← Quay lại trang sách

CHƯƠNG TÁM

Đại diện tàu cho biết, sáng ngày mai tất cả mọi thuyền nhân ăn uống xong thì người và đồ đạc mang theo phải sẵn sàng chờ đợi trên bờ biển trước 12 giờ trưa để được tàu sắt của chánh quyên địa phương đến đưa đi qua một đảo khác.

Việc dời đảo nây, qua đảo kia, đối với những thuyền nhân như gia đình Thể Hà, thì vẫn là chuyện không có gì mới mẻ. Chẳng có ai thắc mắc cả. Những thanh niên trẻ, đi một mình họ luôn vui cười không âu lo phiền muộn. Họ nói rằng rời khỏi nước Cộng sản Việt Nam là họ khoái chí rồi thì có ở đâu cũng tốt cả. Thậm chí nếu chánh quyền địa phương cho ở lại đây họ cùng bằng lòng. Những gia đình có con cái đùm đề như gia đình Thể Hà thì phải thủ thân đủ mọi thứ, để khi qua đảo khác không có mớ đồ cũ cần thiết nầy dùng thì tiền đâu mua đồ mới? Đôi khi có tiền cũng chưa chắc có đồ để mà mua. Ngoài đồ dùng cá nhân của mỗi người còn nhiều thứ khác cần phải có như: mùng, mền, thau, thùng chứa nước, nồi, ơ, tô, tượng, chén, đũa, dao, thớt… Đang có được thứ gì thì phải đùm túm đem theo hết. Vả lại, gia đình nàng cũng không có tiền, nếu không chịu khó đem theo qua bên kia sẽ khổ lắm, lấy gì mà dùng.

Lần nầy thì mọi thuyền nhân được tập trung về đảo Ga-Lăng. Đó là Trại tỵ nạn Cộng sản lớn nhứt vùng Đông Nam Á, do Liên Hiệp Quốc xây dựng và tài trợ.

Nơi đây có Cao Ủy Tỵ Nạn, có đại diện các nước phỏng vấn thuyền nhân hàng ngày. Có phòng khám bịnh cấp cứu, có phòng sanh con và nhứt là bác sĩ của các nước nhận người khám sức khoẻ trước khi vào nước của họ (nước thứ ba). Có trường học, buổi sáng dạy chữ Việt và ngoại ngữ cho trẻ em. Buổi chiều dạy chữ Anh, chữ Pháp, chữ Tàu cho người lớn. Ai muốn học chữ gì tùy ý thích mỗi người mà lựa chọn.

Các xì-thẩu người Tàu, giàu có cư ngụ ở xứ nầy, và bên Singapore bỏ tiền ra xây cất ngôi chùa Phật thật lớn, tọa lạc trên ngọn đồi cao, mặt tiền hướng ra biển.

Có nhà thờ Công giáo, có hội thánh Tin Lành bên kia bờ suối. Có khu nghĩa địa dưới chân đồi gần rừng phi lao để chôn cất những thuyền nhân trên đảo bất ngờ bị bạo bịnh qua đời…

Nơi đây có cỗ truyền hình công cộng được mở từ 7 giờ chiều đến 10 giờ đêm. Các đài nói tiếng Anh, tiếng Tàu và tiếng Indonesia. Chương trình gồm có những tin tức hàng ngày, tân nhạc, phim ảnh… để giải trí cho đám người tỵ nạn. Và nhứt là vấn đề thông tin, thư từ gởi đi, đem đến bắt đầu có tiến bộ hơn nhiều: mỗi tuần hai lần có thư đi, thư về, cho nên điện tín, thư từ nhanh hơn ở các đảo khác. Mỗi tháng có hai lần phóng thanh phổ biến danh sách thuyền nhân được đi định cư, sau đó được dán trên bảng trước hội đồng trại mà mọi người gọi đó là “Bảng Phong Thần”

Sau hai tuần dời sang đảo Ga-Lăng, Thể Hà được thư và ngân phiếu do Thái Vân cùng thư từ và ngân phiếu do Xuân Hà gởi. Có vậy, vài ba hôm Đông Nhựt mới dám ngồi uống cà-phê ở quán lộ thiên trên đồi, gần tiệm chạp phô của dân bản xứ. Bà Châu cùng con dâu vài bữa, sáng sớm xuống bờ biển đón mua rau, cải tươi, tôm, cá, thịt bò, thịt heo… Từ lúc được tiền tiếp tế của Thái Vân và Xuân Hà, đôi khi họ còn nấu những món phụ ngoài hai bữa cơm như chè, chuối chưng, hoặc mua bánh, kẹo, trái cây tươi…

Bà Châu và con dâu học từ những người Tàu lúc ở Việt Nam buôn bán tiệm nước, hoặc làm bán lẽ nên biết làm bánh bao, chiên bánh tiêu, bánh dầu chấu quảy, làm giá sống, nấu mì, nấu hủ tíu…để cho bữa ăn của gia đình thêm phần thích thú. Thái Vân không quên gởi cho Thể Hà những băng nhạc có tiếng ca của Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Elvis Phương tức là những ca sĩ theo làn sóng di tản vào năm 1975. Gia đình nàng không có máy hát, nên nàng đưa cho bà ở cùng trại có máy hát để cho mọi người nghe chung. Xuân Hà gởi cho những quyển tiểu thuyết của Quỳnh Dao do Liêu Ọuốc Nhĩ dịch và in lại bằng phương pháp photocopy lem luốc. Vậy mà khi nàng đọc xong thì cho cả trại mượn, rồi chuyền sang những trại khác.

Ở đây, ai có được cuốn sách, tiểu thuyết, truyện dài hay truyện ngắn, không cần biết tác giả là nhà văn nào trên bất cứ tập san, hay báo chí chữ Việt nào thì được coi như của báu. Mọi người chuyền tay nhau mà đọc, đọc hết mọi tin tức trên báo, không bỏ sót một mục nhỏ nào, kể cả mục quảng cáo, rao vặt…

Không biết nguyên do nào, và bắt chước ai, Thái Vân dạo nầy lại tập làm thơ. Cô ta gởi cho Thể Hà xem tập bản thảo. Thể Hà mỉm cười một mình “Đồ khờ, đồ con mát giây gì đâu không hà! Người tình trong thơ nó toàn là đội lốt mượn hình ảnh tên đốc tờ giả hiệu, chớ không có dấu vết tên chồng mẽo Tom Hunter”. Thơ tuy mùi mẫn thâm xương cú đế, nhưng làm cho Thể Hà ứa gan tức ấm ách ghét bà chị hờ kia. Bởi cái tên bạc bẽo, ăn ở đoản hậu nọ vẫn còn vấn vương trong tâm khảm bả thì lạ thiệt!

Ở trại tỵ nạn, niềm hy vọng và nỗi mừng vui duy nhứt của những thuyền nhân là được mau đến Đệ Tam Quốc Gia định cư. Cứ mỗi hai tuần một lần, vào chiều thứ tư, không ai bảo ai, mọi người đều ra ngồi ngoài hàng hiên trại để chờ nghe tin tức. Có người ngồi quán nước, có người ngồi ngoài sân trại, có những người rồi rảnh, nhứt là những người độc thân từ sáng đã ngồi dọc, ngồi ngang bên hông văn phòng Cao ủy hay trên lề đường sát phòng thông tin ngóng đợi, vì hai văn phòng nầy ở sát vách với nhau. Họ nói cười, chạy giỡn ồn ào như cái chợ. Nhưng khi đến mục phát ra tin tức về danh sách thuyền nhân được đi định cư, thì không ai bảo ai, mọi người như nín thở để lắng nghe, cả khu trại gồm mấy chục ngàn người im thin thít chờ đợi coi có gọi đến tên mình không?

Thể Hà đang nhìn mưa rơi lất phất trên mái trại sau nhà. Mưa ở đâu cũng giống nhau. Những hạt nước mưa rào rào rơi đều, nghiêng nghiêng theo chiều gió. Mưa trắng xóa. Mưa làm tươi xanh cây cỏ lá hoa. Mưa ngấm vào đất, cho cây đâm chồi nẩy lộc, kết nụ, nở hoa, tạo cho trần thế thêm tươi màu, thêm sức sống. Mưa rơi lách tách làm thanh thản tâm hồn nàng.

Trời gầm gừ. Lâu lâu có làn chớp sáng ngời lóe lên rồi tắt lẹ. Tiếng đại hồng chung văng vẳng, âm thanh vang vang từ ngôi chùa trên đồi cao vọng lại. Thể Hà nhớ ra, ba hôm trước nàng có dắt mấy đứa nhỏ đi chùa. Nàng được nghe ông sư trụ trì trong chùa thông báo là rằm tháng bảy, chùa sẽ cúng thí cô hồn.

Trên những chiếc giàn cao như cái tháp đặt sẵn ở trong sân chùa, họ gắn, hoặc móc lên nào hộp cốm, túi kẹo, hộp bánh, tiền cắc… để rồi khi cúng xong, họ sẽ thảy thẻ, ai lượm được thẻ đã có ghi số, dùng thẻ đó đi lãnh thức ăn được chưng bày trên giàn.

Thể Hà giật mình, vì tiếng của chị Nguyệt Nga eo éo sau lưng:

– Chị Nhựt, hồi nãy tôi thấy thằng Thái Dương đứng ngoài hiên chùa, quần áo ướt nhem. Tôi bảo nó về với tôi mà nó không chịu.

Thể Hà chưng hửng, mở to mắt hỏi:

– Cảm ơn chị. Chị gặp cháu lâu chưa?

Chị Nguyệt Nga, trả lời:

– Mới đây thôi.

Thể Hà lật đật đi vào, lôi tấm ni lông trùm lên đầu, chạy lúp xúp trong màn mưa hướng lên chùa. Thái Dương hãy còn đứng đó, dưới hàng hiên. Mưa tạt, mình mẩy đầu tóc nó ướt nhẹp, tay chân lạnh ngắt. Nàng chạy đến ôm con vào lòng. Thằng nhỏ không ngờ mẹ đến, cũng ôm chầm lấy mẹ khóc nức nở. Nàng xuýt xoa hỏi:

– Nín đi con, nín đi. Con làm gì đứng ở ngoài cho mưa ướt hết vậy?

Thằng bé ngó xuống đất, phụng phịu, thút thít khóc, không trả lời. Nàng hăm dọa con, nhưng nhỏ nhẹ:

– Nói cho mẹ biết tại sao con đứng khóc một mình ở đây? Con bị ai đánh, hay con đánh lộn vói mấy đứa trẻ khác? Hãy nói cho mẹ biết, khi về nếu ba có rầy thì mẹ xin cho, không nên đứng dầm mưa như vầy, sẽ bị đòn đó.

Thái Dương tức tưởi khóc lớn. Nó ngập ngừng, giọng ướt nhòe nước mắt:

– Con lên đây để lượm thẻ. Nhưng người lớn đã lên trước rồi. Họ mạnh quá lấn con nên con lượm thẻ không được. Bị mưa ướt, con không dám về vì sợ bị đòn.

Thể Hà, hỏi:

– Con muốn ăn bánh kẹo, hay thứ gì có trong giàn đó mà đi lượm thẻ?

Thằng bé thút thít:

– Hôm qua con nghe chị Thể Dao, chị Thể Quỳnh nói muốn ăn bánh mì, con cũng muốn ăn bánh mì chấm đường lắm mẹ à…

Thái Dương ôm chặt mẹ khóc lớn. Nước mắt Thể Hà cũng chảy dài:

– Nín đi con, rán nhịn. Hôm nào có tiền, mẹ sẽ mua bánh mì cho mấy chị em chấm đường. Mai mốt không được đi chơi xa một mình như vậy nữa nghen. Cũng không được chen lấn để giựt giàn. Rủi con té, người ta đạp nhầm thì con sẽ gãy tay, gãy chân khổ lắm đó con à.

Thái Dương gật gật đầu, đưa mu bàn tay lên quẹt nước mắt, hứa không dám nữa. Thể Hà dắt con bước từng bậc thềm trên đồi từ cổng chùa xuống. Đã về đến trại mà lòng nàng còn buồn vời vợi chua xót cho hoàn cảnh hiện tại của mình.

Thể Hà chép miệng, thầm nghĩ ngợi. Cũng ngộ, chị Nguyệt Nga nầy thiệt là có duyên với mình. Nàng đã gặp chị trong lúc giặt áo quần bên dòng suối ở đảo Kuku chỉ đôi ba lần chi đó. Cứ mỗi lần giặt quần áo là chị ré giọng chua như dấm tiềm lên hát những lời giễu cợt. Chẳng hạn như “Mùa Thu Chết “ của Phạm Duy, chị hát: “Mùa thu chết, đã chết rồi cho chết luôn. Em biết không? Hai chúng ta khỏi làm phiền nhau nữa…” Bài “Gạo Trắng Trăng Thanh” của người ta lời hay như vậy mà chị sửa lại: “Ai đang đi trên cầu Bông, té xuống sông ướt cúi quần ni-lông. Vô đây em, chờ quần khô anh sẽ đưa em về…”

Thể Hà cũng không khỏi bật cười một mình khi nhớ rất rõ. Hôm đó nhằm ngày lễ lớn của nước Nam Dương. Dân địa phương đem cho nhiều thức ăn và bánh trái… Hưởng ứng ngày lễ của xứ người và cũng để cho thuyền nhân trên đảo tiện dịp giải trí, Hội đồng đại diện thuyền nhân tổ chức một đêm lửa trại, có vài mục văn nghệ bỏ túi.

Rủi cho anh chàng lãnh làm trò vui, đêm đó bất ngờ bị bịnh rên hù hù không ngồi dậy nổi. Một số người biết tánh chị Nguyệt Nga hoạt bát, cởi mở, hay giỡn hay nói tếu nên đốc xúi chị bắt chước nữ nghệ sĩ Tường Vi làm hề.

Trước hết chị làm mụ đàn bà đi bắt ghen, hùng hổ với con mèo cưng của chồng mình. Chị cất giọng rổn rảng nhái theo bà Tường Vi:

– Nè, con quỉ cái lấy chồng khính của thiên hạ! Ê, con kia, mầy có biết tao là ai không mậy? Để, để. ể. ể. ể… tao nói cho mầy rõ. Tao, tao là, là, là… vợ của chồng tao!

Thiên hạ cười bật ngữa bật nghiêng khi nghe thấy cái mặt chị hí hởn, và cái miệng chót chét của chị.

Tới hồi giả trai làm hề, chị bắt chước danh hề Tùng Lâm:

– Úy trời đất ôi, ai mà ngờ! Hu… Hu… Hu! Ai mà dè hu… hu… hu! Con vợ của tui. Trời đất ôi, con vợ của tôi nỡ đành… lấy tui!

Tiếng cười của những người đứng xem chưa dứt thì chị bắt chước điệu bộ và giả giọng hề Thanh Việt:

– Em là Chúc Anh Đài ở tại Mõ Cày đây. Còn anh có phải là Lương Sơn Bá ở Bà Rá Hố Nai không?

Khán giả cười bò lăn, vì cái giọng tếu ơi là tếu của chị! Cái giọng ấy, khi thì sắc bén, khi chát chúa như bị quất roi vào mặt, khi thì xìu xuống, bỏ nhỏ ra vẻ mệt mỏi, tuyệt vọng. Và cái mặt chị cũng theo sự diễn tả khi thì dúc dắc, khi thì thiểu não, chứng tỏ chị có máu hề chạy trong huyết quản.

Nguyệt Nga có giọng chát nên không thích hát, dù chị biết nhiều bản nhạc thời trang nổi tiếng. Chị khoái làm hề cái hoặc hề mụ. Chị khoái những nữ danh hề nổi tiếng như Tường Vi, Túy Hoa, Kim Giác, Kim Cúc, Hoàng Vân, Anh Thư, Kim Ngọc. Chị thường bảo Thể Hà:

– Thiên hạ thường nói, đàn bà đẹp khó làm hề. Xin lỗi à, đừng có hàm hồ nghen, Kim Cương, Bích Sơn, Bạch Tuyết đều đẹp mà diễu cũng mặn mòi có kém gì các danh hề nữ kia đâu.

Lúc nào gặp Thể Hà, chị ta cũng vồn vã, thân thiện nói cười. Chuyện gì xảy ra trên đảo cho dù kín đáo tới đâu như bà nầy cặp với ông kia, vợ bắt ghen chồng, đôi trai gái cặp nhau từ Việt Nam qua đến đây rồi bỏ nhau đi cặp với người khác, mẹ chồng đuổi nàng dâu nhưng bắt cháu nội, còn có người ngủ với mấy dân bản xứ mang bầu… Chị biết được đều tỉ tê kể cho nàng nghe. Và lúc nào câu chuyện đến hồi kết thúc, chị đều bảo:

– Chị Nhựt à, tôi kể chị nghe, chị đừng có nói lại với ai nghen, nếu biết được tôi kể họ sẽ nói tôi thèo lẻo rồi thù tôi, ghét tôi. Chị nhớ giữ kín nghen, chị mà không giữ kín là giết tôi không gươm giáo đó.

Chị Nguyệt Nga nói đến đây thì cặp mắt bỗng dựng ngược lên, háy, nguýt, miệng tém qua tém lại, trề nhúng như có thù với những người trong cuộc mình sắp kể:

– Chời ơi, chị biết không? Thấy chuyện bất bình nên tôi ứa gan nói chị nghe chơi cho hả tức, chớ chuyện đó có mắc mớ gì đến tôi đâu. Xời! Sức mấy, còn khuya con Nguyệt Nga nầy mới sợ bọn chúng.

Thể Hà nhìn chị cười, nhỏ giọng:

– Nói với ai bây giờ? Tôi có quen với ai đâu mà nói? Chị kể thì tôi nghe chớ đèn nhà ai nấy sáng, vả lại tôi rất sợ cãi lộn lắm! Ờ, chị Nguyệt Nga, hôm trước chị có nói với tôi, chị một mình dắt ba đứa con đi phải không? Như vậy chắc chị tốn kém và vất vả lắm?

Chị tươi cười, rất hãnh diện về việc một mình chị mà dắt con bôn đào. Vô tình tôi hỏi cho có chuyện đã làm chị vui sướng, và trạng thái lạc quan hiện rõ ngay trên mặt. Nhưng trong giây phút thôi, chị làm ra vẻ buồn buồn, còn tay thì vẫn vò nhanh đồ đang giặt:

– Tôi thật là khổ mạng lắm chị Nhựt ơi! Cha tôi người Tàu, má người Việt, nên chị em chúng tôi là Tàu lai. Ngoài cái tên Nguyệt Nga trong khai sanh do ông ngoại tôi đặt, tôi còn có cái tên là A Muối nữa. Ba má tôi có hai tiệm chạp phô lớn ở dưới quận Mõ Cày thuộc tỉnh Bến Tre. Chị có biết Bến Tre không? Má tôi sanh mười bốn đứa con kể cả tôi. Bởi chị em đông lít nhít, có nhiều lúc bất chợt ai hỏi em tôi tên gì, mấy trai, mấy gái… tôi không sao nhớ được hết, phải ngồi đếm.

Chị lấy lon múc thêm nước, miệng kể:

– Anh và chị tôi đều lập gia đình, có tiệm buôn bán cũng khá lắm. Tôi thấy hoàn cảnh của anh chị mình dù có đồng ra, đồng vô nhưng cũng cực khổ quá, cứ quần quật trong việc làm ăn, buôn bán, việc chăm nom con cái, nhà cửa… Tôi thì không như họ. Tôi muốn thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn đó, nên đòi ba má phải cho tôi đi học. Tôi muốn sau nầy mình tự lập, muốn đi làm việc, muốn ở thị thành chân giày chân dép.

Nguyệt Nga đang thao thao, bỗng chị dừng lại vén mấy sợi tóc, nhìn Thể Hà cười mím chi, nói tiếp:

– Chị nghĩ coi, làm cô xẩm ở Hóc Bà Tó có vinh hiển chi đâu? Ngày nào cũng mặc đồ xẩm bằng vải bông hoa, màu mè. Áo cổ cao tay ngắn, nút thắt cài xéo qua bên nách, quần cao lòi mắc cá. Cho nên tôi mơ làm gái Việt ở tỉnh thành, mặc quần sa teng ống rộng, dài phết gót, áo dài bợ ngực, bó eo, tay che dù, tay ôm bóp đầm, mặt mày tô son trét phấn, miệng hát nhạc yêu lính líu lo. Ba tôi bắt mấy con em tôi đi học trường Tàu ở Mỹ Tho, sửa soạn văn hóa để sau nầy chúng lấy chồng chệt. Lúc nhỏ tôi ở với ngoại và các cậu dì, nên tôi nhiễm cái văn hóa Việt. Nhưng gia đình bên ngoại tôi nghèo. Cho nên tôi thích lên Sài Gòn…Ôi, tôi muốn nhiều thứ lắm! Nhưng mình muốn không qua Trời muốn chị à. Tôi thi rớt đệ thất trường công, nên đi học trung học tư thục Tân Dân ở Bến Tre. Hết năm đệ tứ, tôi rớt bằng trung học, má ba tôi bảo về để ổng bả gả chồng, tôi không chịu nên theo bạn bè lên Sài Gòn định kiếm việc làm và đi học đêm. Khoảng thời gian tôi ở nhà trọ người ta, tôi lại quen với em bà chủ nhà. Sau nầy, ổng là ông già của ba thằng con trai tôi đó chị.

Thể Hà nghe chị Nguyệt Nga say sưa kể chuyện đời mình. Nàng vẫn không nói gì, chăm chú lắng nghe. Chị Nguyệt Nga có vẻ hài lòng thích thú vì có người chịu nghe mình tâm sự. Chị kể tiếp:

– Ông chồng tôi tên là Nguyễn Duy Định. Lúc tôi quen ổng còn là đại úy làm ở đâu dưới bến Bạch Đằng. Tôi bị chị em ổng gạt. Bà chị chằn ăn trăn quấn của ổng nói là ổng chưa có vợ. Đến khi tôi mang bụng chè è thì bà vợ lù lù đến đánh ghen!

Nghe đến đây Thể Hà lạnh ớn xương sống phát sợ, nhưng nàng cũng tò mò, hỏi:

– Trời đất! Vậy sao? Chị có sao không? Hai người lấy nhau có đám cưới mà, phải không?

Chị Nguyệt Nga mau mắn, trả lời:

– Có chớ, có hỏi cưới đàng hoàng. Cũng có đãi ăn ở nhà hàng ngoài Chợ Lớn. Ba má và anh chị em tôi có lên dự. Còn bên ổng thì có vài người bà con và bà chị ổng. Họ bảo họ là hai chị em di cư từ Bắc vô Nam. Ba má họ qua đời hết rồi, họ hàng cũng không có ai. Lúc đám cưới, tôi có thai gần hai tháng, thôi thì nên tổ chức lễ tiệc đơn sơ cho rồi. Ai dè, tôi gần ngày sanh, thì vợ lớn của ổng đến. Chị biết không? Tôi như trên trời rớt xuống, khổ lắm chị ơi! Lúc đó tôi muốn chết cho rồi. Sau ngày vợ lớn ổng kiếm chuyện, tôi giấu nhẹm luôn với gia đình tôi, sợ má tôi buồn và ba tôi chửi. Chị nghĩ xem, chuyện cũng đã lỡ rồi, nếu mình làm rùm beng thì bị họ hàng, xóm giềng cười chê chớ có ích gì phải không?

Chị Nguyệt Nga mủi lòng, lấy khăn lau nước mắt. Thể Hà đang lúng túng không biết làm sao khuyên chị, thì chị lại mỉm cười như không chuyện gì vừa mới làm nước mắt chị tuôn giọt ngắn, giọt dài. Thiệt tình thì Thể Hà cũng biết tánh nhạy cảm của chị. Lúc kể chuyện thương tâm, chị tỏ vẻ buồn một cách bừa bãi, có khi khóc nhiểu khóc nhào nữa. Nhưng trong lúc kể chuyện gặp đoạn nào thú vị, mặt mày chị đổi ra vẻ hí hởn một cách ngon ơ, miệng cười toe toét, mắt long lanh thích thú. Chị tiếp tục câu chuyện:

– Ngày ấy qua lâu rồi, bây giờ tôi không còn nghĩ ngợi gì nữa cả. Nhưng mỗi lần nhắc đến thì tôi cầm lòng không đậu, chớ không có gì đâu, chị đừng có ái ngại. Sau khi con trai lớn tôi chào đời, tôi đến nhà bà vợ ổng, nói hết mọi điều cho bả nghe rằng tôi bị gạt chớ không phải tôi là kẻ cướp chồng bả đâu. Vì lúc còn con gái tôi dư sức tìm người chồng hơn ổng mà. Ổng lớn hơn tôi mười mấy tuổi lận. Bà vợ ổng có ý khuyên tôi nên tiếp tục làm vợ bé của ổng đi, bả sẽ không làm khó dễ tôi, vì bả bịnh không thể sanh đẻ được. Tôi nhứt quyết không bằng lòng. Nhưng đàn ông bỏ đàn bà thì dễ, còn đàn bà bỏ đàn ông khó lắm chị à. Ổng lại thương yêu chiều chuộng lo lắng cho mẹ con tôi đủ điều. Nhà ở, cơm ăn, áo mặc thì tôi không phải lo. Mọi thứ nhứt nhứt đều do ổng và bà chị ổng lo hết. Tết nhứt, vợ ổng còn đem quà cáp cho mẹ con tôi. Rồi đứa thứ hai, đứa thứ ba ra đời… Bên ổng, tôi muốn nói là chị, và vợ ổng thương ba đứa con tôi không thua gì tôi với ổng thương chúng. Nhưng tôi vẫn ghét cay ghét đắng mụ chị chồng tôi còn hơn ghét bà vợ của ổng nữa. Tôi hận ghét bả thiên thu vạn đại, oán thù bả cố đế thâm căn, tại vì bả rù quến tôi cho em bả.

Nói đến đây, mắt chị Nguyệt Nga long lên, trợn trừng hung dữ. Thể Hà nghĩ, nếu có bà chị chồng ở đây chắc chị ta sẽ ăn tươi nuốt sống bả ngay. Chị hùng hổ:

– Chị Nhựt nghĩ coi có tức không? Mình chân ướt chân ráo lên Sài Gòn. Bả thấy mình không biết gì, nên giới thiệu em bả cho mình. Bả nói ra nói vào, nào là ổng tốt, ổng biết nhiều thứ, nếu tôi cần gì thì ổng sẽ lo giúp cho… Rồi bả mua giấy cho tôi với ổng đi xem hát, đi ăn, đi dạo phố.,. Lúc nào bả cùng ca ngợi em bả đưa em bả bay lên tới mây xanh. Có một lần bả mời tôi ăn giỗ. Tôi thật ngu hết sức, ăn giỗ gì mà chỉ có tôi, em bả và bả, bả ép tôi uống rượu… Khi say rồi tôi không còn tự chủ được nữa… Tỉnh giấc thì chuyện đã rồi.

Thể Hà lắng nghe, hỏi Nguyệt Nga:

– Tôi hỏi thiệt, chớ trước đó, chị có thương ổng không?

Nguyệt Nga nói không cần suy nghĩ:

– Mình chỉ có cảm tình với ổng thôi. Còn ổng thì thương mình dữ lắm. Sự việc vỡ lỡ, mình xấu hổ với những người chung quanh, có mặc cảm phạm tội với ba má họ hàng. Lúc đó mình muốn tự vận chết cho rồi. Ổng biết được, khóc với mình và hứa trọn đời nầy sẽ lo cho mình. Còn bà chị ổng thì đã có sẵn tâm địa bất chánh từ lâu. Bả cố tình gán ghép cho mình với ổng, và lúc nào cũng làm bộ mắng chửi ổng cho mình hả dạ. Mình ghét nhứt là cái thứ tráo trở, cái thứ chỉ biết có mình, không biết chuyện thiệt hại cho người khác. Bởi vậy suốt đời bả tuyệt tử, tuyệt tôn, heo nái mai sau sẽ dẫy mộ cho bả.

Thể Hà lại hỏi:

– Tại sao vậy? Bà chị ông không sanh nở lần nào sao?

Chị Nguyệt Nga dịu giọng:

– Bả xấu xí, nên hơn năm mươi tuổi rồi mà chẳng có con ma nào hỏi tới.

Thể Hà cười nhẹ:

– Sao chị giận lâu dữ vậy, dầu gì ba đứa con trai của chị cũng là cháu gọi bả bằng cô ruột mà. Không phải chị đã nói, bả buôn bán cực khổ chắt mót tiền bạc mua nhà cửa cho mướn. Sau đó bả lại sang tên cho mẹ con chị sao? Thôi, bỏ đi chị ơi. Chắc bả cũng biết lỗi của bả rồi. Chị dắt mấy đứa con chị đi vượt biên, ông chồng chị có hay biết gì không?

Chị Nguyệt Nga cũng còn bực tức:

– Tôi đi thăm nuôi, tôi dắt theo ba đứa nhỏ ra thăm ổng ở Suối Máu. Tôi cho ổng biết mẹ con tôi sẽ đi. Ổng bảo đừng lo cho ổng, cứ dắt mấy đúa nhỏ rời Việt Nam càng sớm càng tốt. Rồi ổng khóc.

Nói đến đây chị Nguyệt Nga mủi lòng, mắt lại đỏ hoe. Nghe chị kể, Thể Hà cảm thấy cũng tội nghiệp, nhưng nghĩ lại chị còn đỡ hơn những người phụ nữ khác từ quê lên thành thị bị gạt gẫm rồi sa đọa xuống hố trụy lạc. Như thế họ còn đau khổ hơn gấp trăm ngàn lần nỗi khổ của chị.

Thể Hà nhận xét, bà Nguyệt Nga nầy hay nói và thích nói chuyện người khác. Bà không giữ kín trong bụng được chuyện gì cả. Nghe người nầy nói thì bả mau kể lại cho người khác nghe, lại hay “Tam sao thất bổn” rồi để hai bên lời qua tiếng lại, chửi lộn ỏm tỏi trời đất. Đôi lúc chị còn thêm mắm dậm muối cho câu chuyện lắt léo để đôi đàng sừng sộ với nhau chơi. Lúc nào đụng trận, chị cũng chối bai bải và đổ hô cho người khác chớ không phải lỗi ở chị… Ngoài ra chị còn hay gánh bàn độc mướn nên luôn đôi chối chửi lộn với kẻ khác như bằm bầu. Thể Hà mắc tức cười, nàng nghĩ không biết phải đó là niềm vui của chị ta không?

Bà Châu nhận xét về Nguyệt Nga:

– Cô Nguyệt Nga có cái miệng không tốt nên dễ làm mất lòng nhiều người, nhưng bụng dạ của cổ không xấu, “Khẩu xà, tâm Phật”. Hễ thấy ai ươn yếu thì cổ tìm cách giúp đỡ. Vợ thằng Đông, con còn nhớ chuyện mà cổ đã giúp đỡ nhiều người gặp khổ không?

Thể Hà cười, gật đầu biểu đồng tình với mẹ chồng:

– Thật vậy đó má. Má nhận xét không sai chút nào hết. Má còn nhớ cô Hương ở chung trại với bà Tư Thỏ Thẻ không? Chưa chồng mà bụng cô Hương mỗi ngày một bự. Có người nói ban đêm cô đi giặt đồ và tắm ở suối vắng vẻ nên bị tên vô lại hiếp dâm. Có người nói tàu cô bị cướp, cô bị hải tặc hãm hiếp… Bị người trong trại cười chê, cô Hương xấu hổ nhảy xuống biển tự vận. Chỗ cô nhảy xuống cũng sâu lắm, nhưng mạng chưa tới số, nên cô được người ta vớt lên, được làm hô hấp nhân tạo, cứu cấp ở bãi biển. Thuyền nhân các trại nghe tin tò mò chạy đến vây quanh xem rất đông. Người chép miệng thở dài, buông tiếng “Tội nghiệp”. Nhưng đâu phải ai cũng có lòng trắc ẩn đâu má. Người thì hằn học lòng dạ như sắt đá và dễ ghét lắm. Có người vô duyên thọt miệng: “Cho đáng đời, đồ ngu, làm bậy rồi giả đò chết. Đồ cái thứ đàn bà con gái hư…”. May mà lúc đó có chị Nguyệt Nga nghe thấy hết những lời xầm xì thúi miệng, khó ưa kia. Chị ta bèn xăn tay áo, đứng chống nạnh hai quai trước đám đông, mắt tóe lửa, mặt phừng phừng nóng giận, chị hét lớn: “Chuyện của con Hương đến đây là chấm dứt! Từ rày trở đi không ai được bàn tán đến nữa. Sao mấy ngươi không có lương tâm chút nào hết vậy? Bộ lương tâm của mấy người bị chó ăn hết rồi hả? Người ta đã nông nỗi nầy không giúp đỡ thì thôi, mấy người còn nói toàn là những lời ác nhơn, thất đức. Mấy người có giỏi thì đi đào mồ cuốc mả ông, mả cha thằng nào làm cho cái bụng con Hương bự đi. Không có cái thứ hèn hạ dâm đảng dám làm không dám chịu, vô trách nhiệm đó, thì cái bụng con Hương làm sao bự?

Một số người cười vì lời nói chẳng ngượng miệng của chị. Chị Nguyệt Nga nói như hét vào tai họ: “Bộ vui lắm sao mà cười? Mấy người thật là ác độc. Lời dèm pha của mấy người sẽ giết chết người ta. Một người hai mạng đó! Tôi van lạy mấy người im cái miệng thúi lại đi. Nếu con cái mấy người bị hiếp như nó thì mấy người nghĩ sao? Lúc đó mấy người đội quần mới đáng tội”. Má biết không? Nghe chị nói, có người cho là sự việc không phải của chị, bởi chị tào lao hay xía vào lo chuyện bao đồng. Nhưng những lời chị Nguyệt Nga la hét hầm hừ trước đám đông ấy vậy mà chận được lời xầm xì của những người ăn không ngồi rồi. Con nghĩ rằng chị Nguyệt Nga cũng chẳng kém ai đâu, mà còn lắm trò, lắm chuyện hơn họ nữa đó má. Nhưng chị lại tốt bụng khuyên bảo cô Hương hãy giữ đứa con trong bụng. Nó vô tội, chị hứa sẽ giúp đỡ mọi thứ cho cô Hương nếu chị có thể giúp được. Chị Nguyệt Nga còn bảo cô Hương dọn lại ở chung vói mẹ con chị để chị chăm sóc cho khi cô sanh đẻ.

Thể Hà nghe Nguyệt Nga chửi đổng người ta mà phát sợ. Nhưng nàng nghĩ, có lẽ đó là sự phát tiết mà chị Nguyệt Nga đã chịu đựng nỗi buồn khổ, tức giận ấp ủ trong lòng bao nhiêu năm qua, lúc chị bị mụ chị chồng gạt gẫm để làm vợ bé của người ta. Mặc dù hoàn cảnh hai người có khác nhau. Dĩ nhiên hoàn cảnh của chị có khá hơn cô Hương nhiều.

Nhớ lúc còn ở đảo Kuku, bà Châu má chồng của Thể Hà có lần bị cảm rất nặng, không thuốc men. Chị Nguyệt Nga nghe tin liền chạy đến cạo gió, bảo đốt lửa dưới gầm giường để giữ ấm cho bà, chị chạy đông chạy tây sang các nhà thuyền nhân tàu khác, ai chị cũng hỏi xin dầu, xin thuốc… Một phần nhờ chị mà má chồng Thể Hà qua được cơn bịnh hiểm nghèo lần đó.

Thằng con chị Nguyệt Nga đi làm mua được (hoặc của dân bản xứ cho) nãi chuối, mấy củ khoai luộc, khúc mía, trái đu đủ, trái dừa… (ở trại tị nạn với gia đình Thể Hà thật sự rất thích và rất quý) chị đều đem chia cho Thể Hà. Đông Nhụt đi làm thợ mộc cũng nhờ chị nói với thằng con lớn giới thiệu. Bởi nó quen với ông xếp và đang làm trong xưởng đó.

Thật sự, lúc đầu Thể Hà không ưa người đàn bà cái miệng lách chách, lép xép có cái tên Nguyệt Nga nầy. Nhưng dần dà nàng biết tâm chị thuộc loại khẩu xà tâm Phật nên ác cảm ban đầu với chị lần lần phai nhạt. Thường thì nàng gặp chị Nguyệt Nga ở chỗ giặt đồ, hay nơi cầu tiêu công cộng ngoài bờ biển khuất sau lùm cây dừa nước. Chị Nguyệt Nga hình như sắp sẵn những chuyện thu thập được ở trên đảo. Khi thấy nàng là chị liền kể lể cho nàng nghe chuyện nọ, chuyện kia chớ ít khi đợi Thể Hà hỏi, hoặc khơi chuyện trước. Vì thật sự nàng không để ý, nên không biết gì nhiều những chuyện xảy ra hàng ngày của những thuyền nhân trên hải đảo. Lo cho mấy đúa con, sợ chúng bịnh hoạn, lo không biết chừng nào mới được đi định cư, nàng rầu thúi ruột thì còn lòng dạ nào mà nghĩ đến chuyện không đâu. Bữa đó, Thể Hà dè dặt hỏi:

– Chị Nguyệt Nga, chị sống vùng nào lúc ở Sài Gòn vậy?

Chị vui vẻ, trả lời:

– Bên cầu Chữ Y, ở đó tôi còn có mấy căn nhà cho mướn nữa. Chu mẹt ơi, nhắc đến cầu Chữ Y tôi nhớ đến cái thuở tôi rảnh rang, tối tối hay thả bộ đến Chợ Quán. Khi thì tôi đi coi phim Tàu phỏng theo truyện kiếm hiệp của Kim Dung tại rạp Văn Cầm. Khi thì tôi xẹt đến đường Đồng Khánh ăn cháo Tiều nấu bằng tấm có để hột sen, bạch quả ngon rùng rợn đó chị. Cháo nầy ăn với hột vịt muối đã ngon rồi, mà ăn với khô cá hường chiên giòn thì tuyệt vời không còn lời nào để ca ngợi nữa. Lâu lâu, tôi còn rủ đám bạn đến đình Tân Kiểng để coi hát hội do nhóm Năm Châu, Ba Vân, Phùng Há, Kim Cúc tập tuồng. Ai cũng nói tôi giống cô Kim Cúc. Giống đâu mà giống, tôi không chịu đâu. Kim Cúc là nghệ sĩ lớn, so sánh như vậy thì tội nghiệp cô. Cho nên tôi chỉ cho tụi nó gọi tôi là cô Kim Gút ưa châm chích kẻ xạo đía, kẻ cà chớn.

Rồi chị mơ màng:

– Cầu Chữ Y tức là cầu Chữ Yêu đó. Hồi nẫm, khi mặt trời lặn, tôi ưa lên cầu hóng mát, tôi đã gặp một anh Trung sĩ Biệt Động Quân oai hùng trong bộ đồ lính trận rằn ri coi thiệt là oai phong trai, hào hoa trai, lành trai, đẹp trai, dễ thương trai… Khỏi chê vào đâu được chị ơi! Hai đàng đá lông nheo ôi thôi lia lịa, vậy mà rồi chẳng ai dám tiến xa. Khi tôi bỏ thú lên cầu hóng mát để khỏi làm trái đạo lý với chồng, tôi cũng biết đau thốn tim như ai vậy. Cho tới bây giờ, đôi khi ngủ nằm chiêm bao, tôi thấy anh Trung sĩ Biệt Động Quân kia đến bên tôi hát “Anh Là Lính Đa Tình”. Bản nhạc ấy, khi ảnh lên cầu Chữ Y hóng mát thường hút gió lảnh lót bên tai tôi. Ôi kỷ niệm đó quá là lãng mạn, quá là đẹp chị ơi! Thật là mối tình đáng cho con Nguyệt Nga nầy mang xuống tuyền đài cũng không tan.

Thể Hà giựt mình đánh độp! Trái đất nầy quá rộng, nhưng vẫn còn hẹp lắm! Ngay từ lúc mới quen chị bên đảo Kuku, chị xưng tên mình, nàng cứ nghĩ ngợi hình như gặp chị ta ở đâu? Cho mãi đến hôm nay, chị nói ở cầu Chữ Y thì nàng nhớ rõ mồn một, nhớ rõ li chi mọi thứ, không còn nghi ngờ gì nữa cả.

Thể Hà cố tâm hỏi, nhưng vẫn ỡm ờ. Trong khi Nguyệt Nga không hề biết dụng ý của nàng, nên vui vẻ, say sưa nổ như pháo Tết thao thao bất tuyệt kể những chuyện chung quanh xóm mình lúc còn ở quê nhà.

Thể Hà dè dặt, hỏi:

– Chị Nguyệt Nga nè, chị ở cầu Chữ Y mà chị có biết chị Thái Vân không? Tôi nghe chị ấy nói, chồng chị hồi học bác sĩ mướn nhà ở đâu trong xóm đó.

Chị Nguyệt Nga, châu cặp chân mày như cố nhớ lại. Bỗng chị “à” một tiếng, đánh bàn tay vào đùi nghe cái chát, cười ha hả:

– À há, tôi nhớ ra rồi! Có phải Thái Vân đô con, thân mình xét-xy, nước da trắng, tánh tình vui vẻ dễ thương lắm phải không? Mà cổ là gì của chị vậy?

Thể Hà trả lời:

– Chắc là đúng rồi đó, chị Thái Vân là bạn học của tôi hồi trung học, có lần gặp lại, chỉ có khoe là chồng chỉ đang học y khoa. Họ mướn nhà ở đâu bên cầu Chữ Y, nay nghe chị nói chị ở đó, tôi bỗng dưng nhớ đến hỏi thăm vậy mà, chớ cũng không có gì là quan trọng.

Nguyệt Nga cười tươi như hoa. Thể Hà có cảm tưởng là mình đã gãi đúng vào chỗ ngứa của chị, gợi cho chị có đề tài để chị ba hoa. Đối với Nguyệt Nga những chuyện như vậy có lẽ đó là niềm vui. Chị vẫn bổn cũ soạn lại như mọi lần, trước khi kể chuyện gì của ai, chị đều bắt đầu bằng:

– Tôi nói chị nghe, chị đừng nói lại với ai nghen. Nhưng cái cô Thái Vân nầy cũng không ai mà biết. Đã qua bao nhiêu năm rồi, bây giờ cổ ở đâu, chị có biết không chị Nhựt?

Thể Hà lật đật trả lời:

– Dạ không. Tôi gặp chỉ lần đó thôi.

Chị Nguyệt Nga thở dài thườn thượt, chép miệng:

– Thật là hồng nhan bạc phận. Cô Thái Vân đó có hoàn cảnh bị đát lắm, cũng không thua gì tôi. Nhưng tôi đỡ hơn cổ nhiều, dù tôi bị gạt nhưng cũng có người cầm trầu, cầm cau danh chánh ngôn thuận đến cưới hỏi đàng hoàng. Sau còn có nhà cửa đất đai, không nhiều nhưng của cải đó nuôi sống được mẹ con tôi. Còn cô Thái Vân bị thằng cha tên Bá, thuồng luồng, hà bá trời đánh thánh đâm, cái đồ ôn dịch, cái thứ Thiên Lôi đánh bảy búa không chết đó gạt cổ cả tình lần tiền chị ạ..

Thể Hà làm bộ như không biết gì, hỏi:

– Ủa chồng chỉ là bác sĩ mà, sao lại như vậy? Chắc là chị nói lầm người khác rồi?

Chị Nguyệt Nga trở giọng đanh đá, quyết liệt:

– Không, không đâu, đúng là Thái Vân đó rồi chị ơi! Thằng cha bác sĩ dõm đâu phải chồng cổ, chỉ là người tình thôi. Thằng chả là cái thứ không ra gì, chỉ học bác sĩ đâu chưa đầy một năm thì không biết bị đuổi hay học không nổi, nhảy ra ngoài, lại mang thói cờ bạc, rượu chè be bét. Đã không nuôi cô Thái Vân mà còn bám đít đàn bà để sống. Thiệt là cái thứ bạc nhuợc, cặn bã, rác rưới đâu không hà. Thằng chả hễ lấy được tiền của cô Thái Vân thì đi nhậu nhẹt, đi đánh bài mút chỉ cà tha, đến hết tiền mới mò đầu về để khảo tiền nữa. Cổ không có tiền thì nó chửi bới, đánh đập.

Chị dừng lại, chép miệng thở dài:

– Tôi nghĩ mà tội nghiệp cho phận đàn bà. Chị coi cô Thái Vân có xấu xí chi đâu, tánh tình cổ hiền lành, vui vẻ, dễ thương, mà yêu nhằm cái ngữ đàn ông tồi tệ, thật là tội nghiệp hết sức. Có lẽ đó là cái số phận chị à. Thương cô Thái Vân bao nhiêu thì tôi thù cái tên đốc tờ giả mạo đó bấy nhiêu. Chị Nhựt, chị có biết là sau nầy cô Thái Vân bỏ thằng mắc toi đó đi lấy chồng Mỹ, và theo chồng qua nước của ổng lâu rồi không?

Thể Hà lắng tai nghe, rồi lững lờ:

– Vậy sao? Tôi không biết chuyện nầy.

Chị Nguyệt Nga mạnh giọng:

– Thằng bồ bác sĩ giả của cô Thái Vân từ khi bị cổ cho gie nên sanh tật nhậu nhẹt nhiều hơn xưa. Cô Thái Vân đi rồi, nhưng nó vẫn còn mướn nhà tôi. Tiền nhà, tôi không bớt một cắc, và trả tiền nhà trễ tôi đòi tống cổ mấy lần đó. Thằng chả nghi tôi xúi biểu cô Thái Vân đá giò lái nó nên nói đon nói reng, chọc quê, mắng xéo tôi. Tôi có coi thứ mặt gà mái đẻ đó ra cái thá gì đâu, nên tôi không thèm chấp nhứt nó. Chị biết không? Có hôm nó uống rượu ở quán nhậu trước nhà tôi. Nó giả bộ say, ngâm thơ như vầy để móc xỏ tôi, nào là: “Má ơi, con má chửa hoang. Trong xóm ngoài làng thiên hạ cười chê… “.

Trước vẻ mặt phụng phịu của chị, Thể Hà không nhịn được, ôm bụng cười muốn nghẹt thở. Chị Nguyệt Nga vẫn còn ấm ức trong lòng, hằn học nói tiếp:

– Tôi không biết sao cô Thái Vân lại đi yêu cái tên đốc tờ giả hiệu đó. Nó chỉ có cái miệng đía xạo, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi chớ có cái gì đâu? Con Nguyệt Nga nầy vốn thù dai. Nó đâu có tha cái tội mượn rượu giả say ngâm thơ chọc quê của tên đốc tờ giả hiệu đó. Có một hôm, nó đến trả tiền nhà. Tôi giả nhơn giả nghĩa mời nó uống cà-phê. Tôi làm bộ hỏi thăm chuyện nầy chuyện kia với nó. Rồi tôi đặt dóc là tên chồng Mỹ của cô Thái Vân đẹp trai còn hơn Alain Delon, cưng Thái Vân thiếu điều đội cổ trên đầu. Tên Mẽo tặc đó sắm cho Thái Vân chiếc xe Mercedes và chiếc cà rá hột xoàn thiệt bự, thiệt là nặng chọi con chó sẽ lỗ đầu. Tôi còn giả mù sa mưa mắng nhiếc móc xỏ cái tên Cao Nhân Hà Bá đó là: “Cô Thái Vân tâm sự với tôi, cổ mà lấy chồng Mẽo rồi, thì cái thứ chồng nội hóa cà chớn cổ coi như giấy lau tay, đáng vứt vào thùng rác, hoặc giấy đi cầu đáng vứt vô cầu tiêu giật nước một cái rột. Chồng Mỹ cưng vợ nè, đi mua sắm với vợ nè, vợ đi chợ về ra xách đồ vào dùm nè, ăn xong rồi rửa chén nè, chùi nồi niêu soong chảo cho vợ nè. Còn khi ân ái biết chiều chuộng, âu yếm, cưng yêu vợ nè. Còn khuya mới có chuyện chồng chúa vợ tôi…”. Chèn ơi, chị biết không? Cái thằng mặt gà mái ngồi nghe, cười gượng gạo, mặt sượng ngắt như củ khoai từ cùi, thấy muốn vả cho gãy hết mấy cái răng hô cào cỏ của nó cho rồi. Tôi còn chêm thêm là Thái Vân yêu chồng tha thiết, vắng chồng một ngày là ả ta như đạp đống lửa, như ngồi đống than, xốn xang lắm lắm!!!

Nguyệt Nga cười ha hả có vẻ đắc ý lắm. Chị hỏi Thể Hà:

– Mà chị Nhựt có đồng ý với tui không? Cô Thái Vân đẹp, cổ có thể đi đóng phim chung với Vân Hùng, La Thoại Tân thì thiệt là xứng cặp, xứng đôi. Nhan sắc của cổ phải làm vợ của ông cố vấn đẹp trai Hoàng Đức Nhã mới đáng. Ổng mà lấy được cổ thì trở thành Hoàng Đã Nhứt. Thiệt tình ông Tơ Hồng bà Nguyệt Lão không uống cà-phê, cứ ngủ gục nên xe duyên bậy bạ tầm ruồng cho cổ cáp đôi với tên Hà Bá đó. Cao Nhân Như Bá cái con kỳ đà, con rắn mối á. Chắc thằng ôn dịch đó sanh ra ở gần kho đạn nên nổ om xòm, nổ quá trời, lại còn láo khoét, đía vang rân, ba xạo nữa. Thật là cái thứ chó chê, mèo mữa không ra gì. Có lẽ hồi kiếp trước cô Thái Vân gây oan trái với thằng khốn nạn đó, nên kiếp nầy cổ bị nó hành hạ nhừ tử như tương, mà coi bộ cổ cũng còn ai hoài tình xưa nghĩa cũ trước khi xách va ly theo chồng về xứ Huê Kỳ. Chị nghĩ xem, đó là nợ chớ duyên cái nỗi gì? Nếu là duyên thì là duyên cà chớn, duyên yêu nghiệt.

Thể Hà chăm chú nghe Nguyệt Nga kể chuyện, lòng vừa ngậm ngùi thương xót Thái Vân, vừa mắc tức cười bà Nguyệt Nga nầy. Bỗng tiếng gọi hối thúc của thằng nhỏ con bả:

– Mẹ, anh Hai đánh lộn với người ta dưới bờ biển kìa.

Chị Nguyệt Nga vội vã chạy đi, còn quay lại nói vói với Thể Hà, vừa càm ràm con:

– Bữa nào mình nói chuyện tiếp nghen chị Nhựt. Tại sao nó đánh lộn? Tụi bây thật là đồ yêu lồi, không để cho tao vên ngày nào hết. Ba tụi bây hiền như thầy sãi Tam Tạng, mà sao tụi bây giống ai đâu, du côn, du đảng, háo chiến, háo thắng. Thật tao rầu quá đi!