← Quay lại trang sách

CHƯƠNG SÁU

Thời tiết ở vùng hải đảo khác với miền đồng bằng nhứt là miền Nam của chúng ta. Mưa gió ở đây rất bất thường. Ngày nắng cháy da, nóng nực không chịu được. Nhờ có gió biển, nếu không thì chắc là người, súc vật, cỏ cây sẽ bị chết khô. Tối đến, có khi trời trong, trăng lên, biển lặng, rộng lớn xa ngút ngàn. Có khi sương mù dầy đặc. Có khi biển động, giông gió ầm ầm, sấm sét nổ ran, tưởng chừng như trời long đất lở sắp sập xuống đè bẹp hết thế gian nầy.

Thể Hà và hai con là Thể Dao, Thể Quỳnh mang bịnh ho sù sụ. Chỉ có bà Châu cùng hai cha con Đông Nhựt và Thái Dương tuy gầy vì thiếu ăn, nhưng vẫn còn khỏe hơn nàng và hai cô con gái nhỏ. Tội nghiệp bà Châu, dù có khỏe mạnh hơn những người trang lứa, nhưng bà cùng có tuổi rồi, lại thiếu thốn về mặc dinh dưỡng mà hầu hết những thuyền nhân không đem theo được vàng và đô-la, thì không sao tránh khỏi.

Bà Châu hết sức vất vả từ suốt thời gian gia đình bôn đào. Lúc còn son trẻ, bà lận đận về chuyện chồng chết, xa con, phải đi ở vú và chăm sóc việc nhà cho người ta. Vật đổi sao dời, hai mười mấy năm sau, cô tiểu thơ bà làm vú nuôi đó trở thành con dâu của bà. Bà thương yêu cô ta không thua gì con ruột của mình. Giờ cô còn sanh cho bà ba đứa cháu nội kháu khỉnh để bà thương yêu chiều chuộng. Các cháu là niềm vui, là niềm hạnh phúc lớn của đời bà. Tình yêu thương đó, là nguồn sống đã làm cho bà vui vẻ, trẻ trung. Nó chính là nguồn hạnh phúc vô bến bờ tràn ngập tâm hồn, đã làm bà không bao giờ nghĩ đến tuổi đời mình chồng chất, sẽ đưa bà xa dần thế gian nầy.

Đêm nào cùng như đêm nấy, bà ngồi quạt các cháu nội ngủ, canh đống un luôn âm ỉ cháy để khói nghi ngút tỏa, cho muỗi không đến gần cắn chích các cháu. Bà luôn đút ép chúng ăn từng muỗng cháo, muỗng cơm. Bà chịu khó nấu nước sôi thật lâu cho cả gia đình uống. Bà cũng không quên để ý, và dặn dò các cháu không được uống nước bên ngoài, sợ họ nấu không kỹ lưỡng nếu không bị bịnh cũng sẽ nhiễm bịnh.

Có một hôm ông Cao, chủ tàu tìm đến gia đình Thể Hà trong chiếc chòi Đông Nhựt che kế vách núi đá, bên cạnh bờ suối nhỏ cho gia đình tá túc. Mái chòi lợp bằng mấy tấm vải nhựa dầy, mà má chồng nàng lấy bộ đồ tây của chàng đem đổi với dân bản xứ. Vách bằng những tàu lá chặt lên từ đám dừa nước mọc rậm rì, dầy đặc ngoài mé biển. Những tấm lá chầm khéo léo do nàng và bà Châu chế biến. Họ chầm được lá là nhờ bà hàng xóm tốt bụng dạy. Chỉ chầm có mấy tấm lá dừa nước đủ để vừng vách thôi mà chân tay nàng bị trầy, bị đứt không biết mấy đường. Bà Châu dùng thuốc đỏ mượn của chị hàng xóm xức cho con dâu mà miệng bà vừa thổi vừa xuýt xoa cho nàng đỡ rát đỡ đau.

Nghe tiếng cười chào những người trên đường và thấy ông chủ tàu đến, Thể Hà nghi là ông đến để nhắc chuyện giao kèo miệng, không giấy chứng giữa ông và vợ chồng nàng trước khi đi. Đông Nhựt đang đứng bên ngoài với vợ, chàng khom lưng định bước vào nhưng nghe giọng nói của ông chủ Cao, chàng quay lại vui vẻ chào mời ông:

– Chào ông Cao, ông khỏe không? Mời ông vào uống tách nước.

Ông Cao miệng cười hiền lành, nói:

– Thôi, ngộ đứng ở ngoài nầy nói chuyện với nị được rồi.

Thấy Thể Hà đứng sau lung Đông Nhụt, ông chào và hỏi:

– Nị khỏe chớ? Bà già chồng nị và mấy đứa nhỏ cũng khỏe mạnh hả?

Nàng chào lại, cảm ơn ông. Đông Nhựt đứng lại nói chuyện với ông, chàng lên tiếng trước, nhắc ông:

– Cảm ơn ông đã giúp gia đình chúng tôi rời khỏi nước, mặc dù trên vấn đề tiền bạc chúng ta rất sòng phẳng với nhau. Nhưng dù sao chúng tôi cùng mang ơn ông. Chúng tôi vẫn nhớ lời đã hứa với ông trước khi đi. Vậy bây giờ ông muốn giấy tờ bảo lãnh ông qua Mỹ, hay ông muốn chúng tôi trả 9 lượng vàng còn thiếu trước khi đi cho ông?

Ông Cao cười hà hà:

– Hôm nay ngộ đi loanh quanh trên núi cho giãn gân cốt rồi về, khi qua ngang đây thấy nị, dừng lại muốn nói chuyện chơi chớ không phải có ý đến để đòi nợ.

Nghe hai người nói đến đây, Thể Hà lẩn vào trong chòi, để chồng nói chuyện trời mây mưa gió với ông Cao. Nàng cảm thấy nhẹ người. Mặc dù nợ thiếu người ta không đòi, nhưng nàng cũng cảm thấy ngại ngùng khó chịu lắm, trong lòng như luôn có một vật gì đè nặng, mỗi khi nhớ đến số nợ gia đình nàng còn thiếu ông chủ tàu.

Bà Châu và nàng dắt hai cô công chúa cùng cậu thái tử đi dạo biển chiều. Nàng càm ràm má chồng:

– Má cứ ẵm cháu hoài. Thái Dương, hãy xuống đi như chị Dao, chị Quỳnh. Con lớn rồi, đi đâu cùng bắt bà nội ẵm, không sợ mấy đứa nhỏ tuổi hơn con cười sao? Má hãy để cháu xuống đi, cháu càng lớn càng nặng như cục đá vậy, ẵm mỏi tay lắm má à.

Bà Châu hun cháu nội, cười hiền lành và nói đỡ cho cháu:

– Thái Dương đâu có đòi bồng, tại bà nội thương nên không cho đi vì sợ cháu té đó thôi.

Thể Dao và Thể Quỳnh cười hí hí, hát chọc ghẹo em: “Ê, ê, liu liu mắc cỡ, mắc cỡ! Cho Dương cục mỡ chà mặt chà mày để hết mắc cỡ ê, ê, ê…”.

Chiều hôm nay biển đẹp quá! Bầu trời cao trong thật là trong. Bên chân mây xa, nền trời có màu cam gợn hồng, màu tím loang vàng lộng lẫy. Pha trộn những màu sắc trên, nhẹ trải lên mặt nước biển óng ánh theo sóng nhấp nhô lăn tăn chạy vào bờ. Thể Hà ngồi trên bờ đá. Mẹ chồng nàng đang trông chừng mấy đứa nhỏ lượm vỏ óc, vỏ sò trên nền cát trắng.

Nàng nhìn chân trời xa thở dài, thương nhớ quê hương vô cùng. Nàng luôn nghĩ rằng con người đều có số kiếp mà Thượng Đế đã an bài. Việc gì đến sẽ đến không sao tránh khỏi. Có chăng là chính bản thân ta ăn ở hiền lành, không thâm độc gây hại người khác, không vì quyền lợi riêng tư mà hại tha nhân… Nên làm những điều lành, điều tốt thì may ra cái bất hạnh sắp đến của mình sẽ được hóa giải nhẹ hơn, như theo lời của Đức Phật đã dạy. Không biết thật sự có đúng không? Nhưng khi nàng làm một việc gì tốt, một việc gì lành, thì tâm hồn nàng thơ thới như vừa được tắm mát, và sinh lực vui sống dâng ngập lòng, làm nàng cảm thấy dễ chịu vô cùng. Như thế đó thì tại sao không làm lành, lánh dữ để lương tâm mình không bị đày vò, và người khác đỡ phải khổ?

Rồi dòng hồi tưởng chợt mãnh liệt quay về. Nàng nhớ quê ngoại, nơi chôn nhau cắt rún thuở thiếu thời, nhớ Cần Thơ thuở còn trung học, nhớ Mỹ Tho thành phố nhỏ bé hiền hòa nằm bên nhánh nhỏ của sông Cửu Long. Nhớ ngày nào Thái Vân và Thể Hà về thăm ba nàng, lúc đó ông còn ở Mỹ Tho. Đêm thanh gió mát, hai đứa đi dạo hàng quán về đêm trong thị xả, ăn uống đã đời, Thái Vân rủ Thể Hà xuống vườn hoa Lạc Hồng đi đò dọc trên sông. Thể Hà thích quá, cảm ơn bà chị hờ không ngớt:

– Thái Vân, mầy đổi tánh hồi nào vậy? Tao chưa bao giờ nghe mầy khen trăng trong gió mát hay mưa lành nắng đẹp miền Nam. Thi nhân văn sĩ tốn không biết bao nhiêu giấy mực để ca ngợi màu nắng thủy tinh, nắng lụa, nắng vàng, nắng hồng… Tao nhớ lúc nào mầy cũng đá giò lái nói là tao hay thương mây khóc gió, không thực tế, chỉ ham học theo lối lãng mạn, nghe nhạc rên rỉ, nghe giọng hát bi ai mất nước… Bây giờ có gì thay đổi ở mầy? Chắc gặp anh chàng nào có cặp mắt lừ đừ, ôm đờn ghi-ta khảy từng tưng trên gác trọ trong những đêm mưa buồn làm xuyến xao tâm hồn cô nàng có cái tên Thái Vân rồi chớ gì?

Thái Vân cười khanh khách:

– Tao chỉ muốn cho mầy vui thôi, vả lại tao cũng muốn ngồi nghỉ chân. Mầy nghĩ xem, nghỉ chân nơi đâu mà không bị mấy thằng cha dê xồm cà khịa lượn qua đảo lại buông lời dễ ghét? Bởi đó tao mới nghĩ ra cách xuống ngồi dưới đò, vừa mát mẻ vừa không bị ai quấy rầy. Mầy cũng được dịp thả hồn theo mây gió nữa.

Sông Mỹ Tho chiều ngang rộng và dài đến cửa Hàm Luông. Dòng sông ăn luôn qua các nhánh sông đi khắp mọi nơi ở Tiền Giang và qua Hậu Giang. Ông lái đò chèo nhanh, lách xa những xuồng bán chè bán cháo, xuồng bán bánh lọt tàu hủ, xuồng bán nước uống chèo dọc, bơi ngang rao hàng lanh lảnh trên sông. Phía đông, mặt trăng tròn chiếu ánh sáng trên nước nhấp nhô từng đợt sóng. Gió mát rượi. Bên cồn bần chạy dài lác đác những xuồng câu tôm le lói bóng đèn chong khi mờ, khi tỏ. Bầy chim về muộn lướt nhanh trên không trung, mờ dần, mờ dần rồi mất hút. Chỉ còn vẳng lại tiếng kêu trong đêm. Thể Hà đang đắm hồn mình trước ngoại cảnh êm đềm thi vị, trước cảnh trời trăng sóng nước, thì nhỏ Thái Vân chợt lên tiếng:

– Thôi về mầy ơi, đi thuyền trên sông tao tưởng đỡ hơn. Ai dè nghe chán thấy bà, tao chẳng thấy có chút gì vui cả. Chán muốn chết! Thôi về đi, tao không hiểu sao mà mầy thích đi thuyền trên sông vào mùa trăng sáng quá vậy?

Thể Hà chẳng trả lời. Thái Vân ôm hai vai mình, nhăn nhó kiếm cớ để về:

– Thể Hà à, mầy đừng ở đó lắng tâm hồn rớt nghe cái tỏn! Nhìn trời hiu quạnh mà thẩn thờ rồi bày đặt làm thơ viết văn ba xồn bốn xực không ai thèm đọc đâu, và đừng năn nỉ trả tiền công cho con Thái Vân nầy đọc nghen. Làm ơn đi về dùm tao đi. Gió lạnh làm tao muốn bị cảm đây nè.

Thể Hà nổi nóng:

– Mầy là con quỉ sống, lúc nào cũng vậy hết. Hồi chiều, ai rủ đi trước, rồi bây giờ mầy lại hối về như dậy giặc vậy? Mướn đò đi đến hai giờ, đi mới có bốn mươi lăm phút thì đòi về. Mầy có giỏi thì nhảy xuống lội về đi. Tao viết văn làm thơ thì mắc mớ gì tới mầy. Năn nỉ mầy đọc hả? Để tao nhúm lửa cho ông Táo thiêu ra tro nghe còn vui tai hơn.

Con nhỏ Thái Vân xuống giọng năn nỉ, dai như giẻ rách:

– Thì tao rủ trước chớ ai? Nhưng mầy biết tao không chịu lạnh lâu được mà. Mầy rờ xem tay tao lạnh nổi ốc rồi đây nè. Kinh nghiệm lần nầy, mai mốt đi thuyền tao sẽ mặc áo tay dài và sẽ đem áo lạnh theo.

Thể Hà vẫn còn giận, nạt vội:

– Thôi đi bà cố nội, còn có lần sau nữa hả? Tao sẽ không đi dạo thuyền với mầy lần nào nữa hết!

Thể Hà không quên háy bạn một cái bén ngót như dao cắt, nói với ông chèo đò:

– Bác ơi, làm ơn cho thuyền trở về bến đi bác.

Thể Hà thở dài chép miệng. Thời gian đi quá nhanh, mới đó mà đã bao nhiêu năm qua rồi!

o O o

Chiều nay, ông Cao chủ tàu đến ghé qua, ông vui vẻ bắt tay và cười nói với Đông Nhựt:

– Lâu quá không gặp nị ra quán cà-phê? Hôm nay ngộ đi ngang qua ghé thăm gia đình nị, và nhờ nị nói với bà chị, hay con em làm cho ngộ tờ giấy bảo lãnh cả gia đình ngộ. Chừng nào phái đoàn Mỹ phỏng vấn, nếu được Mỹ nhận gia đình ngộ thì ngộ có tờ bảo lãnh ngay không phải chờ đợi lâu. Như chúng mình đã thỏa thuận, ngộ đã hứa sẽ xín-xái, không lấy 9 lượng vàng nị còn thiếu đâu.

Vợ chồng Thể Hà cảm ơn ông Cao, và Đông Nliựt bảo ông về viết danh sách tên tuổi những người trong hộ khẩu của ông đưa cho chàng, để chàng gởi thư cho bà chị vợ và cô em nhờ các hội thiện nguyện bên Mỹ bảo lãnh gia đình ông Cao. Chàng biết ông Cao đang lo sợ bị kẹt lại, hoặc lâu lắm và không biết chừng nào mới được đến nước thứ ba, vì gia đình ông đông thật, trên dưới hơn 20 người, thằng con út của ông lại tàn tật, đã 18 tuổi rồi mà không đi và không nói được. Còn ba má ông thì cũng già yếu lắm.

Hai tháng sau, ông Cao nhận được một lúc hai tờ bảo trợ, một của vợ chồng Thái Vân nhờ hội USC, một của vợ chồng cô Xuân Hà nhờ hội Thánh Tin Lành bảo lãnh. Ông Cao vui mừng ra mặt và cảm ơn vợ chồng Đông Nhựt rối rít. Thật ra không chỉ mình ông vui thôi mà vợ chồng Đông Nhựt và má chàng cũng vui mừng lắm, vì được trả xong món nợ.

Tuần lễ sau, ông chủ tàu tốt bụng đem cho vợ chồng Thể Hà con cá mú lớn, nặng cỡ bốn ký (loại cá nầy mắc lắm, nó có nhiều thịt, ít xương lại hiền, ở đây những người có tiền mới mua ăn nổi, ở đảo hơn tám tháng rồi, gia đình nàng chưa được ăn qua). Ông Cao mua của thợ câu vừa câu được dưới biển. Ông còn xách một bọc nấm mèo, bún tàu, tàu hủ ky, mà ông đã nhờ dân địa phương người Tàu có dịp đi chợ tỉnh mua dùm hôm tuần trước. Ông ta bảo Đông Nhựt:

– Ngộ thấy nị và mấy đứa người nhà của nị ốm tong ốm teo, nên ngộ mua cho con cá mú nầy nấu cháo ám ăn bổ và nên thuốc lắm đó. Còn cái đầu của nó thì chưng với nấm và các thứ nầy cũng có vị thuốc, bổ dưỡng cho cơ thể.

Đông Nhựt cảm động, cảm ơn ông Cao rồi xách con cá vào. Lúc còn ở quê nhà, má chồng và cô Hai của Thể Hà ít khi mua cá biển. Gia đình họ ở vùng nước ngọt miền Nam, nên ăn cá đồng, cá sông quen rồi. Nhưng từ khi vượt biên đến đảo, hoàn cảnh tất cả các thuyền nhân gần giống nhau vừa đói, vừa khát, thiếu thốn mọi thứ thì họ không còn đường để lựa chọn nữa. Gặp giống gì ăn không bị trúng độc, thì họ cứ ăn hết. Ăn để có sức khỏe mà giữ cái mạng. Tử Thần đang hươi lưỡi hái bao quanh những người ốm đau, thiếu sức khỏe.

Ngày nào trên đảo cũng có thuyền nhân chết. Hai vợ chồng trẻ cùng tàu với nàng, trước kia họ là chủ một cơ sở làm ăn ở Chợ Lớn có hai đứa con gái sinh đôi rất đẹp. Chỉ trong vòng một tuần thôi hai đứa nhỏ bị bịnh chết hết. Tội nghiệp hai vợ chồng, họ như phát sảng, nhờ mấy người đi cùng tàu khuyên lơn, đưa lên chùa cầu an hằng đêm, mấy tháng sau mới nguôi ngoai.

Những ngày mưa dai dẳng không thấy mặt trời. Chiều nay, gió thổi vùn vụt làm nghiêng ngã cây cành. Mưa nặng hột ào ạt đổ xuống càng lúc càng mạnh hơn. Sóng biển vỗ vào bờ đá ầm ầm cả đêm. Biển động. Lúc mới đến đây, những người chủ tàu, những người đem theo được đô-la hoặc vàng, họ mua nhà sàn cất sát bờ biển có phần nhà gie ra ngoài bờ biển do những người dân bản xứ xây cất bán lại. Tuy nhà sơ sài, nhưng vẫn tốt, không bị gió tạt, mưa sa. Còn những người không có tiền thì tự che chòi ở xa biển, gần chân núi như gia đình Thể Hà.

Đêm rồi, đài truyền thanh địa phương có nói sóng thần hốt hết cả mấy chục căn nhà dân cư, sống gần bờ biển các đảo lân cận. Thuyền nhân ở xóm có tiền sát biển sợ quá, đùm túm lên che chòi ở rải rác xóm nhà nghèo gần chân núi. Bắt đầu từ lúc những nhà có tiền dọn lên đây, thì dân địa phương mới đến buôn bán gần xóm nhà nghèo của Thể Hà càng ngày càng nhiều. Họ bán cá, bán tôm vừa bắt được ở dưới biển lên còn nhảy soi sói. Họ còn bán bánh, bán chuối, bán dừa, bán mì, bán hủ tíu xào bản xứ nữa. Mì ở đây to sợi, xào với giá, với bắp cải, với cà, với tôm, hoặc cá. Mì được bỏ nhiều cà ri và trộn nhiều ớt cay phỏng lưỡi, xé miệng, vậy mà họ cũng bán được lắm, vì nơi nay không có gì để ăn, ngoài cá hộp, đậu hộp và gạo của Cao ủy Tỵ Nạn phát cho.

Người có tiền ăn hoài một thứ cũng ngán, vả lại người bán thì ít người mua thì nhiều. Còn những người không có tiền thì đành ôm bụng nhịn thèm, nhịn đói. Đôi khi các con của Thể Hà thấy mấy đứa nhỏ hàng xóm ăn bánh kẹo, làm chúng thèm thuồng lắm. Nàng dắt con đi chỗ khác, có lúc chúng khóc thì nàng vỗ về con:

– Ngoan, đừng khóc. Mẹ biết các con muốn ăn bánh kẹo lắm. Hãy cố nhịn, mai mốt qua Mỹ sẽ có nhiều bánh kẹo còn ngon hơn. Thể Dao lớn, con hãy làm gương cho hai em, dỗ em đi con…

Bà Châu, và vợ chồng Đông Nhựt, ba người lớn gần như thiếu ăn. Với phần gạo mà người đại diện tàu đi lãnh ở văn phòng Cao ủy Tỵ Nạn, đem về phát lại theo đầu người, ở từng hộ của gia đình. Chỉ ba đứa nhỏ được nhường cơm nên lúc nào chúng cũng được no bụng. Hằng ngày, ba đứa nhỏ được Đông Nhựt cõng đi lên suối tắm, rồi cõng về lều. Bà nội săn sóc kỹ lưỡng, nên đứa nào cũng sạch sẽ trơn tru, ai thấy cũng thương.

Chiều đó, ba đứa nhỏ ngồi chơi trên chiếc băng trước chòi, chờ bà nội nấu đồ ăn, giống như mấy con chó con chờ xương. Vợ chồng ông Tàu bán mì ế đi ngang qua, thấy ba đứa ngồi đó, ông bà cho mỗi đứa một gói mì. Thể Hà sợ mì nguội lạnh ăn vào dễ bị bịnh, nên đổ chung lại đem hâm nóng. Ba đứa ăn mì xào thật cay. Vậy mà chúng ăn cũng ngon lành như ăn bữa giỗ, không còn sợ cay, khóc la như thuở ngày xưa ở quê nhà.

Mấy hôm rày, Thể Hà thấy ba đứa con nàng chiều chiều đều ra ngồi ngoài chiếc băng cây thì thầm, nhỏ to. Có lúc đứa nầy càu nhàu đứa kia, mặt mày đứa nào đứa nấy chừ bự như cái bị chín quai. Nàng không biết chuyện gì, hỏi con:

– Ba đứa cãi lộn hả?

Thái Dương phụng phịu:

– Con giận!

Nàng trố mắt, hỏi:

– Con giận gì? Giận ai?

Thằng nhỏ ngó xuống:

– Tại sao mấy bữa rồi ông Trời không mưa?

Thể Hà càng ngạc nhiên quá đỗi, tự hỏi không biết tại sao thằng nầy muốn trời mưa? Nàng nhìn con gái lớn như dò hỏi. Con bé nhăn mặt, bặm môi không nói. Nàng nhìn đứa kế, thẳng giọng:

– Chuyện gì em con giận trời không mưa vậy, Thể Quỳnh?

Con bé hít hít mũi muốn khóc. Rồi không ai bảo, ba đứa nhỏ chạy lại ôm mẹ khóc lớn. Thể Hà chưng hửng, ôm hết các con vào đôi cánh tay của mình, lính quýnh, hỏi:

– Chuyện gì xảy ra? Phải nói cho mẹ biết. Thể Dao, con là chị lớn phải nói trước.

Con bé giọng chan hòa nước mắt:

– Tụi con muốn ông Trời mưa, để ông bà già Tàu bán mì ế đem lại cho tụi con…

Thể Hà siết chặt các con vào vòng tay mình, miệng cười mà dòng lệ nóng chảy dài xuống má!

Nửa đêm, sấm sét rầm rầm, mưa đổ ào ào. Thể Hà lật đật ngồi dậy đi hứng nước mưa, chồng nàng cũng theo sau phụ vợ xách nước đổ đầy vào mấy cái thùng nhựa, để mai khỏi đi xa tranh giành múc nước suối. Đối với mọi người sống trên hải đảo, nước mưa quý lắm! Nước mưa uống ngọt và sạch sẽ, không sợ lá cây rừng ngấm vào gây độc. Thường thì má chồng nàng canh trời mưa để hứng nước, có khi vợ chồng nàng ngủ quên thì bà hứng một mình. Đêm nay, bà không dậy, vợ chồng Thể Hà biết bà mệt mỏi nên ngủ say, hai người làm việc rón rén, không dám gây va chạm lớn tiếng sợ làm mất giấc ngủ của bà.

Hứng đầy mấy thùng, mấy thau nước mà mưa vẫn còn xối xả, nước trong ngần sủi bọt trắng xóa. Thể Hà vào lều trước, lau và chặm khô những đốm nước nhỏ văng trên quần áo. Nàng chui vô mùng, trìu mến nhìn các con mặt mày hồn nhiên trong giấc ngủ say. Nàng nhẹ kéo chiếc mền vá mấy lỗ đắp cho con. Đêm nay, trời mưa nên khí hậu mát mẻ. Chúng ngáy khò khò. Còn bà nội chúng cũng ngáy ồ ồ. Ánh sáng mờ nhạt của chiếc đèn dầu lửa treo trên vách được Đông Nhựt biến chế làm bằng lon Coca Cola, tim đèn bằng miếng giẻ rách của bà hàng xóm cho. Nhìn mẹ chồng mà nàng thương xót ngậm ngùi. Bà ngủ mê mà tay vẫn ôm cháu. Mặt bà hốc hác mệt nhọc, tóc bạc trắng. Mới bôn đào tới xứ người chưa đươc năm tháng mà bà già đi khoảng mười tuổi. Nhớ khi mới cưới nàng, trong nhà lúc nào cùng hai người giúp việc, bà luôn mặc bộ đồ lụa lèo trắng, đi đôi guốc vông quai trong cố hữu, và đôi tròng kiếng trắng nằm trong gọng vàng. Mới nhìn bà có vẻ như một công chức về hưu. Nỗi lo sợ tột cùng của chuyến bôn đào bằng đường biển thừa chết thiếu sống vừa qua làm bà Châu và vợ chồng nàng thiếu điều muốn mất trí. Cộng vào đó thêm thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, bịnh hoạn vì tuổi tác, làm cho bà tiều tụy thấy rõ. Nàng chép miệng xót xa, chắp đôi bàn tay trước ngực, thành khẩn lâm râm cầu nguyện Trời Phật phù hộ cho gia đình nàng được khỏe mạnh và đi đến nơi đến chốn dung thân.

Đông Nhựt vào ngồi sau lưng lúc nào, nàng không hay biết. Chàng kéo vợ nằm xuống, nói nhỏ chỉ để nàng nghe:

– Con đường tìm tự do nào mà không trả giá thật đắt! Em đừng buồn rầu nữa. So với những gia đình khác, gia đình mình quá có phước rồi. Em phải cố giữ gìn, để kết quả khám sức khỏe được tốt, nếu không đủ sức khỏe và rủi ro bị kẹt lại ở đây càng khổ thêm.

Thể Hà chưa nguôi cơn xót xa vùi đầu vào ngực chồng thổn thức. Bao nhiêu cảnh tan nát, ly tan mà dân trốn chạy Cộng sản Việt Nam phải bỏ nước ra đi. Người Việt Nam vượt biên giới bằng mọi cách. Họ đi bằng đường bộ băng qua núi cao, rừng thiêng nước độc ở biên giới Việt Miên, Lào. Đường bộ bị mìn, bẩy, thú rừng, bọn cường sơn lục lâm sát hại. Xương trắng chất chồng cao đỉnh núi.

Thuyền nhân thì bị hải tặc hoành hành, giết người cướp của, hãm hiếp… Máu thuyền nhân nhuộm đỏ Biển Đông. Còn những sự việc tan nát lòng từ bọn công an Việt cộng không từ một thủ đoạn nào. Chúng dùng mọi cách: lường gạt, tráo trở, cướp giựt của thuyền nhân trước khi thuyền nhổ neo ra khơi để vượt trùng dương nếu bị bọn chúng phát hiện. Chủ ghe đã chung tiền bến bãi, để bọn chúng làm ngơ cho trốn chạy. Nhưng bọn chúng còn tàn độc hơn sức tưởng tượng của mọi người, đã vơ vét tiền bạc của chủ tàu và thuyền nhân. Chúng vẫn chưa buông tha, còn dã man gọi đồng bọn của chúng chận ghe nạo vét thêm nhiều lần nữa, sau đó bắt lại luôn…

.