CHƯƠNG CHÍN
Tạo hóa sanh ra con người trên thế gian nầy. Ngài đã tạo cho con người chúng ta nhiều khổ đau cũng cho nhiều điều tốt, điều hay và hạnh phúc sau đó!
Người Tàu luôn đứng hàng đầu trong ngành buôn bán lớn nhỏ. Họ sống khắp mọi nơi trên thế giới. Ở tận góc biển chân trời ra vùng hải đảo, nơi nào có đất, có cỏ cây cũng đều có họ. Đi tị nạn đến đâu thì họ cũng len lỏi tìm cách bán buôn đến đó. Trong lúc bôn đào, họ cũng tìm ra sinh kế. Mỗi sáng sớm, họ chịu khó đi mua cá biển của dân chài địa phương về bán lại cho những người đồng hành. Họ đi đón mua thịt heo, thịt bò, gà, vịt… Sau dần dần, ngoài những người dân địa phương xây cơ sở, mở tiệm bán thức ăn và gia dụng…, những thuyền nhân tị nạn đa số gốc Hoa còn mở quán cà-phê, quán phở… Đêm đêm, còn có cả ca nhạc sống v.v…
Rồi những cuộc tình nẩy nở giữa những thuyền nhân độc thân tại chỗ, độc thân bất đắc dĩ hay độc thân tạm thời, vì hoàn cảnh nào đó, chồng hay vợ con còn kẹt lại bên kia bờ đại dương. Rồi những cuộc cãi vã, chửi bới giữa mẹ chồng nàng dâu, anh rể em vợ, cha con, chồng vợ… Trong gia đình cãi cọ. Bên ngoài gia đình gấu ó. Rồi những cảnh đấu võ miệng vì vay nợ, rồi giựt tiền, rồi đánh ghen… Những chuyện nát lòng, dở khóc dở cười đầy dẫy xảy ra như cơm bữa hàng ngày ở đây.
Tiếng la ó giữa đêm trường vẳng lên trong khi mọi người đang say giấc ngủ. Rồi tiếng chân chạy thình thịch, tiếng cầu cứu, kêu khóc, chửi bới như dậy giặc, tưng bừng, tở bở, làm cả trại thao láo. Những người ở những trại kế bên dở mùng thò đầu ra ngó, người chạy đến xem… Mỗi người một tiếng, xì xầm, kể lể, bàn tán xôn xao, có ca có kệ như mình là người trong cuộc, biết rành rọt hết mọi sự việc vừa xảy ra…
Thì ra, nửa đêm khuya khoắc, có tên nào đó dám chun vô mùng mò vợ người ta! Nồi đất, nồi đồng ơi, ông chồng vừa chửi thề văng tục, vừa la ó vang rân: “Đồ cái thứ trôi sông lạc chợ, nó ăn gan hùm, uống mật gấu mới dám chui vào mùng của người ta…”. Có người xì xào: “Ôi, còn chửi rủa ai chi cho mệt! Vợ ổng không dở mùng ra hiệu, thì đố cha thằng đó biết chỗ nào mà chui vô? Sao các mùng khác nó không chun, mà chun vào ngay chỗ bả nằm?”. Ông Ba già ở trại kế bên, bất đắc dĩ trở thành thầy chuyên coi chỉ tay cho vui ở trại. Dần dà ông được trả thù lao, nay kiếm ăn tạm cũng đỡ lắm. Bị đánh thức, ngủ lại không được, ông ngồi vấn thuốc hút, rung đùi lim dim đôi mắt ngâm nga: “Nửa đêm gà gáy ó o. Sao anh không ngủ còn mò đi đâu?”
Rồi những mối tình danh không chánh, ngôn không thuận sinh sôi, nẩy nở… Rồi chửa hoang, đẻ lạnh… Thiệt tình! “Những điều nghe, thấy mà… vui nát lòng”. Đó là câu nói truyền miệng châm biếm dạo đó rất thịnh hành ở các trại trên đảo Ga-Lăng.
Vợ chồng Đông Nhựt và mẹ chàng chiều chiều thường dắt mấy đứa nhỏ lên chùa. Nàng dạy các con nguyện cầu Trời Phật cho cả nhà được bình yên, và sớm định cư. Đông Nhựt ít khi vào chùa, chàng chỉ đi loanh quanh bên ngoài hút thuốc, nhìn trời hoặc ngắm sao. Trừ những ngày rằm lớn có mấy sư người Tàu, từ Singapore đến giảng kinh bằng tiếng Tàu và tiếng Anh chàng mới vào nghe. Lúc ban đầu, Thể Hà nghe như vịt nghe sấm, chắng biết chi cả, chỉ đoán mò nhưng cũng đi nghe cho thời giờ trống trải, nhàn rỗi ngắn bớt. Nghe riết dần dà rồi cùng quen, tuy không hiểu lời nhưng hiểu ý.
Thường vào những mùa trăng, bà nội trông chừng các cháu đã ngủ yên. Vợ chồng Thể Hà hay lên chùa để tìm phút yên tịnh qua cửa Từ Bi, và ngắm nhìn núi non bao la hùng vĩ của vùng nước non có nhiều đảo nổi tiếng trên bản đồ thế giới nầy.
Trăng vàng rực cả một vùng trời phía đông. Trăng như nhoi lên từ lòng biển cả, rồi từ từ vầng trăng đầy đặn như cô gái xuân thì. Trăng ngạo nghễ ở phía chân trời xa, lé đé trên mặt biển rộng lớn bao la, dài ngút ngàn, không thấy bến bờ, vô tận. Biển hiền dịu, nhấp nhô lăn tăn sóng dưới bầu trời sáng bàng bạc với muôn vì tinh tú thao thức trong đêm. Gió nhẹ là đà, hòa với nhịp sóng vỗ vào bờ rì rào như thì thầm lời tâm sự. Trăng từ từ lên cao tỏa ánh sáng rực rỡ xuống muôn loài. Trăng càng lên cao, ánh trăng càng sáng, tạo thêm vẻ hùng vĩ cho những ngọn đồi núi chập chùng xa xa trên vùng nước bao la khi ẩn khi hiện. Ánh sáng vàng óng mượt của trăng làm cây lá rừng thêm đậm nét thâm nghiêm thơ mộng. Gió thổi nhẹ, một vài cụm mây trắng nhẹ nhàng bay dạt về một góc trời xa, làm trăng thêm trong sáng, lộng lẫy. Rừng phi lao dưới mé biển uốn éo va chạm vào nhau, tạo thành âm thanh rì rào như thì thầm theo từng đợt gió lùa.
Hai vợ chồng Thể Hà yên lặng nắm tay nhau, len lỏi qua các cây ăn trái trồng chung quanh chùa. Chàng dắt nàng lần ra hậu viện ít người đến. Những con đường mòn phủ đầy lá cây khô, bước chân của họ giẫm lên lá nghe rào rạo. Cả hai leo thêm một đổi dốc cao, bước lên từng bậc thang một lên đồi.
Lưng chừng đồi không có nhiều cây cành lá che khuất. Không ai bảo ai, hai vợ chồng Thể Hà hướng tầm mắt nhìn về biển. Trên triền núi cao, cả hai có thể thấy biển được rõ ràng hơn. Dưới ánh trăng huyền hoặc lung linh, sóng biển dập dồn, lượn nầy nối tiếp lượn kia đưa đẩy nhau vào bờ, tạo thành những làn bọt trắng xóa phản chiếu ánh trăng óng ả, tô sắc lóng lánh cả một vùng bao la bát ngát. Tiếng thì thầm của biển khơi hòa với tiếng gió thổi vi vu, tiếng reo của cây lá rừng, tiếng hải âu oang oác gọi nhau giỡn trăng, chập chờn trên không trung, ảo ảo, mờ mờ. Tiếng mõ, tiếng đại hồng chung ngân nga từ chùa vọng lại… tạo cho vùng hải đảo âm thanh và cảnh sắc diễm tuyệt, dễ khiến cho nỗi u buồn, phiền muộn, lo lắng trong lòng của cả hai người tản mác rời xa.
Nếu thế nhân đừng lâm vào hệ lụy trong những cảnh ngộ đau khổ, thù hận, ghét ghen, đừng tham lam, tị hiềm, ác hiểm, bạo tàn… Nếu trên trần thế mọi người giàu lòng thương yêu, tha thứ thì đi đâu chi cho xa, mơ mộng chi nơi bồng lai tiên cảnh hảo huyền… Nơi đây, vùng hải đảo hoang sơ thanh vắng nầy cũng quá đủ đầy.
Giữa lúc Thể Hà suy gẫm tình đời, cuộc bể dâu và mơ đến ngày được đặt chân lên đất nước Hoa Kỳ thì nhận được thư của Thái Vân kể công:
“Michigan, ngày…
Thể Hà thương mến,
Lời tao van vái Trời Phật được ứng nghiệm rồi đó. Mầy cùng gia đình rời được xứ sở Việt Nam là do cái đức nhơn hậu cùa ba tụi mình để lại cho mầy và cũng do lời cầu nguyện của tao.
Nhận được thư mầy từ đảo ở Nam Dương gởi qua, tao mừng quá! Tao gọi điện thoại ngay cho Xuân Hà, gọi cho ông xã tao ở sở làm, gọi cho mấy người quen (dân bản xứ). Tao gọi lung tung. Và ngày đó tao cũng chẳng nuốt được hột cơm nào. Tao lật đật lấy giấy viết thư hồi âm cho mầy, nhưng tao không biết viết gì trước, viết gì sau, vui mừng quá nên viết tưới hột sen, viết rồi xé, xé rồi viết. Lá thư nầy là lá thứ ba đó nghen mậy. Tao còn nhớ lời ba khuyên tụi mình:
“Con gái đừng nên quá bộc lộ tình cảm ra ngoài mà lỗi số, phải điềm đạm, đoan trang, thùy mị thì mới có hậu phước, có duyên lành.”
Tội nghiệp cô Hai bỏ mạng ngoài hải đảo xa xôi.
Bả tuy không thương yêu tao, nhưng bả không ác độc, không cay đắng. Bả chỉ hơi nhẩn nhẩn the the thôi. Bởi tao bộc tuệch, tuy không lăng loàn nhưng lẳng ngầm nên bả ghét cũng phải.
Mầy tin đi, Thể Hà. Vợ chồng mầy mà định cư trên đất nước Huê Kỳ nay rồi sẽ ăn nên làm ra. Má chồng mầy hiền lành, ăn ở có đức thì con cháu bả tàn mạt sao được? Còn phu quân mầy ăn ở trung hậu, chịu khó, giỏi bươn chải. Nếu tụi bây trở lại nghề cũ như trước thì sẽ làm giàu. Còn nếu tiếp tục theo dõi khoa bảng thì vợ chồng mầy và các cháu sẽ làm rạng rỡ gia đình mấy hồi.
Tao mừng quá, nói sao cho hết lời đây? Kèm theo thư nầy là măng-đa tao gởi mầy để có thêm cá thịt trong bữa cơm và các cháu ăn bánh.
Chúc vợ chồng mầy chân cứng đá mềm, mau mau sang đây để tụi mình đoàn tụ.
Bà chị hờ của mầy.
Thái Vân”