CHƯƠNG HAI
Sáng ngày 30, tháng 4 năm 1975, ông TổngThống tướng lãnh Dương Văn Minh lên đài kêu gọi đầu hàng! Cả nhà ôm nhau khóc! Thể Hà như cái xác, nàng điếng hồn, vì bóng dáng chồng vẫn biền biệt chưa về!
Đêm 30 tháng 4 năm 1975 là đêm kinh hoàng nhứt trong cuộc đời của Thể Hà! Cả thành phố Vũng Tàu yên lặng, cái yên lặng lạnh người, cái lạnh mà Tử Thần dẫn ma quỉ, đi khắp hang cùng ngõ hẻm, để kê lưỡi hái vào cổ cho bất cứ ai. Tiếng chó tru ở xóm xa, tiếng chó sủa dồn dập ở ngoài ngõ, ở đầu phố dội thốn vào tim nàng.
Trong lòng bất an, ngoại cảnh hãi hùng, làm Thể Hà muốn điên lên được. Nàng ngồi không yên, đứng không vững. Thân thể nàng yếu đuối quờ quạng như muốn ngã quỵ.
Tiếng sóng biển bủa vào bờ đá dưới bãi ầm ầm. Gió thổi ào ạt căm hờn, gào thét rung chuyển cây cành. Tiếng sấm nổ long trời, lỡ đất. Những tia chớp sáng, mạnh, nhanh, sắc bén, cắt xé màn đêm! Mưa nặng hột tuôn xối xả như trút nước. Thể Hà cảm thấy tâm hồn mình hụt hẩng, như đánh mất một cái gì to lớn lắm! Nàng nhìn mưa mà nghe môi mình thấm mặn. Mưa có làm dịu mát lòng người? Mưa có gội rửa những vết thương đau? Mưa có làm phai nhòa nỗi thống khổ tả tơi tột cùng của đất nước, của dân tộc nàng không?
Ngày mùng một, mùng hai, rồi mùng ba, tháng năm đen tối… Thể Hà mỏi mòn chờ đợi hình bóng chồng, nàng như ngồi trên bàn chông, như ngồi trên đống lửa. Nàng khóc sưng vù cặp mắt, lo sợ là chồng mình chắc chết trong lúc khắp nơi rối loạn, lúc người người hối hả tháo chạy như ở Đại Lộ Kinh Hoàng của Mùa Hè Đỏ Lửa năm nào.
Tháng Tư Đen! Đổi đời, đời đổi, ông lao công của trường trung học lên làm hiệu trưởng, bởi ông ta là Việt cộng nằm vùng đã có năm, mười tuổi đảng. Ông đi chôn xác ở bịnh viện lên làm bịnh viện trưởng. Còn nhiều sự việc “Những điều nghe thấy mà đau đớn lòng” hoặc phải “Khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt“. Chuyện khó tin, nhưng ở xứ Cộng sản thì vẫn là có thật.
Mụ Sáu Lé có căn chòi ở gốc cây đa gần miễu Thổ Thần cuối Xóm Chài, sống nhờ vào hương khói của thập phương dâng hương hoa cúng miễu. Không ai biết mụ ta người ở đâu đến. Nhưng chắc chắn năm đó, sổ sách của bệnh viện Thị Xã còn ghi rõ mụ nằm nhà thương để vá cái miệng lại, vì bị vợ lớn người ta dùng dao ăn trầu bén ngót, rọc hai bên mép miệng của mụ. Cho dù bác sĩ tận tâm khâu, may, vá thẩm mỹ cho người đàn bà xấu số nầy, nhưng cũng chỉ lành lặn trở lại chừng 70% thôi. Đi ra đường, lúc nào mụ cũng lấy khăn che cái miệng. Nếu ban đêm đường vắng, ai mà gặp mụ đi ngược chiều hả miệng cười thì kẻ ấy sẽ bị hồn phi phách tán ngay. Sáng ngày giặc vào, mụ ăn mặc tươm tất, trên tay mang miếng vải màu xanh đỏ. Mụ vớ đâu ngoài bãi biển chiếc xe Honda của mấy người ra đi bỏ lại, chạy ào ào, coi trời đất chẳng bằng hột tiêu, vì ai gặp mụ cũng tránh hoặc cúi đầu chào khúm núm. Ở xóm, kẻ nào trước kia không ưa mụ ra mặt thì run eng phát rét, trở giọng ngọt ngào gọi mụ bằng chị Sáu hay cô Sáu Diên (Duyên là tên của mụ) mà trước ngày giặc vào, trong xóm ai cùng gọi mụ là con mẹ Sáu Lé hoặc con mẹ Sáu Sư Tử (bởi cái miệng bị rọc rộng lớn ra giống hệt như miệng con sư tử).
Một hôm mụ Sáu Lé ghé lại biệt thự Xuân Hà. Bà Châu mau lẹ đẩy con dâu mình vào trong lánh mặt, để cho hai bà già tiếp mụ. Thấy cái gì trong nhà mụ cũng muốn, cũng xin. Và chưa có sự đồng ý của chủ nhân, thì mụ đã lấy bỏ vào giỏ rồi. Má chồng và cô Hai của Thể Hà tức lắm, nhưng vẫn nín thinh chịu trận, nhịn nhục. Sau lần đó, đồ tốt trưng bày trong nhà hai bà đem giấu hết. Cô Hai nàng chửi bới rủa sả lầm bầm:
– Thiệt tình, “Thời suy quỉ lộng. Vách sập bìm bìm leo”. Đồ cái thứ không ra gì, cái thứ đàn bà hư, cái thứ thúi tha lầy lụa, cái thứ trôi sông lạc chợ, cái thứ ôn dịch, cái thứ…
Bà Châu cười buồn:
– Thôi kệ đi chị ơi. “Lấy của che thân” mà. Cái ngữ như vậy không có thiện chung lâu dài đâu.
Trong khi hai bà tiếc của cằn nhằn, thì Thể Hà bồn chồn thắt thẻo, vì bao nhiêu ngày qua rồi, mà không có một chút tin tức nào của chồng cả. Cứ mỗi lần nàng muốn đi tìm chồng thì hai bà quyết liệt cản ngăn. Lòng nàng đã quyết định, lần cuối nầy nàng cứng rắn thưa với hai bà:
– Thưa má và cô Hai, hôm nay anh Nhựt không về thì sáng mai con vào Sài Gòn một chuyến. Con có hỏi người ta rồi, đường xe có khúc chạy được, còn khúc nào không chạy được thì mình theo những người đồng hành đi bộ một đổi qua khỏi khoảng lộ bị đứt đó rồi đi xe lam. Má và cô Hai không cho con cũng phải đi, nếu kéo dài nữa con sẽ phát điên!
Nói đến đây nàng bật khóc ồ lên. Hai bà hiểu ý, tuy trên mặt họ lộ vẻ lo lắng, nhưng cả hai gật đầu ưng thuận để cho nàng đi.
Sau buổi cơm chiều, Thể Hà đưa các con lên lầu chơi, và xếp đống quần áo mà cô Hai vừa lấy ngoài sào vô. Xếp xong, nàng chất quần áo của ai vào túi xách của người ấy. Từ cả mấy tháng nay, quần áo của mọi người không để trong ngăn tủ như xưa nữa, mà chỉ đựng trong túi xách, khi có chuyện gì thì xách đi cho lẹ. Bởi giặc giã mà!
Nàng cầm chiếc áo của Thái Dương nơi nút áo bị lỏng chỉ, nút còn dính tòn teng để sang một bên, nàng sẽ nhờ má chồng hay cô Hai kết lại cho cháu.
Thể Hà chưng hửng, đánh rơi chiếc áo đang cầm trên tay, mắt mở to, nghẹn ngào không nói được! Chồng nàng bằng xương bằng thịt đứng đó! Chàng bất động rưng rưng nhìn vợ. Mấy đứa con chạy nhào tới, mừng rỡ tíu tít ôm đầu, ôm chân, ôm tay ba hỏi đồ chơi, hỏi bánh kẹo… Chúng tưởng như trước kia, mỗi lần Đông Nhựt đi đâu vắng nhà mấv hôm trở về, lúc nào chàng cũng mua nhiều quà bánh cho các con.
Chỉ hơn nửa tháng vợ chồng xa cách, nàng thấy chàng ốm tong teo, hốc hác, râu ria lổm chổm như tên ăn trộm hay tên ghiền ma túy trong những vở thoại kịch được trình chiếu trên truyền hình dạo trước. Má chồng nàng dắt mấy đứa cháu nội đi dỗ cho chúng ngủ sau một hồi tíu tít hỏi chuyện, đùa giỡn vói ba chúng.
Cô Hai nấu cơm và hâm nóng lại thức ăn. Còn nàng thì đi tìm cái dao cạo râu, và lấy khăn, áo quần cho chồng đi tắm.
Mấy đứa nhỏ đã ngủ. Vì sợ gia đình buồn lo, Đông Nhựt cố tình giấu mẹ, giấu vợ những chuyện đã xảy ra cho hãng xưởng và việc làm ăn của nhà, sau khi giặc phương Bắc tràn vào chiếm miền Nam. Nhưng nét mặt đăm chiêu hốc hác, nếp nhăn trên trán nhứt là đôi mắt buồn ứa lệ của chàng đã nói hết, không sao giấu được những người lớn trong nhà.
Thể Hà xót xa thương chồng vô cùng. Nàng còn nhớ rõ ràng những lời hứa hẹn giữa chàng và nàng trước ngày hai người kết hôn: “Đã chấp nhận đi đến hôn nhân, thì trên cõi đời nầy vợ chồng nàng phải chung vai sánh bước chia xẻ ngọt bùi, trong lúc vui cũng như lúc phiền muộn, lúc nguy hiểm hoặc lúc an bình, tất cả mọi thứ là của nhau, là một, phải chung sức, chung lòng vượt qua tất cả chướng ngại”.
Đông Nhựt yên lặng ngồi ăn cơm. Bà Châu, bà Hân và Thể Hà ngồi quanh. Họ đang muốn nghe, và chờ đợi được nghe chàng nói về những sự việc xảy ra và tình trạng nhà cửa ở Sài Gòn… Nhưng họ vẫn yên lặng, không ai dám mở miệng hỏi trước. Đông Nhựt nghĩ rằng không thể nào giấu họ được, nhứt là Thể Hà, vợ chàng, người vợ đảm đang thương yêu chồng rất mực. Thuở nhỏ, nàng là một người con gái sống yên bình trong gia đình nề nếp được thương yêu, chiều chuộng như một tiểu thơ. Ra đời đi làm, nàng là một công chức hiền lành, nhã nhặn. Sau khi kết hôn, nàng làm mẹ, rồi phụ chồng chăm lo quán xuyến công việc làm ăn của chồng. Ngoại cảnh, sự giao tế, môi trường làm ăn chung quanh hàng ngày, tạo ra một Thể Hà hoạt bát, khôn ngoan, bặt thiệp trong ngoài về mọi việc và các mối làm ăn của chồng. Nàng có tài điều khiển các công việc trôi chảy dù có gút mắt khó khăn. Cách xử sự công việc của nàng hết sức tế nhị, có tình có nghĩa với những đại lý ở các tỉnh nên hãng xưởng của chàng rất có uy tín. Nàng không nệ hà công việc và tận tình giúp đỡ nhân viên khi họ cần, cho nên vợ chàng được sự quý mến của hầu hết các nhân viên trong hãng. Nhờ thế mà hãng Đông Nhựt càng ngày càng thêm nhiều chi nhánh, cơ nghiệp làm ăn của chàng ngày càng phát đạt hơn lên.
Những đại lý ở tỉnh cứ ba tháng về họp một lần, nàng rất chu đáo tiếp đãi họ, cho đặt chỗ ăn ở, đưa rước hết sức cẩn thận đàng hoàng, mà trước kia Đông Nhựt không bao giờ để ý đến. Dần dà, mỗi lần về họp, họ mua cho quà từ các địa phương đem lên tặng. Và nàng trả lễ lại họ bằng những hộp bánh, những gói trà hảo hạng, những chai rượu quý nhập cảng từ nước ngoài.
Thể Hà thường nói với chồng:
– “Người ta ăn thì còn, mình ăn thì hết. Bánh sáp đi, bánh qui lại”. Buôn bán chung với nhau, họ lời thì mình cùng được lời. Nếu không có họ làm ăn sốt sắng thì mình có được như bây giờ đâu. Thêm một người bạn, đường sẽ rộng thênh thang và cuộc đời sẽ thêm tươi trẻ… Anh thấy em nói có đúng không?
Đông Nhựt muốn trêu vợ. Chàng bặm môi, nhíu đôi mày ra vẻ suy nghĩ, miệng cười cười, lắc nhẹ đầu trả lời:
– Ờ há, em nói nghe cũng không tệ lắm, nhưng em nghĩ coi anh có dám trả lời với em là em nói không phải hay em nói sai không?
Đông Nhựt yêu quý vợ vô cùng. Lúc nhạc phụ chàng còn sanh tiền, vợ chàng quấn quít sống êm ấm bao bọc bởi tình thương gia đình. Thuở đó nàng không biết gì về việc ngoài đời bon chen, tàn ác… Khi cưới nàng, đôi lúc chàng e ngại tự hỏi: không biết vợ mình có thích hợp với hoàn cảnh của mình không? Nhưng Đông Nhựt không ngờ nàng là người phụ nữ kiên cường, thức thời và dễ hòa hợp được với mọi hoàn cảnh.