đi sâu tìm hiểu vào văn học nghệ thuật, có thể anh sẽ trở thành nhà văn không đến nỗi tồi". Tôi cảm thấy như mình được nâng lên và tôi bối rối thực sự. Sau này tôi mới nhận ra, cô nói như vậy cốt chữa lại câu nhận xét quá đáng.

Chúng tôi yêu nhau từ cái hôm hai bàn tay đặt vào nhau ấy, và hôn lễ cũng được tổ chức nhẹ nhàng. Ngay từ cái đêm gọi là tân hôn, câu đầu tiên cô đã đề nghị, chúng ta là trí thức, việc sinh đẻ không thể "vô nguyên tắc được". Tôi đồng ý. Thế là tôi có vợ. Dần dà tôi nhận ra cô ấy chưa hề được chuẩn bị để làm vợ bao giờ. Và chúng tôi làm bất cứ việc gì cũng phải thỏa thuận với nhau trước. Đề đảm bảo cho công trình của cô không bị cản trở, tôi nhận công việc đi chợ và cơm nước, thậm chí cả giặt giũ. Cũng phải nói thêm rằng, cô là con út của một gia đình trí thức có tên tuổi. Và hiện nay cô là niềm hy vọng thiêng liêng của cả nhà. Tôi không thể làm nội trợ cho cô ở trong căn phòng của ngôi biệt thự xinh đẹp ấy, mặc dù cả nhà đều rất quý tôi. Cô nhận ra điều đó và nói rằng nay mai chúng tôi sẽ được phân một căn hộ riêng ở khu nhà sắp xây xong của bộ. Cái ngày nhận nhà mới đến với tôi nhanh ngoài sức tưởng tượng.

Công việc của cô ngày càng bận và cô ít khi ở nhà. Giá như có phép màu nào biến tôi thành đàn bà và cô thành đàn ông thì chúng tôi sung sướng biết bao! Nhưng hôn nhân và gia đình không làm được việc ấy. Nó chỉ tạo nên điều kiện để mỗi người tự biểu hiện khả năng giới tính của mình. Tôi không cổ hủ tới mức coi công việc nội trợ là chỉ có đàn bà mới làm được, nhưng tôi cũng không mới mẻ tới mức, tự biến mình thành ra người nội trợ. Chúng tôi không đủ sức thuê người giúp việc, bởi lương chúng tôi còn không đủ trang trải cho hai người. Chúng tôi sống được là nhờ sự trợ giúp của gia đình cô. Thực ra vợ tôi không phải là người không biết điều. Đôi khi cô cũng giành thời gian chăm sóc tôi vào những ngày lễ hiếm hoi hoặc chủ nhật. Cô kể cho tôi về tiến trình công việc và đôi lúc cô nói đùa với tôi về cái thẻ Đảng. Rằng nếu cô cũng có cái thẻ ấy, hẳn công việc của cô không bị cản trở. Rằng nếu như anh có thể cho em cái thẻ của anh, thì đỡ mệt biết bao!

Và cuối cùng vợ tôi cũng vào Đảng...

Giờ đây chúng tôi đã trở thành ra hai ngả. Tôi biết cô ấy sẽ thành công trong công tác. Cô sẽ bảo vệ luận án tiến sĩ ngay trên công trình của mình. Cô sẽ tới cái đích mà cô mong muốn. Không biết rồi đây cô có còn đặt ra cho mình một cái đích khác, cao hơn nữa hay không...

Cuộc ly hôn của chúng tôi có gây nên chút ít dư luận vì nó diễn ra nhanh chóng và bất ngờ. Chúng tôi còn tới quán "Cây Cọ" lần cuối, tuy cả hai đều chỉ ngồi nghe nhạc, tịnh không ai nói câu nào: Đó là lần uống cà phê kỳ lạ nhất đời tôi. Nó vừa rất thật, lại cũng mang theo trong đó sự giả dối.

Thế rồi một hôm tình cờ tôi tới quán anh Gù. Tôi không nhớ hôm ấy tôi đi đâu về và cũng không nhớ tôi ngồi tựa gốc bàng để làm gì. Tôi có nhu cầu ngồi và ngắm nhìn người ta qua lại. Tôi sững sờ nhận ra người chủ quán đẹp là thế mà lại phải di chuyển trên cái ghế. Tôi tự cho phép mình ngồi lâu hơn và từ đó, ngày nào ít nhất tôi cũng tới quán anh một lần. Tôi vốn không phải người tò mò muốn biết chuyện mua bán, đổi chác của đám khách lam lũ của anh Gù. Nhưng có một lần, tôi thấy anh Gù tỏ ra nóng tính khác thường với một tay khách đi xe máy. Hình như họ không thỏa thuận với nhau được về một món hàng nào đó. Người khách cưỡi lên xe "hẹn khi khác" và anh Gù văng ngay một câu rất tục. Tôi quay lại, anh Gù xòe bàn tay có vẻ giận dữ, nói: "Có ba chỉ mà đòi mua nhà. Cút mẹ nó đi cho rảnh!". Tôi hỏi anh: "Thế độ bao nhiêu thì mua được căn phòng nho nhỏ, xuềnh xoàng, anh?" - "Có một căn phòng chín mét, người ta đòi năm chỉ lại còn cò kè, chê không có chỗ để xe.", anh Gù vẫn nói về tay khách. "Tiền ít mà đòi nhà rộng, ngu bỏ mẹ."

Nghe anh Gù nói thế, tự dưng trong óc tôi lóe lên một ý định mà từ trước tới nay tôi không dám nghĩ đến. Đó là mua một căn phòng. Cuộc sống của tôi có thể sẽ xoay chuyển nếu đây là dịp may hiếm có. Tôi hỏi anh Gù: "Căn phòng ấy ở phố nào, anh?" - "Kia kìa", anh chỉ cho tôi và tôi lặng lẽ tới đó ngắm nghía. Chính vì cái sự thoi loi của căn phòng ấy mà nhiều người không ưa. Còn tôi, tôi lại thích. Nó không dính vào tường nhà ai, tôi có thể ngăn cái cạnh tiếp xúc phía sau ngôi nhà của dãy khác, thành ra cái bếp. Được! Thế này là hợp với tôi rồi. Tôi quay lại hỏi thêm về chủ của căn phòng, anh Gù bảo đó là của một ông già mới chết, nhưng chết ở bệnh viện. Nhà ông ta có căn mười tám mét và căn phòng chín mét ấy. Thằng con lớn của ông ta chuyên đánh quả chợ Giời, mới phất nên bán cái phòng chín mét gửi tiết kiệm cho thằng út bị tật có tiền ăn hàng tháng.

Tôi trình bày hoàn cảnh và chìa cái thẻ nhà báo. Anh Gù nhìn tôi rồi nói rất nhanh: "Nhà báo ở đây thế nào được, ồn bỏ mẹ." - "Được", tôi nói: "Vấn đề là liệu có vui vẻ an toàn không?". Anh Gù cười: "Người ta ăn thịt ông à?" - "Nghe nói xóm này dữ lắm", tôi nói. "Dữ với người dữ", anh Gù cười. "Nếu chú mua, anh lấy danh dự bảo lãnh cho".

Tôi bắt tay anh và hứa ngày mai sẽ "làm việc". Thấy anh Gù nhăn trán, tôi đứng dậy, nói: "Nếu có thể được, ngay bây giờ". Anh Gù nhìn tôi: "Máu thế?" - "Máu!". "Máu thì về lấy đỏ đi, rồi lại đây làm việc."

Tôi vội vã đạp xe về cơ quan, lấy năm chỉ vàng rồi lại hộc tốc đạp xe tới quán anh Gù. Tôi thấy có ba thanh niên mặt rất dữ ngồi uống rượu suông, đã chột dạ. Anh Gù vẫy lại khi thấy tôi có vẻ nghi ngại: "Chiến hữu nhà báo, lại đây!" Tôi trấn tĩnh đưa xe vào gốc bàng rồi ngồi xuống cạnh anh. Anh giới thiệu tôi với ba người khách, rồi nói: "Chú có thể tự lo các thủ tục được không?" -"Gồm những khoản gì, anh?" - "Hộ khẩu chẳng hạn". Tôi lưỡng lự. Anh Gù hỏi: "Hộ khẩu chú ở đâu?" - "Ở cơ quan.". "Thôi được, hai bên làm giấy tờ mua bán đi, rồi mai tôi cho quân lên quận đóng dấu".

Chính sự thật thà, cả tin và dứt khoát của tôi đã chiếm được tình cảm của anh Gù. Tôi chỉ việc đưa cho anh năm chỉ vàng và sau đó là đến ở.

Mãi tới sau này thân nhau rồi, anh Gù mới cho tôi biết, thực ra căn phòng người ta bán bốn chỉ rưỡi. Anh nhận công chỉ trỏ nửa chỉ. Nhưng vì thấy tôi thật thà nên nửa chỉ ấy, anh chi cho đàn em lo giấy tờ, thủ tục.

Tôi cũng không biết vì sao lúc ấy tôi lại lao vào việc mua bán một cách mù mịt như vậy. Té ra sự mù mịt không phải lúc nào cũng dẫn người ta đến chỗ đen tối.

Và thế là tôi trở thành thành viên của cộng đồng ngõ Lỗ Thủng, dưới sự chỉ huy của bà Còng và núp dưới bóng bảo lãnh thân thiện của Gù.

Tôi cho rằng tôi gặp may.