← Quay lại trang sách

CHƯƠNG NĂM

Trời không phụ kẻ có lòng. Đông Nhựt gặp lại ông Cao người Tàu. Ông ta là một thương gia lúc xưa làm ăn qua lại với chàng. Gia đình ông vẫn chưa đi được. Ông ra Vũng Tàu mua căn nhà nhỏ chỉ để che nắng che mưa cho gia đình tá túc ở Rạch Dừa. Ông chờ thời cơ sẽ đưa gia đình ra đi. Ông cho chàng biết đã mua được chiếc tàu buôn lớn, ngày xưa tàu nầy chuyên chở hàng hóa nhập cảng từ Tân Gia Ba, Thái Lan, và các nước lân cận Việt Nam. Ông cũng đã mua bến, mua bãi và mướn được tài công… Họ sẽ đi theo hệ đăng ký của người Việt gốc Hoa. Ông rủ chàng đi chung. Thật là Trời cao không phụ kẻ có lòng!

Đông Nhựt mừng quá, về nhà bàn lại với gia đình. Thế là phải tốn hai lượng vàng, nhờ người mối lái lo cho bọn công an phường khóm trong làng mạc xa xôi, làm giấy tờ gia đình chàng là người Tàu để qua mắt bọn công an kiểm soát bến bãi. Thể Hà gom góp tất cả vàng lá, nữ trang… Đó là vốn liếng cuối cùng còn lại của vợ chồng nàng, của cô Hai, của má chồng nàng cũng không đủ để Đông Nhựt đem chung cho chủ tàu. Bởi mỗi đầu người lớn phải trả cho ông Cao 8 lượng vàng, ba đứa nhỏ được ông bớt, chỉ lấy 5 lượng thôi. Tổng cộng gia đình nàng phải trả cho chủ tàu là 37 lượng. Trong khi cả nhà chỉ còn có 28 lượng.

Hai vợ chồng Thể Hà suy nghĩ không biết phải làm sao có đủ số vàng và tiền mặt tuơng đương với vàng để chung cho ông chủ Cao đây? Nàng nghĩ, nếu chuyến nầy hụt đi thì chuyện đào thoát khỏi quê hương của gia đình nàng càng khó khăn hơn. Nàng lén nghe tin tức của đài VOA hàng đêm có nói rằng trong tương lai không xa, Cao ủy Liên Hiệp Quốc đóng cửa các trại tập trung và không cứu vớt người vượt biên tỵ nạn nữa. Trời ơi! Bây giờ phải làm sao? Không kể trên đường vượt thoát biết bao nguy hiểm trùng trùng…

Vợ chồng Thể Hà suy nghĩ nát óc nhưng vẫn không tìm ra phương cách nào ổn thỏa để có tiền trả cho chuyến ra đi nầy. Bên ngoại nàng tuy khá giả nhưng vào thời buổi nhiễu nhương như bây giờ ai cũng phải lo thủ thân. Gia đình cậu mợ dược sĩ của nàng giàu có nhứt, hai nhà thuốc tây đã bị tịch thu, cậu mợ vượt biên bị bắt còn đang kẹt trong tù.

Con thứ của cậu Hai nàng bị bắt đi lao động ở kinh tế mới, bịnh sốt rét chết tháng rồi. Trong đám tang, Việt cộng xã đem tặng bằng tưởng lục “anh hùng lao động”! Cậu đau đớn tím ruột bầm gan, nhưng không dám hé môi. Chướng mắt, không muốn để cái bằng vô duyên đó trong nhà, cậu Hai nàng lấy chân dung của con đem đốt và bằng anh hùng lao động đó đem quăng xuống hầm nuôi cá tra cầu ở đầu thôn.

Đông Nhựt và Thể Hà gom góp vàng, tiền bạc và tất cả những nữ trang quý giá đến gặp ông Cao chủ tàu mà gia đình nàng định sẽ cùng đi với họ.

Ngày xưa ông Cao có gặp nàng đôi lần khi ông đến họp mỗi tam cá nguyệt về chuyện làm ăn với chồng nàng. Nàng nhớ chuyến sau cùng gặp ông, ông đem cho hai kí tôm khô thật lớn con, và mấy con khô mực. Trả lễ lại, lúc đó nàng mua gởi tặng vợ ông một hộp bào ngư của Hồng Kông và nửa ký nấm đông cô khô.

Hai vợ chồng Đông Nhựt đến gặp ông Cao. Vốn có bản chất người Tàu sống trên đất Nam Kỳ gần cả cuộc đời nên dù sao ông Cao cùng nhiễm ít nhiều phong cách của người Việt. Ông thân mật bắt tay Đông Nhựt, cười và lịch sự khẽ gật đầu chào vợ chàng. Thoạt nhìn ông Cao giống như một công chức hơn là người Tàu buôn bán. Ông có vẻ rất chân thật, rất tự nhiên chào hỏi và nói chuyện với vợ chồng chàng. Nàng để chồng hỏi lại ông chắc chắn về giá cả cho gia đình nàng trong chuyến hải hành nầy. Ông nói với Đông Nhựt:

– Nị biết không, có nhiều người muốn đi lắm, mà ngộ không cho, ngộ cho gia đình nị đi, vì ngày xưa vợ chồng nị rất tốt với ngộ. Giá cả đã nói với nị hôm trước rồi, không xuống được nữa. Vì ngộ phải chung bến bãi cho bọn công an, cho tiền chúng ăn nhậu như rải giấy tiền vàng bạc của đám ma, hay cúng thí cô hồn các đản vào rằm tháng bảy vậy.

Đang rầu thúi ruột, mà nghe ông ta thí dụ hết sức dí dỏm, Thể Hà muốn bật cười thành tiếng. Còn Đông Nhựt thì ậm ừ không biết nói sao với ông ta. Bỗng Thể Hà lẹ miệng thay chồng lễ phép, nhỏ nhẹ, nói:

– Thưa ông Cao, ông đã buôn bán làm ăn qua lại với vợ chồng chúng tôi mười mấy năm rồi. Ông cũng biết đối với vấn đề tiền bạc chúng tôi rất là sòng phẳng và uy tín. Hai năm nay, chúng tôi không may, bị người ta giựt mấy lần vừa tiền vừa vàng, nên chuyến đi nầy chúng tôi không có đủ số vàng để chung một lần cho ông. Nhưng bà chị ruột của tôi có chồng Mỹ, có cơ sở làm ăn, khá lắm ở bên đó. Và gia đình vợ chồng cô em gái của chồng tôi cũng đang ở Mỹ. Ra khỏi nước, liên lạc được với người nhà, chúng tôi hứa sẽ trả 9 lượng vàng còn thiếu lại cho ông. Xin ông thông cảm giúp đỡ chúng tôi. Khi qua bên đó, nếu ông muốn lấy lời thì cho biết, chúng tôi sẽ trả thêm cho ông…

Vợ chồng Thể Hà nôn nóng như đang ngồi trên đống lửa. Họ hết sức lo lắng. Ông Cao nói tiếng Việt còn lớ giọng:

– Ngộ biết mà, buôn bán qua lại với nhau lâu rồi, ngộ rất tin tưởng ở vợ chồng nị.

Chỉ nói đến đó, ông ta dừng lại. Với cử chỉ chậm chạp, ông lấy cọng tăm xỉa răng khêu thuốc trong chiếc ống điếu. Ông để chiếc ống điếu lên đôi môi dầy thâm đen bập bập cho thuốc cháy đều. Rồi ông phì phà, khói thuốc màu trắng đục lan tỏa chung quanh. Đông Nhựt không giấu được nỗi lo hiện rõ trên nét mặt. Vợ chàng thì muốn nín thở chờ đợi câu trả lời của ông ta. Ông chẫm rãi nói:

– Nghe ni nói có chị, và có em gái ở Mỹ thì được rồi. Nếu chúng ta được ra khỏi nước, nị nhờ anh chị của vợ nị, hoặc vợ chồng em của nị bảo lãnh gia đình ngộ, vừa già trẻ bé lớn gồm 22 người, lại có một người tàn tật, còn ông bà già ngộ nay đã hơn 60 tuổi nữa. Nếu được, ngộ sẽ không đòi 9 lượng vàng nị còn thiếu… Ờ, thì như vậy đi, nị có chịu không?

Trời ơi! Có nỗi vui mừng nào hơn? Thể Hà mừng chảy nước mắt, vì nàng không thể ngờ, gia đình bà chị hờ và gia đình cô em gái, lại là hai lá bùa hộ mạng, cải tử hồi sinh cho gia đình nàng đang lâm vào cơn bế tắc đã không còn đường xoay xở. Nàng thầm cảm ơn Trời Phật hiển linh chứng giám lời cầu nguyện của nàng, cũng âm thầm phù hộ và giúp đỡ cho gia đình nàng.

Không biết nghe ai đồn rằng ông Cao không có đi làm cho chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, không có thân nhân ở Mỹ, dù cho Mỹ có nhận ông đi nữa mà gia đình ông quá đông người, thì ít ai chịu bảo trợ, ông sẽ bị ở lại trại tỵ nạn mút mùa. Cho nên ông ta mới sợ mà đề nghị như vậy. Vợ chồng Thể Hà không biết việc gì sẽ xảy ra ngoài nước Việt Nam, nhưng lật đật bằng lòng ngay điều kiện ông vừa mới đưa ra để được rời khỏi quê hương.

Trên đường về nhà, vợ chồng Đông Nhựt vui mừng khấp khởi vừa trút hết nỗi âu lo trước khi đến gặp ông. Nhưng lòng họ cũng cảm thấy áy náy lắm, bởi họ biết ông Cao là người chân thật, điều kiện như vậy có vẻ như vợ chồng nàng đang gạt gẫm hoặc lợi dụng ông chủ tàu! Nhưng nàng nghĩ lại, mình xin khất nợ thôi, chính ông Cao đề nghị trước điều đó mà. Thôi thì khi qua đến bên nước tự do rồi, nếu ông ta đòi bao nhiêu thì vợ chồng nàng sẽ trả thêm cho ông ấy bấy nhiêu.

Đông Nhựt và Thể Hà vừa bước vô cửa, thì thấy mẹ và bà cô Hai âu lo nhìn vợ chồng nàng dò xét. Chàng cho hai bà biết khoảng mười ngày nữa gia đình sẽ ra đi.

Bấy lâu nay, cả nhà đều thắt thẻo mong chờ ngày rời nước. Nhưng khi biết được sắp ra đi thì chiều hôm đó, người lớn trong gia đình chỉ ăn cơm qua loa lấy có. Hôm sau, thức ăn, nồi cơm nấu từ sáng đến chiều không vơi cạn, vì mỗi người một ý nghĩ nhưng không ngoài nỗi buồn thương tiếc nuối đè nặng trong lòng nên không ai muốn ăn uống chi cả. Chỉ có ba đứa nhỏ không biết gì cứ ngủ nghê thẳng cánh cò bay, và ăn uống no nê. Cô Hai và má chồng nàng soạn đồ chất vào giỏ, rồi lấy ra, rồi lại chất vào… Có lẽ do tâm trạng buồn lo lẫn lộn, hai bà tìm làm một việc gì đó để lấy lại bình tĩnh?

Đông Nhựt cả ngày hôm nay không ra khỏi nhà. Chàng trầm ngâm, ngồi trong phòng hút hết điếu nầy đến điếu khác không ngừng nghỉ. Tối rồi, Thể Hà vào phòng cố dỗ giấc ngủ, nhưng cứ trằn trọc không ngủ được. Nàng mở đèn xem sách, nhưng không sao nuốt nổi trang sách. Nàng tắt đèn, ra hàng hiên nhà trước trên lầu, nhìn ra biển. Lòng rối rắm như tợ tơ vò, bây giờ nàng còn lòng dạ nào mà cảm nhận được cảnh vật đẹp, hay thơ mộng hoặc buồn bã chung quanh? Biển lặng, gió hiu hiu, trời tối đen… đó là việc của đất trời. Từ dạo giặc về đến nay, Vũng Tàu đã như thành phố chết rồi mà!

Tiếng ai bấm chuông! Đinh đoong, đinh đoong… dồn dập. Thể Hà hốt hoảng, lách mình qua cửa, nhanh bước vào nhà. Không ai bảo ai, Đông Nhựt rời phòng khách, má chồng nàng, cô Hai đều đã bước ra khỏi phòng ngủ của họ. Mọi người không nói lời nào, chỉ nhìn nhau âu lo và lắng nghe động tịnh. Yên lặng! Cái yên lặng sợ hãi của những kẻ sắp sửa làm chuyện lén lút, giấu giếm, chống lại chế độ sắt máu vô nhân nầy. Mấy hôm rày, không ai dám rời nhà vì chỉ cần một cử chỉ bất thường của người ngoài vô tình nhìn mình, hay một tiếng động nhỏ nào đó cũng làm cho tâm trạng họ hồi hộp, rối ren, bất ổn rồi.

Mắt họ vẫn lấm la, lấm lét hướng về cửa sổ nhìn ra cổng, âu lo dò hỏi? Bà Châu lên tiếng trước:

– Để má và chị Hai mở cửa. Hai đứa ở lại trên nầy, lắng nghe rồi tùy cơ ứng phó.

Bà quay sang con trai mình, dặn dò:

– Có chuyện gì thì con phải lo lấy thân, yên tâm, đừng có nghĩ ngợi so đo nhiều. Nếu đi được một mình con cứ ra đi, đừng nghĩ nhiều đến gia đình vì đã có má, chị Hai và vợ con. Thoát được người nào hay người dó. Má, chị Hai và vợ con biết xử sao, con hãy yên tâm đừng để cho chúng bắt. Nếu không thấy con, nhà nầy chỉ có đàn bà và trẻ nhỏ thôi cũng dễ dàng hơn. Với dã tâm của bọn giặc nầy, má còn lạ gì nữa. Chuyện gì đến sẽ đến. Chúng ta không thể lường trước được. Phải nhớ lời má, bất cứ giá nào cũng không để lọt vào tay chúng.

Hai bà bật đèn ngoài cổng, rồi lẹp xẹp ngáp dài như đang bị đánh thức, đi ra mở cửa. Vợ chồng Nhựt đứng trên lầu nhìn qua khe cửa sổ theo dõi. Họ yên lặng, không dám nhúc nhích. Không gian bấy giờ nặng tựa ngàn cân. Nỗi lo sợ thái quá, làm họ không dám thở và tưởng chừng như thân thể bị rời ra từng đoạn và rủ xuống bất cứ lúc nào. Trong đêm lờ mờ qua ánh đèn điện úa vàng không đủ sáng, vợ chồng Đông Nhựt nhìn thấy bóng của cô Hai đi vào trước. Má chàng cùng hai bóng đen khác theo sau. Trong phòng, ngọn đèn ngủ mù mờ. Thể Hà nhìn chồng như ngầm hỏi. Tiếng bước chân của cô Hai xăng xái lên bậc cuối của thang lầu. Cô không vặn đèn cho sáng. Cô nói khẽ, đủ cho vợ chồng Thể Hà nghe:

– Không có gì. Hai đứa nhỏ con ông chủ tàu đến tìm thằng Đông.

Đông Nhựt vội vàng xuống lầu, Thể Hà cũng đon đả bước lẹ theo chồng. Thấy mặt Đông Nhựt, đứa con lớn của ông chủ tàu, lễ phép nói:

– Thưa chú Đông Nhựt, ba cháu sai đến đây cho chú thím biết, ngày mai mình đi. Sáu giờ sáng, gia đình chú đến nhà cháu, để cùng xuống tàu nhỏ, ra tàu lớn.

Cả nhà thở phào nhẹ nhỏm, nhìn nhau mỉm cười như khóc! Trước đó, mọi người đều lo sợ công an đến gõ cửa, phát thẻ tử vong! Đông Nhựt hỏi hai đứa nhỏ rằng ba chúng còn dặn gì nữa không? Chúng trả lời không và xin phép về để đi báo tin cho một vài gia đình khác.

Ngày xưa, phải, nếu ngày xưa thì Đông Nhựt hay vợ chàng đã quay điện thoại đến nhà ông chủ tàu hỏi liền: chừng nào đi? Mấy giờ đến nhà ông? Tại sao đi sớm hơn dự định?… Nhưng hoàn cảnh bây giờ đã đổi thay, từ ngày giặc vào đến nay ai mà dám dùng điện thoại nữa? Máy điện thoại, dây điện thoại cô Hai quấn lại bỏ trong chiếc rổ, phủ kín bằng cái giẻ rách, giấu ngoài nhà chứa củi một thời gian. Sau đó, chờ đêm tối lấy ra rồi thừa khi không ai thấy, cô đem quăng xuống biển. Nếu bọn cách mạng 30 thấy được trong nhà có máy điện thoại thì họ cho đó là máy truyền tin. Rồi gia chủ sẽ bị chụp mũ ngay là CIA, hay tình báo của Mỹ sẽ bỏ mạng hết cả nhà, hoặc gia đình bị bắt đi cải tạo mút chỉ cà tha.

Tàu gia đình Đông Nhựt vượt biển thuộc về loại tàu lớn bằng cây. Có ba tầng trọng tải chở cả ngàn người và đồ đạc cá nhân mang theo. Chủ tàu chở dòng họ, bà con, mối lái, bạn bè… tất cả khoảng 7 trăm người. Mà vẫn còn nhẹ để được an toàn và nhờ vậy mà tàu chạy nhanh.

Ông Cao, chủ tàu mướn tài công giỏi, có nhiều kinh nghiệm, rành rọt đường đi nước bước, đã từng ra vào các nước lân cận Việt Nam như Singapore, Thái Lan, Nam Dương, Phi Luật Tân… Ông cụ bị sẵn mọi thứ cần thiết cho thuyền nhân trong chuyến hải hành nầy. Ngoài xăng, dầu thừa thải để dùng cả tháng, còn đồ ăn, nước ngọt để uống là điều tối cần, đủ cho nhũng người trên tàu tiêu thụ trong vòng một tháng hãy còn thừa.

o O o

Ngày 23 tháng 5 năm 1979, lúc 11 giờ đêm, tàu rời bến.

Ra chưa khỏi cửa sông để vào biển thì tàu bị công an Việt cộng chận lại. Chúng dồn xuống tàu khoảng 500 người vừa già trẻ bé lớn. Chúng nói cho dễ nghe là gỏi người, vì những tàu trước chở quá khẳm không an toàn cho những người nầy, nên họ giữ lại. Đó là một lý do, và bắt buộc chủ tàu phải nhận những người chúng gởi. Nếu không thì chúng giữ tàu lại, không cho tiếp tục lên đường. Trường hợp như đặt cày vào cổ trâu. Chẳng đặng đừng, chủ tàu đành phải nhận chở những người nầy cùng đi.

Thật nguy hiểm, tàu đã chở quá trọng tải. Mọi người trên tàu hết sức lo sợ, nhưng chỉ còn có nước là cầu xin Ơn Trên cho trời quang mây tạnh suốt chuyến hải hành.

Những người vừa mới xuống tàu kể rằng họ hiến nhà cho công an địa phương để được đi. Công an làm gì có tàu, nên đưa họ ra cửa sông chờ, tàu nào đi ngang thì bắt lại và dồn họ xuống. Cũng vì thế mà nhiều tàu vượt biên bị chìm, vì nặng ngoài sức chứa của tàu, đã giết chết không biết bao nhiêu thuyền nhân vô tội.

Trong chuyến hải hành cam go, thừa chết thiếu sống, mỗi lần gặp sóng to, gió lớn, tàu nghiêng, là nước hai bên mạn tàu rỉ vào. Mỗi người trên tàu đều chấp nhận tất cả nhũng chuyện gì sẽ xảy đến cho mình. Thuyền nhân không ai bảo ai, người đạo nào thì cầu nguyện đấng Tối Cao theo lòng tin của mình. Con Chúa, Chúa giữ. Con Phật, Phật độ.

Tài công giỏi, sáng sớm ngày 28 tháng 5, năm 1979, tàu gia đình Thể Hà đến hải cảng của Mã Lai. Tàu bỏ neo bên ngoài và cử đại diện tàu vào xin chánh quyền điạ phương cho được lên bờ vào trại tạm cư để chờ sang nước thứ ba như những thuyền nhân khác tị nạn Cộng Sản đã đến nước nầy trước. Thuyền nhân dưới tàu mặt mày lem luốc, áo quần xốc xếch, bèo nhèo qua đoạn đường biển dài bị gió dồn sóng dập. Thuyền nhân bị say sóng, say gió ói mửa linh láng, có người chưa ngồi dậy nổi. Trên mặt tất cả mọi người hiện rõ nỗi mừng sẽ được lên bờ. Niềm vui chưa tan thì trận mưa đá, sỏi, gạch… rầm rầm rơi tới tấp xuống tàu, làm nhiều thuyền nhân ngồi trên mui bị lỗ đầu, tét da. Nhìn qua cửa sổ tàu, thấy dân bản xứ đứng trên bờ loi nhoi, quơ tay, đá chân, xỉa xói mắng chửi ầm ĩ, và đuổi xô những kẻ liều chết vượt biên.

Việc xin tị nạn của đại diện tàu coi như bất thành. Tối hôm đó, chánh quyền địa phương của Mã Lai dùng bốn chiếc tàu kéo tàu của Đông Nhựt đi bỏ ngoài hải phận. Thuyền nhân bấn loạn, lo sợ quá độ, niềm hy vọng tiêu tan! Bà Châu ôm hai cháu gái trong lòng. Chúng thở thoi thóp vì ói vì ngộp thở. Cô Hai ói đầy mình Thái Dương, nhưng thằng bé tỉnh queo như bố, vì hai cha con không bị ói mửa nên không mệt nhọc. Còn Thể Hà, khi tàu chưa ra khỏi hải phận thì nàng ói linh láng, lúc đầu còn lịch sự, ói tới đâu lấy khăn lau đến đó. Nhưng đàn bà cả tàu gần như đều bị ói. Ai nấy mệt lả nên lịch sự thông thường biến mất tự bao giờ, mùi hôi thúi xông lên hòa với hơi người nhưng không ai buồn để ý nữa. Vì không khí đó, mọi người đều hít thở như nhau. Đông Nhựt cõng hai con lên mui tàu tìm một chỗ ngồi cho các cháu hít thở không khí trong lành. Khi hai con đỡ ngộp thì chàng ẵm xuống, kè vợ, và bà cô vợ lên mui tàu đổi gió máy.

o O o

Tàu vượt biên chở gia đình bà Châu đã đi đến Indonesia (Nam Dương quần đảo) vào sáng ngày 31 tháng 5, năm 1979. Nơi đây đã có nhiều tàu tị nạn đến trước. Những lều chõng chen chúc dưới chân núi, của những thuyền nhân đến trước đã ở trên bờ, họ len lỏi bắn thư bằng nạng giàn thun, chỉ điểm cho những người dưới tàu tìm cách cử người lên xin chánh quyền địa phương cho thuyền cặp bến, và thuyền nhân được lên bờ. Không thì ông già bà cả, trẻ con ở dưới tàu không chết vì bịnh, chết vì đói, thì cũng vì nóng và ngộp mà chết.

Tròm trèm gần chín ngày, tàu chở gia đình Đông Nhựt từ quê nhà qua đến Mã Lai, bị Mã Lai kéo bỏ ngoài hải phận rồi đến các đảo của nước Nam Dương. Khi rời Việt nam cho đến nay chưa đầy mười ngày mà trên tàu đã có hơn 60 thuyền nhân, vừa già vừa trẻ con vùi thây trong lòng biển cả! Còn người bịnh thì nằm la liệt, trong số đó có cô Hai, có vợ chàng và hai đứa con gái. Khi tàu ra chưa tới hải phận thì họ đã ói lê mê, ói mật xanh đến mật vàng, ói không thấy đường đi. Ai nấy quằn quại lết mết nằm rũ rượi không ngồi dậy nổi. Chỉ có bà Châu, Đông Nhựt và Thái Dương thì tỉnh táo mà thôi, nhờ họ nằm đâu ngủ đó, ăn uống bình thường. Họ có sức khỏe, bởi lúc còn ở quê nhà, trong gia đình của Thể Hà, ba người nầy là tròn trịa nhứt vì lúc nào họ cũng ăn được, ngủ được và ít khi bịnh bậy.

Bà Thu Lan, được cử làm đại diện cho tàu lên điều đình với chính quyền địa phương, để thuyền nhân được lên bờ. Nghe nói trước kia bà làm thông dịch viên trong căn cứ Mỹ ở Biên Hòa. Bà thông thạo hai thứ tiếng Anh, và Pháp. Tàu của ông Cao cũng có nhiều cao nhân chưa lộ diện. Chủ tàu cử bà, vì đàn bà dễ nói chuyện và bà Thu Lan là vợ của tài công chánh.

Tàu cặp gần bờ, len lỏi có những chiếc xuồng nhỏ của người dân bản xứ bơi quanh tàu bán bánh mì, bán nước ngọt lon. Nhìn mấy đứa con mặt hốc hác thiếu nước, thiếu ăn. Không nghĩ ngợi, Thể Hà lột chiếc nhẫn cưới trên ngón tay áp út, yếu ớt đưa ra dấu muốn đổi nước, đổi bánh cho con. Ông bán hàng đưa 2 ổ bánh mì nhỏ và 3 lon nước ngọt. Thể Hà lắc đầu, xòe 5 ngón tay chỉ nước ngọt, và ra dấu 5 ổ bánh mì. Ông bán hàng gật đầu. Thể Hà lấy nước, lấy bánh đưa hết cho mẹ chồng để phân chia cho con. Bỗng nàng nhìn thấy có thằng bé chừng mười tuổi nằm mệt lả trên sàn ghe. Người trên thuyền nói nó đi một mình không có thân nhân. Nàng không chịu được, lấy hộp nước ngọt khui nắp, đỡ đầu thằng bé lên cho nó uống.

Lạy tạ Thượng Đế! Và cũng nhờ bà Thu Lan lanh lợi, ăn nói bặt thiệp, nên thuyền nhân dưới tàu được lên bên kia bờ đảo vắng không người ở ngay chiều tối ngày hôm đó.

Chiếc tàu mang bản số “MT. 2736”, không chìm trên chuyến hành trình, mà bị cho đánh chìm sau khi thuyền nhân đã lên hết trên bờ. Đó là ý kiến, và cũng là kinh nghiệm đi biển của tài công, sợ chánh quyền địa phương nếu biết tàu còn chạy được, lại kéo bỏ ngoài hải phận như bên Mã Lai nữa thì có đường làm mồi cho cá mập hết cả tàu.

Pacikata, là một nhánh của eo biển nhỏ nằm quanh co sát với Terrempa. Terrempa như một thị trấn trong vùng hải đảo nhỏ nầy. Terrempa sáng có nhóm chợ, có tiệm hàng xén của người bản xứ, của người gốc Tàu. Từ Pacikata nơi thuyền nhân tàu “MT. 2736” đang tá túc, muốn đi qua Terrempa bằng đường bộ chừng ba cây số, thời gian lội suối qua đồi phải mất khoảng 2 giờ. Ai muốn đi bằng đường thủy, dân địa phương chở bằng đò thì phải trả mười đồng tiền Nam Dương và cuộc thủy trình phải mất ba mươi phút mới đến chợ. Terrempa là đầu não, là nơi cư ngụ của chúa đảo, có trụ sở của chánh quyền địa phương, có những dãy phố của công chức. Rải rác theo chân núi sát bờ biển, nhà lớn, nhà nhỏ của người dân buôn bán ở chợ. Lại có chùa, có nhà thờ, trạm bưu điện, trường học, và trạm y tế.

Dân ở chợ Terrempa đa số là người Tàu, hoặc người Tàu lai Nam Dương. Người Nam Dương sống rải rác trên đảo, và những hòn đảo kế cận. Đa số họ sống về chài lưới. Có lẽ ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới, nước mặn, nắng cháy nên dân địa phương, đàn bà hay đàn ông đều khỏe mạnh, vai u thịt bắp, da đen, tóc quăn. Đàn ông Nam Dương, thường vận xà-rong sọc to, dài xuống quá đầu gối, ở trần, hoặc mặc áo tay ngắn hay dài tay. Người ở chợ có vẻ văn minh hơn, đàn ông luôn mặc áo, vận xà-rong và trên đầu đội mũ đen như mấy người đàn ông Ấn Độ.

Đàn bà Nam Dương ở chợ thường phấn son lòe loẹt, mặc áo, vận xà-rong dài và rộng có in nhiều bông hoa sặc sỡ, sáng chói. Nếu họ mặc áo in bông thì bông phải đỏ chói, lá phải xanh lè, cành, nhánh phải xanh hoặc màu nâu sậm của vỏ cây, nghĩa là phải đúng màu, màu nào phải rõ ràng ra màu nấy. Họ đeo nữ trang rườm rà, bừa bộn, thiệt có, giả có, nhưng phải nhuộm vàng khè và kết những hột chuỗi xanh, đỏ, tím… trông rất đẹp mắt. Phụ nữ ở đây gần như họ không đeo cẩm thạch hoặc hột xoàn.

Người Nam Dương ở hải đảo rất hiền lành, chất phác, làm ăn, buôn bán thật thà. Họ luôn thi hành theo luật lệ của chánh quyền sở tại, hoặc nghe theo vị lãnh đạo tinh thần tôn giáo của họ, thí dụ như ông cha trong nhà thờ, hòa thượng trong chùa, mục sư trong giáo hội… Thường thì các nhà trên hải đảo không đóng cửa, then không gài, vì không có ăn cắp vặt, hay trộm, cướp… Luật lệ ở đây, ai ăn cắp bắt được quả tang sẽ bị chặt tay, bị xử bắn, tùy theo sự phạm tội của họ.

Đến trại tỵ nạn gần 6 tháng sau, gia đình Đông Nhựt mới liên lạc được với cô em gái Xuân Hà và với người chị vợ là Thái Vân. Cả hai gia đình nầy đang sống ở Mỹ. Họ không liên lạc với nhau nhanh là vì khi thuyền nhân của tàu chở gia đình Đông Nhựt được lên bờ ở đảo Pacikata chưa tròn ba tháng mà có thêm gần 2 chục thuyền nhân chết nữa. Nên chánh quyền địa phương cho dời cả tàu qua những hòn đảo khác. Do đó việc gởi và nhận thư từ của tàu họ thật là khó khăn.

Tuy nhiên như có phép lạ, thư của Xuân Hà vẫn tới tay vợ chồng Đông Nhựt. Kèm theo bức thư là tấm hình chụp gia đình cô. Trong ảnh, Xuân Hà mặc chiếc áo dài màu vàng anh thêu cành tùng và con hạc bằng chỉ kim tuyến. Nghiêm, chồng cô mặc bộ com-lê màu dưa cải, thắt cà-vạt vàng nút chuồn xanh. Còn hai quý tử của cô cũng mặc lễ phục theo kiểu nửa mùa (demi-saison) với áo vét đen, quần xám lợt, thắt cà-vạt xanh đậm có sọc xéo màu hồng nhạt.

“Anh chị kính yêu,

Nhận được thư anh chị, em mừng phát khóc. Tạ ơn Thập Phương Chư Phật đã phù hộ bác Hai, anh chị và các cháu đã thoát khỏi bức màn tre để tìm đất nước tự do.

Bâv giờ, em đã sống an ổn trong tình thương của chồng con. Từ khi đất nước bị Cộng sản cưỡng chiếm, em hằng đêm cầu nguyện cho bác Hai và anh chị nếu không vượt biên suông sẻ thì cũng tìm được cách mưu sinh vững chải. Nào ngờ, anh chị đạt được điều quá sức tưởng tượng của em.

Em cố tìm cách bảo lãnh anh chị qua Mỹ càng sớm càng tốt. Giấy ngắn tình dài, em xin tạm ngừng bút. Em kính chúc bác Hai được an khương. Chúc anh chị chân cứng đá mềm. Cho em hôn các cháu yêu quý của em.

Đứa em hằng thương nhớ đến anh chị.

Xuân Hà

TB: Chút nữa là em quên chia buồn cùng chị về cái chết của cô Hai. Khi anh chị tạm cư ở đảo nào lâu dài, nhớ cho em địa chỉ, em sẽ gởi chút ít tiền để anh chị xây xài.”

Khi gia đình Đông Nhựt như các thuyền nhân cùng tàu chàng được dời qua đảo Kuku, qua đảo Kuku không được bao lâu thì bà cô vợ chàng, là bà Hai Hân lâm trọng bịnh bất ngờ rồi đột ngột qua đời. Ở xứ lạ, người ruột thịt duy nhứt của vợ chàng chỉ có người cô nầy. Bây giờ cô đã chết, Thể Hà cảm thấy mình tứ cố vô thân, nàng vừa bị bịnh vì say sóng gió chưa khỏi hẳn, nay nhồi thêm cái chết của người cô thân yêu, nàng đau khổ và chán nản vô cùng.

Thi thể cô Hai nàng được mấy người đồng thuyền, đồng hành tốt bụng, giúp đỡ chồng nàng chôn cất tử tế, trong nghĩa trang nằm dưới chân núi ở hòn đảo KuKu của nước Nam Dương.

Chung quanh nghĩa trang toàn là những cây đế, cây sậy. Những tàu đến đây có kể rằng trong đám thuyền nhân có người chết, không lẽ lại lấy biển làm huyệt mộ như lúc tàu chưa cặp bến sao? Nên họ cử đại diện đến đệ đơn xin chánh quyền địa phương cho những thuyền nhân chết, xác họ chôn cất trên đảo. Được chúa đảo bằng lòng cho phép, những người đàn ông, những thanh niên trong các tàu tỵ nạn đi đốn cây rừng, lớn bằng cườm chân, cườm tay, đóng cọc làm hàng rào bao bọc chung quanh nghĩa trang cho phân biệt. Cổng vào nghĩa trang bằng tấm ván ghe, dựng trên hai cây cột cao. Họ lấy cây khéo tay, đẽo, gọt, ráp nối, đóng thành hai hàng chữ:

“NƠI AN NGHỈ SAU CÙNG

CỦA NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TÌM TỰ DO”