← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI

Những thuyền nhân độc thân, không có gia đình đi theo, cứ ăn rồi ngủ, hoặc đi uống cà-phê, tán gẫu, nhậu nhẹt riết rồi cùng chán lắm. Người có gia đình thì đi xách nước suối, dắt con đi tắm, xem báo. Ai có nghề gì biết gì thì ra giúp cho hội đồng trại để cho ngày tháng được qua mau.

Chị Nguyệt Nga rên rỉ:

– Tôi đẻ yêu, đẻ quỉ không hà chị Nhựt ơi. Mấy thằng con ôn dịch của tôi hết phá xóm phá làng rồi đánh lộn với nhau. Tôi mong rời khỏi đảo nầy, sang Hoa Kỳ sớm hơn. Tôi sẽ tống tụi nó vào trường cho khỏe thân.

Bà Châu nghe Nguyệt Nga nói, phì cười “Còn tưởng trường học ở Mỹ là trại giáo huấn không bằng!”. Rên rỉ cũng là cái tật của Nguyệt Nga. Có lần chị ta bị Đông Nhựt chọc quê:

– Chị Nguyệt Nga à! Rên là cái tật của chị phải không? Sướng chị cũng rên, khổ cũng rên, ghét ai cũng rên, thương ai cũng rên. Chừng nào chị bỏ được cái tật rên là được vào danh sách đi định cư ở nước thứ ba liền.

Đợi Đông Nhựt đi chỗ khác, Nguyệt Nga cười ngỏn ngoẻn bảo với Thể Hà:

– Ậy, lúc ân ái với chồng, tui nín khe, chẳng dám rên một tiếng.

Thể Hà cười đỏ mặt, lắc đầu:

– Chị nầy thiệt tình, ưa nói trây mà không biết nhột miệng.

Nguyệt Nga liếc xéo:

– Nếu nhột miệng thì tui đương thèm nói.

Thể Hà nghiệm thấy rằng, giữa Thái Vân và nàng có tình yêu thương ruột thịt, giữa Xuân Hà và nàng có tình họ hàng. Nhưng đối với chị Nguyệt Nga nầy nàng thấy thân thiết gần gũi qua tình bạn bè, tình chòm xóm chân thành. Hễ gặp chị là nàng cảm thấy lòng mình rạng rỡ, chan hòa ánh nắng và phơi phới cơn gió mát quê hương.

Một tuần hai đêm, Thể Hà đi làm thí công ở phòng sản khoa bịnh viện của trung tâm tị nạn Cộng sản vùng Đông Nam Á Ga-Lăng. Nàng phụ giúp cho sản phụ và hài nhi không có thân nhân sau khi họ sanh con. Công việc không nặng nề, nhưng nàng không ngủ được dù không có sản phụ sanh vào đêm nàng trực cũng vậy. Lúc đầu nàng chưa quen thức đêm nhưng dần dà rồi cùng đâu vào đấy. Nàng có mất mát chi đâu, gạo, cá hộp, thịt hộp, rau cải hộp đủ cho cả nhà ăn. Hai tuần được lãnh một lần không phải trả tiền. Nay lại thỉnh thoảng được Xuân Hà, Thái Vân tiếp tế chút đỉnh tiền bạc cũng đỡ lắm. Bây giờ gia đình nàng chỉ mong chờ sớm được định cư thôi. Những hài nhi mới ra đời từ thân thể đến tâm hồn đẹp như thiên thần. Nàng rất thích và vui vẻ với việc làm không công hiện tại của mình.

Đông Nhựt xin đi bào cây trong trại cưa cho nhà thầu người Indonesia xây cất khu trại Ga-Lăng mới (Ga-Lăng 2), để có thêm chút ít tiền bản xứ mua thêm rau, trái tươi cho gia đình và không cảm thấy thời gian quá dư thừa. Công việc bào cây là nhẹ nhứt mà chàng may mắn kiếm được nơi trai tạm cư nầy. Đông Nhựt đâu có biết bào cây, chặt củi, nhưng “Ngộ biến phải tùng quvền”, ông bà ta nói thế, hoặc là “đói rồi thì đầu gối cũng phải bò”. Ngày nào đi làm về, Đông Nhựt không bị đứt tay cũng xuể chân, trầy mình. Nhưng chàng vẫn vui cười hì hì, trong khi vợ chàng thầm thở dài xót xa thương chồng… Biết được tâm ý của vợ, Đông Nhựt thường khuyên bảo:

– Từ rày trở đi, chúng ta phải đương đầu với thực tế, tập quen dần vất vả để qua bên kia định cư tạo dựng lại mọi thứ từ đầu. Chúng ta phải nhờ vào sức mình, không thể ỷ lại bất cứ một người nào cả. Em hãy chuẩn bị tinh thần, đừng nản lòng nghen. Phải giúp anh, cùng anh vượt qua những khó khăn mà anh chắc chắn nó sẽ đến với chúng ta. Tương lai sẽ tốt đẹp ở bến bờ tự do. Anh nghĩ lại, sự quyết định bôn đào xa vùng Cộng sản của gia đình mình phải trả giá đắc quá, nhưng rất sáng suốt và chánh đáng. Em hãy vững lòng tin. Rồi đâu cùng sẽ vào đó cả, ngày mai trời lại sáng em ạ.

Dòng lệ cảm động tràn mi, Thể Hà mỉm cười gật đầu tán đồng và bằng lòng về những ý nghĩ thực tiễn của chồng.

Mấy lon cá hộp lãnh hôm kia, bà Châu đem chiên lại, thêm gia vị muối đường bột ngọt vào để ăn cho đỡ ngán, ơ canh cải bẹ xanh nấu nêm bằng bột ngọt và có thêm mấy cục tép mỡ chị Nguyệt Nga cho chiều hôm qua, tuy không nhiều nhưng sao mỡ kết chùm loang loáng trên mặt trông hấp dẫn vô cùng. Nồi cơm bốc khói, trắng phau phau nhưng vẫn còn nguyên vẹn không ai buồn ngó đến? Bởi khi Đông Nhựt đi dò trên bảng phong thần về, chàng cho biết gia đình có tên trong danh sách đi định cư ở Mỹ nhằm ngày mùng bốn Tết Nguyên Đán sắp tới nầy. Hôm nay là ngày 22 tháng Chạp. Ngày mai 23, đưa ông Táo về Trời. Còn độ mười ngày nữa thôi, gia đình nàng được đi qua Mỹ!

Thể Hà không ngăn được dòng lệ vui mừng! Ôi, vùng trời xa lạ hứa hẹn một tương lai tươi sáng cho lũ con nàng. Nơi xa lạ sắp đến đó, ngày xưa, thuở còn học trung học nàng đã học, đã thấy trên bản đồ nước Mỹ trong sách, thấy những con đường cao, đường thấp, đường nọ cắt đường kia, lối nầy sang lối khác…. Bao nhiêu là sự mới lạ đang chờ đón gia đình nàng. Chợt bà Châu vui vẻ, hỏi:

– Thể Hà, còn mấy hôm nữa gia đình mình rời chốn nầy. Má vui mừng quá đi thôi, nhưng má cũng thấy hơi buồn. Con người ta thì như vậy, ở đâu quen đó, ở lâu thì thấy mến thấy thương chỗ mình đã từng nương náu. Cho nên ở hoàn cảnh nào, dù cho má có giận, có ghét bỏ ai đi nữa, nhưng trước khi từ giã lúc nào má cũng thấy lòng mình bùi ngùi. Thể Hà à, mấy hôm rày có gió chướng, má nhớ những ngày cận Tết ở quê mình lắm. Con có biết má nhớ gì không?

Nghe bà già chồng hỏi bất ngờ, nàng không biết mẹ chồng mình nhớ đến thứ gì, cái gì? Vì xa quê hương thì trong lòng ai không nhớ, không thương. Ôi, hàng vạn vạn những kỷ niệm vui có buồn có, xếp cao chất ngất, dài vô tận, không thước, không gì có thể đo lường được, không bút mực nào diễn tả hết… Nàng mỉm cười, trả lời đại:

– Chắc là má nhớ Tết ở Việt Nam, nhớ bánh phồng, bánh tráng, nhớ những món ăn đặc biệt trong ba ngày Tết, phải không má?

Bà Châu với ánh mắt thương yêu, nhìn con dâu mình:

– Con nói đúng, má nhớ khoảng mùng mười tháng Chạp trở đi, gần như mọi nhà ở thôn quê đều làm bánh tráng, quết bánh phồng nếp, bánh phồng khoai. Những nhà ở dọc theo Quốc Lộ Bốn, họ thường phơi các vỉ bánh tráng trên lộ, bởi trên mặt bánh nắng chang chang rọi xuống, không bị cây cành gie bóng mát che khuất, mặt dưới bánh nhờ hơi nóng bốc lên của mặt đường trải đá hay tráng nhựa làm cho bánh mau khô. Có nhà còn phơi lúa.

Bà thở dài trong niềm nhớ, rồi nói tiếp

– Trong một vài sở rẫy dọc theo hai bên lộ, dân quê trồng đầy dưa hấu, lúc đó lá sắp tàn rụi, trái dưa hấu tròn trịa, vỏ xanh biếc nổi vân cẩm thạch, hoặc vỏ đen như bôi lọ nghẹ chờ người cắt chở ra chợ, ra thành thị bán trong dịp Tết. Có nơi họ trồng cải xanh, cải trắng, rau thơm, khổ qua… Củ cải trắng hầm giò heo để cúng trong mấy ngày Tết, thật ngon quá đi thôi! Khổ qua dồn cá thác lác. Nhà nhà tát đìa, tát hầm, đi nôm, đi đăng, giở chà để kiếm cá rọng ăn trong ba ngày Tết khỏi phải ra chợ mua. Họ gói bánh tét, bánh ích, nhà nào khá thì gói nem, gói bì, làm lạp xưởng… Còn quít đường chín vàng cả cây, cam sành vàng ngã đỏ, bưởi, xoài đầu mùa… của những chủ vườn để dành bán cho người ta chưng cúng Tết. Ôi, má nhớ Tết ở vùng quê miền Nam của mình lắm con à.

Rồi mắt bà thoáng buồn nhìn phương trời xa. Bà chép miệng bẩm bẩm như nói riêng với chính mình:

“Thật vậy, chỉ ở thôn quê của mình không khí Tết mới rõ ràng, mới nồng nàn ấm áp mà thôi”.

Thể Hà quý trọng và thương yêu mẹ chồng vô cùng. Vì từ bé nàng được bà chăm sóc dưỡng nuôi, lớn lên lại làm con dâu bà. Bà thương yêu nàng còn hơn thương con ruột của mình. Bà sống lây lất ở đảo chưa được một năm, mà tóc bà đã bạc nhiều hơn xưa. Nàng luôn thầm cầu nguyện Trời Phật, tổ tiên hai bên phù hộ cho gia đình nàng sớm định cư, cho má chồng nàng khỏe mạnh để bà được an hưởng tuổi già ấm êm hạnh phúc bên con cháu dưới vùng trời tự do, trên đất nước giàu mạnh mà gia đình nàng sẽ định cư.

Hôm nay tin được đi định cư Thể Hà cảm thấy như luồng gió mát rượi giữa buổi trưa hè oi ả, thấm mát tâm hồn mọi người trong gia đình nàng.

Định cư, đó là nỗi vui mừng lớn làm những người như bà Châu, Đông Nhựt, Thể Hà không sao ăn uống cho vô. Đông Nhựt lật đật đi xin nghỉ việc bào cây. Chủ trả công cho mấy ngày đã làm, được 400$ tiền bản xứ, chàng dắt ba đứa nhỏ lại tiệm cho chúng mua nào bánh kẹo, trái cây tươi, mà chúng thèm khát đã lâu ngày. Thái Dương ôm khệ nệ nãi chuối ngự chín cây có màu vàng tươi rói đưa cho bà nội, và nói với mẹ:

– Hôm nay ba cho chúng con mua bánh kẹo nhiều lắm mẹ ạ. Con biết bà nội và mẹ ưa chuối nấu, nên con xin ba mua nãi chuối nầy.

Thể Dao tăng lăng tíu líu:

– Mẹ, mẹ, con mua cây kẹp đen cho mẹ kẹp tóc. Mẹ đừng rầy, không có mắc đâu. Bởi hôm dắt chúng con đi tắm suối mẹ làm rơi cây kẹp tìm hoài không được. Đến nay, mẹ vẫn quấn tóc bằng sợi dây thun. Mình qua Mỹ mà quấn tóc bằng dây thun, người ta sẽ cười mình phải không mẹ?

Thể Quỳnh hai bên miệng độn hai cục kẹo vừa chép chép, vừa cười hí hí, tay móc túi, nói:

– Con biết mẹ thích loại kẹo dừa nầy lắm. Kẹo ở dây dẻo, thơm, béo. Ăn hết kẹo vẫn không có cát lợn cợn như kẹo dừa bên nhà mình đó mẹ. Ngon lắm, mẹ ăn thử đi.

Thể Hà lòng đang vui, lại được lũ con còn nhỏ mà luôn biết nghĩ đến người trong nhà. Nàng cảm động, mỉm cười trìu mến nhìn các con. Đông Nhựt bước vào, mặc tươi rói. Tay chàng với lấy chiếc khăn máng trên vách lau mồ hôi:

– Nơi chúng mình đang ở, dưới thì biển, trên thì núi, vậy mà nắng nóng quá. Em ăn cơm chưa?

Thể Hà nhìn chồng âu yếm:

– Chưa. Má và em chờ anh cùng các con về ăn luôn thể.

Cả ba đứa nhao nhao lên. Thể Quỳnh cười tươi:

– Con không đói.

Thể Dao nhìn cha, lắc đầu:

– Con no rồi

Thái Dương phụ họa:

– Con cũng không đói, con giống hai chị không ăn cơm.

Đông Nhựt nghiêm mặt, hăm bọn nhỏ:

– Không được. Các con đã ăn gì mà bảo no? Mấy thỏi kẹo đó mà no à? Không đói cũng phải ăn, ăn ít cũng được. Không ăn, rủi bị bịnh thì sẽ không được đi Mỹ đó.

Nghe không đi Mỹ được, đứa nào cùng chạy lại ngồi vào chỗ mình, chờ ăn. Đông Nhựt móc túi đưa số tiền còn lại cho vợ, sau khi đã mua quà bánh cho các con. Chàng dặn:

– Em nhớ, tiền Nam Dương còn bao nhiêu từ đây đến ngày đi thì phải xài cho hết, nhớ đừng đem theo qua bên đó sẽ không dùng được.

Thể Hà trả lời chồng bằng cái khẽ gật đâu. Chàng không nói gì, mặt mày tươi vui hớn hở, nhưng đôi mắt đăm chiêu nhìn bầu trời xanh thật xanh. Nàng cũng thấy nôn nao, bồi hồi trong lòng. Nàng mường tượng chân trời Mỹ quốc, nơi xa lạ mà ngay từ lúc thiếu thời nàng đã thấy qua phim, ảnh. Không lâu nữa đây, gia đình nàng sẽ nhận nơi đó làm quê hương thứ hai. Cái nơi dị quốc, dị bang với gia đình nàng đủ mọi điều, mọi thứ. Từ phong tục, tập quán, lời ăn, tiếng nói, giọng cười, màu sắc, v.v và v.v… Thể Hà cố tự trấn an tinh thần: Có Thái Vân, có Xuân Hà ở đó thì mình còn lo chi nữa? Nhưng với bản tánh thích tự lập, không ỷ lại vào người khác, nên trong tâm hồn nàng, nỗi âu lo cứ lởn vởn không thể dễ dàng xóa nhòa được.

Sự lo ngại nghĩ ngợi lung tung đó, có phải chăng là do bản tánh tự nhiên của một người đàn bà bình thường? Nàng không biết. Lo, có lo, nhưng nàng cảm thấy lòng mình thơ thới, sảng khoái, lẫn bùi ngùi, man mác. Rồi lần lần niềm vui rộn rã nở hoa. Bởi nàng biết chắc rằng từ đây gia đình mình thoát khỏi nơi Cộng sản cai trị, nơi bất an, kềm kẹp, đọa đày, độc tài, phi nhân…

Thể Hà cùng mẹ chồng hăng hái dọn dẹp nơi ăn chốn ở bấy lâu nay cho sạch sẽ trước khi trả lại hội đồng đại diện của trại, để dành cho những người tị nạn khác đến sau ở. Nàng tặng hết nồi niêu soong chảo, vật dụng cần thiết lớp mua được, lớp của những gia đình đi trước cho. Nàng tặng lại hết những người cần thiết chưa đi định cư. Bà Châu không quên dặn con và dâu cùng bà dắt các cháu lên chùa tạ ơn đáp lễ trước khi gia đình rời đảo.

Nghe tin mừng của vợ chồng Đông Nhựt đi định cư, Nguyệt Nga sốt sắng tới thăm. Chị ta khoe:

– Mừng gia đình anh chị được rời đảo đi định cư. Có lẽ lần tới, hay tháng tới chúng tôi cũng đi Hoa Kỳ, và sẽ về vùng San Francisco, nơi mà anh họ tôi đang ở đã làm giấy tờ bảo lãnh mẹ con tôi. San Francisco là thành phố của Hoa Kiều. Tuy tôi cũng giỏi làm áp phe, giỏi buôn bán, nhưng vì tới sau, tôi nghĩ làm sao tranh đua lại với mấy ông Hoa Kiều gốc bự sống lâu năm lại giỏi tiếng Anh? Tôi nghe nói, ở San Francisco đất đai chật hẹp, nhà cửa chen chúc. Khi đến đó rồi, thế nào tôi cũng lần mò qua miền Bắc, hoặc xuống miền Nam California để mưu sinh.

Chị bỗng rướm nước mắt, nói tiếp:

– Tuy tui là xẩm lai, nhung vì được sanh đẻ, và hơn nửa phần đời ở Việt Nam. Tôi tự cho phép tui là người Việt. Tui mặc áo dài đẹp hơn áo xường xám. Nghe nói ở Orange County, San Jose, Santa Anna đông người Việt lắm. Họ buôn bán sầm uất như Chợ Lớn, Tân Định, Sài Gòn, làm tui phát mê. Hồi ở Việt Nam, tui thích đi Bà Chiểu ăn bánh nghệ, đi Tân Định ăn bánh xèo. Chị Nhựt à, đây là địa chỉ và số điện thoại của gia đình anh họ tui bên San Francisco. Chị cũng cho tui địa chỉ và điện thoại của chị cùng em của anh chị ở bên Mỹ, để sau nay chúng mình liên lạc nghen.

Ngày đợi chờ đã đến, gia đình Đông Nhựt rời Trại tị nạn Cộng sản Ga-Lăng, rời Nam Dương quần đảo vào buổi chiều mưa bay lất phất.

Thể Hà nhìn những người đồng hải hành, và hoạn nạn sống chết có nhau còn chưa được đi định cư. Họ đứng trên bờ vẫy tay chào khi tàu rời bến rưng rưng dòng lệ tiễn đưa. Họ cũng đã được các nước thứ ba nhận rồi, chờ xong thủ tục giấy tờ là lần lượt lên đường. Những thuyền nhân tị nạn Cộng sản sống trong trại như bầy chim, rồi đây sẽ ra đi tứ tán khắp các phương trời xa lạ: Úc, Pháp, Na-Uy, Đức, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Bỉ, Anh, Áo, Ý… vào những ngày sắp tới. Dầu biết rằng mọi người kẻ trước người sau rồi sẽ ra đi, nhưng có buổi đưa tiễn nào mà không buồn?

Đứng trên boong tàu, Thể Hà bùi ngùi mắt chan hòa dòng lệ, cố thu lại những hình ảnh trại tị nạn trên hải đảo Ga-Lăng vào ký ức mình. Dù sao, nơi đây gia đình nàng cũng đã sống suốt những ngày tháng dài trong phập phồng âu lo chờ đi định cư ở một nước thứ ba. Ngày nào đó không xa, người tị nạn trên đảo được định cư hết. Hoang đảo lại trở về với hoang đảo. Và có lẽ tròn kiếp đời nầy, nàng sẽ không có dịp trở lại đây lần thứ hai, dù chỉ là một chuyến viếng thăm!

Màu trời xám đục, mây hạ thấp. Trại tị nạn Ga-Lăng, đảo Ga-Lăng mờ dần, mờ dần cuối tầm mắt Thể Hà qua làn mưa bụi. Tàu chở đầy những thuyền nhân, mặt ngơ ngơ ngác ngác, hằn nét khắc khổ, thương đau. Có lẽ họ nghĩ tàu đưa qua vùng xứ lạ sắp tới, chẳng biết sẽ ra sao? Trong khi con tàu vẫn lạnh lùng thét gào, nhả từng đợt khói trắng, rẽ nước lướt nhanh. Thể Hà vẫn còn nghe được giọng nghẹn ngào hụt hẩng của chị Nguyệt Nga, gọi lớn: “Nhớ giữ liên lạc với mình khi qua đến Mỹ nghen chị Nhựt”.

Thể Hà quơ tay ra hiệu nghe rồi. Tàu chạy xa dần, xa dần, mờ đần mờ dần bỏ lại trên bờ sau màng mưa trắng xóa bóng dáng những người đồng thuyền, những người quen trên hải đảo đồng cảnh ngộ tiễn đưa gia đình nàng.

Tàu chạy qua eo biển nhỏ thì đến Singapore. Chỉ cách nhau cái eo biển nhỏ thôi, bên nầy đảo là của nước Indonesia, bên kia cũng đảo là của nước Singapore. Cả hai đảo của hai nước, có hai nếp sinh hoạt, hai nền văn minh, hai hoàn cảnh của dân bản xứ quá khác biệt, quá chênh lệch.

Cùng chuyến tàu đi qua Singapore với gia đình của Thể Hà có năm hộ, người lớn và trẻ con gồm cả thảy là bảy mươi bốn người. Tất cả mọi người trình diện và được điểm danh từng hộ một, và được cho biết ngày, giờ hộ nào sẽ lên đường sang nước thứ ba mà chánh phủ nước đó đã nhận vào từ mấy tháng trước. Hội đồng trại phát cho mỗi đầu người 15$ tiền Singapore.

Gia đình Đông Nhựt có sáu người, lãnh được 90$, và phải đến văn phòng ban đại diện trước 6 giờ sáng ngày mốt, để 7 giờ 30 xe đưa ra phi trường. Tại đó gia đình chàng sẽ đáp chuyến bay sang Nhựt Bổn lúc 1 giờ 30 sáng. Mọi người lớn trong gia đình mặt mày tươi rói, hả hê. Sáng hôm sau, không ai bảo ai, gia đình Thể Hà từ trên xuống dưới thức dậy sớm, ăn mặc sạch sẽ cùng đi chợ Som-mơ-Pao với vợ chồng ông Cẩu.

Vợ chồng ông Cẩu đi cùng tàu với gia đình Thể Hà, họ buôn bán nhỏ ở Chợ Lớn. Lúc ở trại bên Nam Dương, có lần ông Cẩu kể rằng: ba đứa con của ổng bả theo gia đình cô em vợ có chồng Mỹ đi trước ngày Cộng sản vào. Ông bà không chịu đi vì tiếc của, bây giờ gia sản cũng bị Việt cộng vét sạch hết rồi nên họ mới tìm đường trốn chạy.

Ông bà Cẩu nói tiếng Việt bằng giọng lơ lớ, nói tiếng Tàu thì thiệt giỏi. Gia đình Thể Hà theo ông bà đi chợ, vì ở Singapore thông dụng tiếng Anh và tiếng Tàu. Tiếng Anh vợ chồng nàng ngày xưa cũng có học, nhưng chưa nói nhiều với ai, nên còn mắc cỡ miệng vì quên chưa nói được ngay, cho dù nói được, chưa chắc người ta hiểu mình nói gì. Vả lại người bản xứ, người buôn bán ở đây nói vừa nhanh lại vừa trộn nhiều thổ ngữ, nên khó mà nghe và hiểu được người đối diện.

Gia đình Thể Hà và ông bà Cẩu đến chợ Som-Mơ-Pao bằng xe đò đưa khách những chặn đường ngắn. Đường phố Singapore rất trật tự và sạch sẽ. Phố xá, nhà lầu cao chọc trời, một phần cũng vì đất hẹp, dân đông. Dân ở đây sống bằng thương mại lớn, nhỏ. Cuộc sống của họ có vẻ vững chắc, phồn thịnh, bình yên. Gia đình Thể Hà và ông bà Cẩu vào tiệm nước rửa ruột một bữa cho đã thèm. Sau đó vợ chồng họ đi chơi. Còn gia đình Thể Hà đi qua bưu điện bên kia đường. Rồi trở lại bến xe chở hành khách kế tiệm nước lúc nãy xuống, mà trở về sẽ không bị lạc.

Gia đình Đông Nhựt ăn uống tốn hết hai mươi lăm đồng, còn lại trong túi 55$. Thể Hà và bà Châu dắt các cháu đến cửa hàng bán trái cây và bánh kẹo trước tiệm nước mua hết 10$. Tiền còn lại để gởi điện tín cho Xuân Hà và Thái Vân, báo cho họ biết ngày mai gia đình nàng sẽ lên đường qua Mỹ.

Đến trước bưu điện, bà Châu và ba đứa nhỏ tìm băng ghế đá dưới cây cao bóng mát ngồi đợi ở ngoài, còn Thể Hà và Đông Nhựt vào bên trong. Bưu điện rộng lớn mênh mông. Có 6, 7 nhân viên bán tem thư, nhận gởi quà, gởi bảo đảm, gởi điện tín v.v… Vậy mà bao nhiêu người đang đứng sắp thành hàng dài chờ đợi tới phiên mình.

Hai vợ chồng Đông Nhựt, ngày xưa ở Sài Gòn không đến nỗi xập xệ, lôi thôi, bê bối lắm. Vậy mà hai năm trốn né sống dưới chế độ Cộng sản, gần một năm vượt biên sống lây lất từ hòn đảo nầy qua hòn đảo khác nên trông họ giống như dân Cái Bang trong truyện phim Tàu. Nàng bịnh hoạn, chàng thiếu ăn, thiếu mặc… Thân xác cả hai vợ chồng gầy còm, héo hon, tả tơi, xơ xác. Có lẽ thiên hạ ở trong bưu điện nay, từ khách hàng cho đến nhân viên làm việc tưởng cả hai vợ chồng nàng từ một hành tinh nào khác mới đến!

Thể Hà, Đông Nhựt cũng ngại ngùng lắm chớ, nhưng họ làm tỉnh vào hàng đứng đợi như mọi người. Vì không để ý? Vì khớp sợ mà quên? Họ đi xăm xăm vào gần quầy hàng chờ đến phiên mình. Bỗng nghe sau lưng giọng nói rất nhỏ nhẹ bằng tiếng Anh của cô học trò mặc đồng phục, chừng mười ba mười bốn tuổi: “Thưa ông bà, sắp theo hàng thứ tự, ai đến trước đứng trước, ai đến sau đứng phía sau”. Vợ chồng Thể Hà mắc cỡ sượng sùng chín người, lỏn lẻn bước vội xuống đứng phía chót hàng!

Máy bay cất cánh rời phi trường Singapore. Trên chuyến bay, gia đình Thể Hà, từ bà Châu, Đông Nhựt đến mấy đứa nhỏ không hề hấn chi hết. Chỉ có Thể Hà ói thốc, ói tháo không thua gì lần ói trong chuyến hải hành trốn bỏ quê hương! Chiêu đãi viên hàng không mang lại cho nàng nào bao ni lông, nào nước uống… Nàng uống bao nhiêu nước, thì ói ra hết bấy nhiêu.

Đến Nhựt Bổn, hành khách xuống, những người đi sang nước khác phải chờ chuyến bay chuyển tiếp. Thể Hà xơ xác bải hoải giống như con gà tử mị. Đầu óc nàng choáng váng và khi nghe động cơ của máy bay nổ là nàng sợ quá. Thời gian tạm chờ ở phi trường nàng thấy dễ chịu đôi chút. Nhưng tới chuyến phải đi. Thể Hà lại ói lê mê từ Nhựt Bổn qua phi trường Los Angeles của Mỹ. Gia đình bà Châu tạm nghỉ ở phi trường Los Angeles nầy 2 giờ, chờ chuyến bay chuyển tiếp đi Chicago.

Đông Nhựt dìu vợ lên máy bay đến chỗ ghế ngồi, Thể Hà gượng hết nổi ngã vào vai chồng. Đầu óc nàng lờ mờ quay mòng mòng, dật dờ, dật dưỡng, nửa thức nửa ngủ, cơn ói hoành hành nàng mỗi khi phi cơ chao đảo từ Los Angeles qua Chicago. Nàng không biết đang là đêm hay ngày và đã đi bao lâu? Trong khi đó, mẹ chồng, ba đứa con, và chồng nàng tới giờ ăn, thì mạnh ai nấy ăn, hết ăn rồi thì mạnh ai nấy ngủ, còn ngáy khò khò nữa.

Hành khách lần lượt đi ra. Gia đình Đông Nhựt vẫn còn ngồi đó. Thể Hà dợm đứng dậy mấy lần nhưng không đứng nổi. Bởi suốt khoảng đường dài tròm trèm gần 24 tiếng đồng hồ, từ Singapore đến phi trường O’hare của Chicago nàng đã ói liên tục như không ngừng nghỉ. Bây giờ nàng quá yếu, hai chân run, đứng dậy không muốn vững. Cuối cùng thì hai cô tiếp viên hàng không phải dìu nàng ra, còn Đông Nhựt thì dắt ba đứa nhỏ vì chúng sợ sệt, rụt rè trước lạ cảnh, lạ người. Họ khác biệt từ vóc dáng đến lời ăn tiếng nói, cử chỉ. Mặc dù trên chuyến bay, các người nam nữ tiếp viên Mỹ rất lịch sự, thân thiện, luôn tươi cười săn sóc chúng, cho chúng đồ chơi, giấy bút để vẽ, để viết cho qua khoảng thời gian dài ngồi một chỗ trên máy bay.

Đứng ngoài chờ đón gia đình Bà Châu có vợ chồng Xuân Hà và hai con, có Thái Vân và Tom. Đàn ông thì bàn tay siết chặt bàn tay, mặc dù Đông Nhựt chưa gặp Tom chồng của Thái Vân và Nghiêm chồng của Xuân Hà bao giờ. Cả bà Châu, và vợ chàng cũng chưa lần nào gặp họ. Đàn bà thì không dằn được xúc động ôm chầm lấy nhau, nước mắt đầm đìa. Xuân Hà ôm bà bác dâu, tức tưởi:

– Bác Hai, con thương nhớ bác lắm! Bác ốm đi nhiều quá.

Bà Châu mếu máo:

– Bác cùng nhớ thương cháu thật nhiều. Đâu, cháu đúng xích ra cho bác coi, Xuân Hà của bác vẫn không gì thay đổi, vẫn đẹp như xưa.

Bà Châu quay qua người cháu rể mới gặp lần đầu tiên:

– Cảm ơn cháu đã đem hạnh phúc đến cho Xuân Hà. Con nhỏ nầy bác thương yêu lắm. Ngày Xuân Hà ra đi bác thật là lo. Bây giờ nó có chồng đàng hoàng có con ngoan ngoãn, khôi ngô, bác mừng cho hai cháu.

Bà Châu quay sang Thái Vân, nãy giờ khóc thút thít. Bà nói:

– Cháu Thái Vân vẫn khỏe hả? Lâu quá không gặp, cháu vẫn trẻ và còn đẹp hon xưa nữa.

Bao nhiêu năm cách xa tưởng chừng kiếp đời nay không bao giờ gặp nhau nữa. “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Thật không ai có thể ngờ! Giờ đây gia đình họ đoàn tụ ở xứ lạ quê người. Qua phút gặp lại trong vui mừng, thân thương, cảm động đẫm đầy nước mắt, Xuân Hà đề nghị với mọi người:

– Thôi chúng ta vừa nói chuyện, vừa đi đến chỗ nhận hành lý.

Đông Nhựt cười, nói:

– Chỉ có những gì đang xách ở trên tay thôi, hành lý có gởi đâu mà lấy.

Bây giờ, ở đây vào mùa hè. Hôm nay tiết trời vừa nóng nực vừa khô ráo, nên đa số những người ra đón khách, đón thân nhân mình đều mặc quần áo mùa hè.

Thái Vân hơi mập hơn, mập để tươi mát thêm, nàng mặc chiếc áo đầm ngắn tay ôm bó sát mình, hơi giống áo xường xám của các cô xẩm Hương Cảng, cổ áo rộng, trễ xuống tới chớn ngực và kết ba nút to thất bằng gấm. Đây là loại gấm màu mỡ gà có in đồng điếu rải rác, hợp với bông tai, cà rá, mặt dây chuyền và vòng tay bằng ngọc thạch xanh biếc. Còn ông chồng Mỹ của Thái Vân mặc quần cụt, màu đá xanh đen (đen rập rờn ánh bạc), áo sơ-mi bằng lụa mỏng màu xám tro. Tóc hắn màu thau vàng, tức là vàng ửng ánh xanh lục, mắt xanh trong vắt. Hắn cao lớn vóc dáng giống như nam tài tử chánh trong phim “Cầu Sông Kwai”.

Xuân Hà càng đẹp, càng cao sang quý phái. Nhìn ở sau lưng, tướng nàng hao hao giống bà Kiều Chinh, nhưng trước mặt thì cô nàng còn đẹp tự nhiên vì chưa cắt xén, gọt sửa và trẻ hơn nữ tài tử điện ảnh nầy nhiều. Cô mặc chiếc củn bằng hàng nhẹ màu xanh nhạt có điểm những nụ hoa màu hồng phấn, dài quá đầu gối, áo kiểu, màu lá mạ non ngắn tay, hai bên ngực thêu dây hoa lan tím nhụy vàng lớn bằng nút áo. Cô đeo chiếc nhẫn kim cương lớn bằng trái trứng cá, cô đeo dây chuyền mặt Phật Bà Quan Âm. Chồng cô mặc áo thun màu dưa cải, quần jean màu nước biển, hiệu Levis in trên túi. Trông anh ta giống ai đây? Bỗng Thể Hà giựt mình khám phá ra anh ta giống anh Hưng, vị hôn phu bạc mệnh của Xuân Hà, tuy anh có hơi thấp hơn người quá cố một chút, nhưng có vẻ cương nghị và hiền hậu hơn.

Đông Nhựt bảo cô em gái:

– Anh rất mừng vợ chồng cô đầm ấm.

Xuân Hà cười buồn, mắt chớp chóp, cái nhìn lơ đãng như đang hồi tưởng chuyện gì? Nàng bảo nhỏ với Thể Hà:

– Lật bật mà đã gần 20 năm qua rồi chị nhỉ?

Thể Hà cười nhẹ gật đâu, rồi quay sang Thái Vân:

– Bao nhiêu năm rồi mầy vẫn đẹp phơi phới. Cô Xuân Hà thì hồng hào và vẫn mảnh mai, mặn mà như xưa. Chỉ có mụ Thể Hà nầy thì ốm còi, ốm cọc chớ không còn ốm thơ ốm mộng như thuở con gái nữa.

Thái Vân mắt đẫm lệ. Nãy giờ xúc động, cô ta không thốt nên lời. Giờ cô mới mở miệng:

– Thể Hà, bộ ở bển khổ lắm hả? Hòa bình rồi mà! Con cháu của Hồ Chí Minh thường phát biểu, rêu rao là chế độ tự do hạnh phúc thương dân như con của họ. Sao bây giờ mầy già nua và tiều tụy còn hơn bà già tám mươi vậy?

Thể Hà không nhịn được cười, dù đầu óc nàng đang quay mòng mòng vì còn say gió máy bay, và thể chất hãy còn mệt lã vì cơn ói liên tục suốt quãng đường dài mấy ngày nay. Xa cách bao nhiêu năm rồi, Thái Vân vẫn hồn nhiên, vẫn nói tếu, vẫn vui tươi, khóc đó, cười đó cho dù trời sắp sập tới nơi đi nữa. Thể Hà cười như mếu, nói:

– Khổ lắm, khổ lắm, cho nên tụi tao mới bôn đào. Hòa bình con khỉ khô á! Hừ, chúng chỉ giỏi có cái miệng bô bô, chỉ có cái hư danh thôi. Mầy nghĩ coi, với bọn Cộng sản mà có hòa bình hay sao? Nếu có hòa bình và lo cho dân no cơm ấm áo, thì ở mấy nước Cộng sản như Đông Âu, Tàu… đã hòa bình hàng mấy mươi đời rồi mà dân của họ vẫn còn trốn chạy khỏi nước để đi tìm tự do. Tự cổ chí kim, mầy có thấy nước tự do nào mà dân ùn ùn bôn đào khỏi nước của mình bao giờ không? Chỉ có Cộng sản vào dân mới bỏ xứ mà đi. Thôi đừng nhắc đến Cộng sản, Việt cộng nữa. Nhắc đến chúng thì sẽ bị ngủ không yên, ăn không vô, nhức đầu lắm mầy ơi! Gia đình mầy vẫn khỏe cả chớ? Mấy đứa con mầy đâu?

Thái Vân vẫn còn xúc động, cười cười, nói nói mà nước mắt vẫn sụt sùi. Nàng vuốt tóc hai ái nữ của Thể Hà, và ẵm xốc Thái Dương lên cao. Thằng bé mắc cở ngó xuống đất, hai hàng lông mi dài chớp chớp, và cắn ngón tay mình. Thái Vân không kềm được, nước mắt lại trào tuôn giọt ngắn, giọt dài, cùng niềm vui lộ trên nét mặt. Thái Vân nựng nịu thằng bé. Sau cùng cô ta bảo:

– Cháu lớn và cao quá! Lúc dì đi, cháu còn bé tí teo nằm trong nôi. Thái Dương đi học chưa? Có ngoan với ba má không? Ồ, mầy hỏi mấy đứa nhỏ tao hả Thể Hà? Tụi nó vẫn khỏe. Ông xã tao không cho chúng đi theo. Vì đến chỗ nào lạ, ngồi chưa nóng ghế thì chúng đòi về. Để gia đình mầy đâu đó được ổn định, tao sẽ rước cả nhà qua bên Michigan chơi cho biết.

Thái Vân trao Thái Dương cho chồng ẵm. Thằng nhỏ run sợ trong tay người dị chủng, mà trên giấy tờ là chồng của dì nó. Thằng nhỏ không dám khóc, nhưng mặt mày tái mét. Tom cười thân thiện với nó, rồi quay sang vợ:

– Bé có nụ cười giống em, má lúm đồng tiền.

Thái Vân cười, đưa tay ẵm lại Thái Dương:

– Vậy sao? Đâu cháu cười lại cho dì xem coi có giống không nào?

Nhìn kỹ, Thái Vân bây giờ tròn trịa hơn trước. Cô ta chỉ nở bề ngang đôi chút chớ không nở chiều cao nên trông như hơi thấp đi, nhưng nước da cô ta trắng mịn, bóng ngời, tàn nhang vết nám bay mất. Mặt mày cô ta đầy đặn, hồng hào, phơi phới chứng tỏ người có hạnh phúc và tiền của dồi dào. Thể Hà “ờ” với Thái Vân cho suông miệng, rồi quay sang nói với Xuân Hà.

– Hai đứa nhỏ con cô đẹp và trông thông minh lắm, coi bộ hai cháu giống bố hơn giống cô đó.

Xuân Hà bao nhiêu năm không gặp, vóc dáng cô trông lớn hơn, nhưng thanh cảnh chớ không mập. Cô có vẻ khách sáo hơn, chững chạc hơn, ăn nói chẫm rãi hơn, lựa lời hơn, và hình như nghiêm khắc hơn thời còn con gái. Thể Hà cười cho mình, Xuân Hà không đổi thay sao được? Cô đã là mẹ của hai đứa con rồi. Vả lại vợ chồng cô thành công trong việc khoa bảng, cả hai đều có bằng Tiến Sĩ, được nhiều người tai mắt trong cộng đồng người Việt ở vùng nầy biết đến. Cô dượng ấy, lại đang làm việc cho cơ quan bảo lãnh người tị nạn Cộng sản thuộc vùng Đông Nam Á nữa.

Nghe bà chị dâu của vợ khen, chồng của Xuân Hà mĩm cười hãnh diện. Xuân Hà liếc xéo anh ta, nói:

– Bởi giống ảnh nhiều, nên bên nội của chúng cưng quá chừng. Còn ảnh thì không bao giờ rầy la nên tuy còn nhỏ như vậy mà chúng có nghe lời ai đâu! Ông bà mình thường nói: “Con hư tại mẹ”, nhưng gia đình em thì “con hư tại bố… ” đó chị à.

Thể Hà không dằn được, mỉm cười nhìn ông xã mình. Coi kìa! Đông Nhựt đang xí xô xí xào nói chuyện bằng tiếng Anh với Tom chồng của Thái Vân.

Nàng lắc đầu. Người ta nói tiếng Anh chỉ dùng miệng thôi, còn phu quân của nàng vừa nói, vừa quơ tay, vừa đưa chân ra để diễn tả cho đối phương hiểu. Chà! chiều nay dầu cù là, dầu Nhị Thiên Đường, dầu Khuynh Diệp của bác sĩ Tín, hay dầu nóng ở đâu để xoa tay, bóp chân cho chàng khỏi bị mỏi đây cà?

Bất chợt Đông Nhựt quay lại, trợn mắt lườm nàng, vì chàng bắt gặp cặp mắt tinh quái trêu chọc của vợ đang chong về phía mình. Thể Hà, làm bộ không biết, lờ đi nhìn nơi khác cười già. Còn anh chàng Tom của Thái Vân, khi nghe Đông Nhựt nói, diễn tả không biết anh ta có hiểu gì không? Nhưng trông anh ta nghiêm nét mặt, gật gật đâu, mở to mắt chăm chú theo dõi từng điệu bộ của Đông Nhựt, cả hai xem ra đều chú ý, lắng nghe và hiểu nhau dữ lắm vậy!

Nghiêm, chồng của Xuân Hà hơi thấp khi đứng bên cạnh chồng của Thái Vân, nhưng so với người Á Đông thì chẳng những anh không thấp, mà anh ta còn dong dỏng cao hơn nhiều người đàn ông Việt Nam khác. Nghiêm mang kính cận thị dầy cui, mặt mày điềm đạm, hiền lành, ăn mặc chỉnh tề, tươm tất, nói năng khiêm tốn, dè dặt. Chắc trước ngày gặp gia đình của bà bác dâu ở trại tị nạn qua, anh ta đã được Xuân Hà huấn luyện “kỹ” lắm. Anh Nghiêm chợt lên tiếng:

– Thưa bác Hai, anh chị và các cháu đi đường xa, chắc vừa mệt lại vừa đói? Thôi thì chúng ta ghé qua tiệm ăn gì cái đã, rồi về nhà chúng em. Sau đó chúng em sẽ đưa anh chị về nhà anh chị. Đó là một cái phòng lớn. Trong đó có 3 phòng ngủ, chỗ nấu ăn và phòng vừa làm phòng gia đình, vừa làm phòng khách mà Xuân Hà đã mướn sẵn và sắm sửa đủ mọi thứ cần thiết cho gia đình anh chị tạm dùng rồi. Nơi anh chị cư ngụ cũng không xa nhà chúng em lắm, khoảng 10 phút lái xe thôi.

Dượng ấy còn quay sang Tom chồng của Thái Vân, nói một tràng tiếng Anh dòn rôm rốp như kính vỡ. Tom không có phản ứng chi, nhưng anh ta liếc sang Thái Vân như ngầm nhắc chuyện gì đó. Thái Vân nhanh miệng:

– Thưa anh chị Xuân Hà, xin phép anh chị để hôm nay chúng tôi được mời gia đình anh chị, và được đãi gia đình bác Châu. Xin anh chị đừng giành với chúng tôi ở xa, còn anh chị ở gần đây thì lúc nào đãi khách phương xa mà không được, có phải không anh Đông Nhựt?

Đông Nhựt cười cười:

– Ai đãi cùng được, chúng tôi sẽ không từ chối, nhưng các món ăn Tàu thì dễ nuốt hơn.

Thái Vân cười:

– Anh không phải lo, chúng tôi đã đặt ở nhà hàng Tàu ngoài Chinatown rồi, không xa lắm đâu, khoảng 20 phút lái xe thôi.

Thể Hà nhận xét không sai chớ? Xuân Hà và Thái Vân ở quê nhà cũng vậy, sang xứ người cùng không thay đổi. Cả hai không thù nghịch, không ghét ngầm, nhưng họ hình như không tương đắc. Có lẽ cả hai người, có hoàn cảnh và ở hai thế giới khác nhau.

Ăn uống xong, Xuân Hà đưa gia đình anh mình đến nhà cô đã mướn cho họ. Tiện dịp, Thái Vân đên thăm luôn cho biết nhà để sau nầy qua thăm không phải làm phiền vợ chồng Xuân Hà. Và cũng bởi Thể Hà lại dợm muốn ói nữa, nên họ đưa về nhà mướn luôn, vì muốn để cho mọi người được nghỉ ngơi, bởi ai cũng mệt mỏi sật sừ say gió cho chuyến bay kéo dài nhiều giờ chuyển tiếp từ Singapore đến đây. Thay vì Xuân Hà đưa bác dâu, anh chị cùng các cháu về thăm nhà cô trước như đã định, nhưng cô đổi ý dành để hôm khác họ đến chơi cùng không muộn.

Chỗ ở của gia đình Thể Hà, đó là một apartment nằm trong ngôi nhà gạch lớn, hai từng, mỗi từng có bốn apartment cho thuê. Dưới hầm nhà có chỗ để máy giặt, máy sấy khô áo quần để cho những gia đình thuê nhà ở đây dùng phải trả tiền, và mỗi gia đình có một cái kho nhỏ để chứa đồ ít khi dùng đến.

Căn apartment của họ có 3 phòng ngủ, nhà bếp, phòng khách và phòng tắm. Trong mỗi phòng ngủ đều có giường, nệm, gối, mền…(không có mùng). Trong tủ có áo quần… Coi như ở mỗi phòng đều có một ít đồ cần thiết, không mới nhưng còn tốt, lại được Xuân Hà giặt sạch sẽ còn phảng phất mùi thơm của xà bông giặt hiệu Dove. Xuân Hà đã sắm sửa cho họ, cô còn cho biết hãy tạm dùng đỡ những thứ đang có.

Ngày mai cô sẽ chở cả gia đình đến phòng xã hội làm thủ tục xin tiền cấp dưỡng tạm thời cho những người ty nạn Cộng sản chân ướt chân ráo mới đến nơi nầy. Tuần tới mới có cái hẹn đến xin tiền trợ cấp cho cả gia đình từ sáu tháng đến một năm, trừ người già và trẻ con trong tuổi đi học thì được lãnh dài hơn. Rồi cô sẽ đưa Thể Hà đi chợ Tàu, chợ Mỹ mua sắm những gia dụng hay những thứ cần thiết để nấu ăn…

Vợ chồng Thái Vân xin phép về, vì đường xa ở mãi bên tiểu bang Michigan, phải mất hơn 5 giờ lái xe mới đến nơi. Bà Châu và các cháu nội vui vẻ trong lòng, mở từng ngăn tủ phòng ngủ, nhà bếp… ngắm nghía đồ đạc. Vợ chồng Xuân Hà cũng xin phép đưa hai cháu về nhà, rồi sẽ trở lại.

Đông Nhựt lại tái diễn quơ tay quơ chân vừa đi vừa nói chuyện để từ giã Tom. Nghiêm đi nhanh theo hai đứa con đang đùa giỡn, để chận chúng lại, sợ chúng chạy ra lộ. Xuân Hà đi bên cạnh Đông Nhựt chú ý nghe anh mình và Tom nói chuyện, đôi khi cô nàng xen vào nói bằng tiếng Anh theo ý của anh mình cho Tom hiểu, đôi lúc dịch lại tiếng Việt ý của Tom cho anh mình nghe.

Mọi người đi xuống thang lầu chung, và ra chỗ đậu xe bên lề đường. Thể Hà và Thái Vân vừa đi vừa to nhỏ với nhau, họ đi chầm chậm như cố tình đi lùi ở phía sau. Không để mọi người nhìn thấy, Thái Vân lẹ nhét tiền vào tay Thể Hà, nói nhỏ: “Tiền nầy để mầy chi dụng gì thêm trong lúc cần thiết. Tao biết mới đến, nhiều thứ cần phải mua sắm lắm. Chừng nào có điện thoại thì liên lạc với tao. Cần chi thì cứ cho tao biết nghen…”.

Thể Hà cảm động nghẹn lời! Thái Vân đối với nàng trước sau như một, tình cảm mặn nồng như chị em ruột thịt không đổi thay. Mặc dù nàng với Thái Vân không cùng huyết thống, cùng cha mẹ, nhưng từ thuở thiếu thời, lúc còn học vỡ lòng vần Quốc Ngữ lớp sơ học trường làng hai người họ đã thương mến nhau. Thể Hà thường xin bà vú dắt sang nhà Thái Vân sớm để hai đúa cùng đến trường. Quà bánh mang theo hai đứa đều chia nhau ăn, lúc của nàng, khi của Thái Vân… Nếu có đứa nào ăn hiếp, hoặc chọc ghẹo, thì Thái Vân luôn binh vực nàng dù phải gây hay đánh lộn với bọn chúng.

Con tạo trớ trêu, dòng đời đưa đẩy, bất ngờ gia đình Thái Vân gặp tai biến rã tan, và nhỏ lại trở thành chị nàng. Rồi từ đó hai người càng yêu thương nhau hơn! Họ đã bao nhiêu năm không gặp, lại xa quá là xa, cách nhau hơn nửa vòng trái đất. Giờ đây hai người được tái ngộ, quả thật Thượng Đế đã an bài, chớ sức người làm sao có thể sắp xếp như vậy được? Thái Vân đã giúp ngay từ khi gia đình nàng còn sống lây lất ở các trại tị nạn.

Chiều hôm sau, vợ chồng Xuân Hà lại thăm gia đình bà bác dâu mình tối hù mới về. Nghiêm có vẻ tương đắc với vợ chồng người anh vợ của mình. Anh ta muốn nghe những biến cố 3 năm chót của miền Nam Việt Nam khi Bình Long, Lộc Ninh thất thủ. Xuân Hà muốn biết tình trạng nhà cửa, hãng xưởng của anh mình và cảnh vật, người dân Sài Gòn… sau ngày giặc vào.

Nhìn đồng hồ đeo tay, đã 9 giờ hon, Nghiêm nhắc vợ bảo về để cho gia đình anh chị nghỉ ngơi. Xuân Hà thì còn muốn ở thêm, nhưng khi nhớ đến giờ giấc bên Singapore và Mỹ quá chênh lệch. Cô ta vội theo chồng ra về mà lòng còn luyến tiếc lắm và hẹn mai đến sớm hơn.

Xuân Hà vẫn thương quý bà bác dâu góa bụa cùng gia đình người anh con nhà bác của mình. Cô dượng ấy luôn giúp đỡ gia đình Thể Hà. Gia đình kẻ vượt biên tránh xa lũ giặc đầu hôm sớm mai chạy đến xứ người. Những gì Đông Nhựt muốn, hay nhờ cô dượng Xuân Hà làm, thì trước sau gì cùng có, cũng xong việc.

Thức ăn, bánh trái, đồ đạc cần dùng trong nhà, cô thường mua đem qua, hoặc nhờ chồng cô mang qua cho. Tết nhứt, lễ lộc, sinh nhựt… thì cô luôn mua quà, sắm sửa cho các cháu. Cô mua trà ngon, sâm tốt nhập cảng từ Trung Quốc cho bà Châu để bà bổ dưỡng lại. Lâu lâu cô rủ Thể Hà đi chợ riêng với cô để hai người tâm sự nhắc chuyện ngày xưa khi hai đứa còn là bạn học nghề… Đôi lúc cô hỏi có đủ tiền chi tiêu trong gia đình không. Thỉnh thoảng cô còn dúi chút đỉnh tiền cho anh mình để xài vặt. Vợ chồng Xuân Hà thật sự rất tốt với gia đình Thể Hà nhiều lắm.

Nhà Thể Hà mướn tiện lợi là ở gần chợ. Vào những ngày nắng ấm nàng thường đẩy xe đi bộ đến chợ để mua thức ăn rồi về, không phải chờ chồng đưa đón lên xuống xe cho mất thời giờ. Chỉ có mùa đông thì chịu thôi, phải đi xe chớ lạnh xé da, cắt thịt làm sao mà đi bộ cho nỗi? Cuối mùa xuân, đầu mùa hè tiết trời ấm áp, cỏ cây xanh tươi, hoa khoe sắc, tòa hương.

Xuân Hà hay đến chơi, có khi Thể Hà và cô em chồng này cuốc bộ đến chợ mua trái cây, mua thịt gà, sườn heo về ướp nướng để hai gia đình cùng ăn cho vui. Dịp nầy thì anh Đông Nhựt và chồng của Xuân Hà hay lai rai mấy lon bia lạnh. Trong lúc hai người đàn bà tình tang trên đường đi chợ về vừa nói những chuyện, những tin tức của người Việt tị nạn đang sống rải rác trên đất Mỹ mà họ đã nghe được trên đài hay xem trên báo chí… vừa nhắc những chuyện lúc còn ở quê nhà, lúc ở sở làm… Xuân Hà nói:

– Mùa đông ở vùng nầy có cái lạnh thật khắc nghiệt, nhưng chị xem mùa xuân trăm hoa đua nở, mùa hè nắng ráo có khác gì bên xứ của mình đâu? Chúng ta cũng mặc quần ngắn, cũng áo hở cổ sát nách, cũng dung dăng dung dẻ đi ngoài đường như thuở xưa chớ bộ.

Thể Hà cũng cười tươi đồng tình với cô bạn học và cũng là em chồng nàng:

– Bên nầy cái gì khó khăn, bự sự mình cùng tìm ra và mua sắm được, nhưng có một điều mình không thể nào tìm thấy và mua được ở đây cô à.

Xuân Hà ngạc nhiên hỏi:

– Chị muốn mua thứ gì ở đây mà không có?

Thể Hà, nhìn nàng mỉm cười lí lắc:

– Làm sao tìm gặp lại không khí quê hương và nhứt là không có mấy ông Tàu bán lòng heo phá lấu, cóc ổi chùm ruột, xoài sống ngâm cam thảo, mực nướng cán tơi chấm tương ngọt dưới cột đèn đường hay bên những lề đường đông người như trước rạp hát, trước trường học…

Hai đứa không rủ mà cùng ôm bụng cười ngất như thuở ngày xưa.

Chiều thứ sáu, vợ chồng Xuân Hà thường chở anh chị mình đi chợ. Trên xe, họ hay nhắc lại những chuyện ngày xưa. Có nhiều chuyện làm họ nao nao trong lòng, có nhiều chuyện làm hai mụ đàn bà cười dòn như pháo nổ. Bỗng Xuân Hà bảo:

– Tom có bảo với chồng em rằng cháu Thái Dương trông giống chị Thái Vân quá. Quả vậy, càng lớn cháu có những nét đều đặn hài hòa trên khuôn mặt, nên giống chị Thái Vân quá chừng. Em bảo Tom rằng hồi chị có thai cháu, giữa chị và chị Thái Vân có sự hiểu lầm nên ghét nhau. Có lẽ vì vậy mà thai nhi bị ảnh hưởng về vụ giống nhau như vậy.

Nghiêm như chợt nhớ ra:

– Hèn chi cháu Thái Dương tương đắc với con chị Thái Vân hơn tương đắc với các con của chúng tôi.

Rồi Nghiêm chìa mấy tấm ảnh Việt Kiều mặc áo đen đứng trước bàn thờ tổ quốc có treo cờ vàng ba sọc đỏ bảo:

– Khi nghe Sài Gòn thất thủ, bọn Việt Kiều ở tiểu bang tôi khóc ngất. Chúng tôi để tang cho tổ quốc suốt một tuần lễ, và tổ chức một ngày truy điệu cho các chiến sĩ vị quốc vong thân. Xuân Hà khóc nhiều nhứt vì quê hương và lo lắng cho gia đình anh chị đến mắt sưng húp, ngày sau phải nghỉ làm.

Khi họ về đến nhà thì trời sụp tối. Bà Châu biết vợ chồng cô cháu gái thế nào cũng ở lại chơi với con và dâu mình. Nên bà nấu cho mỗi người một tô cháo thịt heo bằm có đệm hột vịt Bắc thảo. Bà còn dặn Xuân Hà:

– Khi nào vợ chồng cháu muốn ăn món Việt Nam thì cứ điện thoại cho bác.

Nghiêm vui vẻ, cởi mở:

– Được ăn món quốc túy quốc hồn, lẽ nào tụi cháu từ chối cho đành hay sao?

Xuân Hà hớn hở:

– Mai cháu sẽ biên chép các món phổ thông để vòi vĩnh bác. Chồng cháu vừa sành ăn, lại vừa ham ăn.

Thể Hà cười ngất:

– Cô Xuân Hà thường ngày vốn nghiêm trang đứng đắn. Sao hôm nay quảng cáo bất lợi cho chồng mình như vậy?

Nghiêm đỡ lời cho vợ:

– Trước kia, chưa bao giờ tôi thấy bà xã tôi vui như từ sau ngày gia đình anh chị qua đây.

Xuân Hà luôn đối đãi tốt với gia đình vợ chồng Thể Hà. Nhưng không biết tại sao, nàng cảm thấy giữa hai đứa hình như có một bức màn mỏng ngăn cách?

Thể Hà lúc nào cũng e dè, ngại ngùng không còn thân thiện, tự nhiên như xưa hai đứa chung lớp, chung sở, hay thời gian nàng làm chị dâu của Xuân Hà, lúc cả hai còn sống ở quê hương? Thể Hà tự hỏi: Có phải chăng sự tiến bộ của Xuân Hà, từ học vấn đến sinh hoạt, từ tinh thần đến vật chất…? Sự tiến bộ theo trào lưu tiến hóa về văn minh, giàu có, tự do, dân trí cao ở xứ người mà cô đã học hỏi, tiêm nhiễm khiến cho nàng mặc cảm bị thối hóa, già nua, cỗi cằn, lạc hậu? Hay mình mặc cảm thua kém? Thể Hà vẫn mơ hồ, không biết rõ, không phân biệt, không tìm ra được nguyên nhân nào rõ rệt và phát xuất từ đâu?

Nhưng Thể Hà khẳng định rằng ngày xưa mình rất tương đắc với Xuân Hà, nhưng vẫn không cởi mở tận đáy lòng, hoặc xả láng như với Thái Vân. Mặc dù con nhỏ Thái Vân nầy đã gây cho nàng nhiều sự việc hết sức bực mình, khó chịu, bất nhẫn. Có một dạo, tưởng chừng suốt cả cuộc đời nầy, Thái Vân và nàng không làm lành với nhau hay còn nhìn mặt nhau nữa. Nhưng sau đó, thời gian không lâu thì mọi bất bình thù ghét hết sạch trong lòng cả hai. Để mỗi khi xáp lại, họ líu lo, mầy mầy, tao tao, đía dóc, không còn nhớ chi đến muộn phiền đã gây cho nhau. Thật sự mà nói, không có chuyện gì có thể làm ngăn cách nàng và Thái Vân lâu được! Hay là Thể Hà chỉ thích hợp với những người bình dân?

Tuy nhiên, những lúc ăn cơm, ăn quà vặt tại nhà Thể Hà, vợ chồng Xuân Hà tỏ vẻ cởi mở hơn. Các món ăn đã nhắc nhở họ biết bao kỷ niệm ở quê hương, xứ sở. Xuân Hà véo von với bà Châu:

– Bác à, hôm nay món cá kho tiêu nầy làm cháu nhớ lúc còn ở bên nhà vào tuần lễ sau Tết, cá lòng tong đá bác chiên giòn dầm nước mắm xoài non đầu mùa. Mèn đét ơi, còn món canh chua cá lòng tong nấu với bông so đũa nữa. Ôi bác nấu ngon quá rồi, cần gì phải canh chua cá bông lau và lá dang? Bây giờ món tôm chiên bột, món bánh cuốn, món phở của bác có thua gì các món Bắc bán ở tiệm Ngọc Hương bên hông chợ Bến Thành ngày xưa đâu?. Còn món bánh xèo ở chợ Đủi, chợ Vườn Chuối làm sao mà ngon hơn bánh xèo do bác gái của cháu được.

Nghiêm đứng sau lưng vợ, pha trò:

“Món Nam, món Bắc, món Trung,

Tui táp, tui nuốt, chăng dung món nào”.

Cả nhà cười bò lăn. Thể Hà cũng cười, nhưng bất chợt nàng dừng lại nhìn đăm đăm Xuân Hà như dò hỏi? Xuân Hà nháy mắt ám hiệu bảo chị dâu đừng nói gì cả. Thể Hà nhớ rõ ràng hai câu thơ nầy hồi sanh tiền anh Hưng thường hay nói mỗi khi ngồi vào bàn ăn mà? Thôi rồi, Xuân Hà mượn miệng chồng để được nghe lời nói của cố nhân!

Thái Vân được vợ chồng Xuân Hà đến nhà thăm viếng vài lần. Trong dịp họ đi công tác gần nơi gia đình Thái Vân sinh sống, hay nghỉ hè ở Canada trên đường đi ngang qua. Đôi bên có niềm tương thân không sâu đậm. Bởi Thái Vân và Xuân Hà vốn không tương đắc. Mặc dù họ vẫn tặng quà cáp cho nhau. Họ vẫn ân cần rủ nhau đi ăn những món bình dân. Nhưng cái thế giới của vợ chồng Xuân Hà khác xa với thế giới của vợ chồng Thể Hà, và vợ chồng Thái Vân.

Xuân Hà đậu bằng tiến sĩ văn chương, mấy năm sau được nhận vào dạy văn chương Á Châu cho một trường đại học có tiếng. Vợ chồng cô tham khảo văn chương và âm nhạc tây phương, hội họa quốc tế. Bây giờ, sức mấy mà cô thèm đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tiểu thuyết tình cảm của bà xẩm Hương Cảng Quỳnh Dao, nghe giọng hát của Thanh Tuyền, Thanh Lan, Chế Linh…

Cô dự những buổi triển lãm hội họa, đi nghe hòa nhạc, xem vũ Ballet, nghe các giọng hát opera (ca kịch tây phương). Cô leo lên diễn đàn để diễn thuyết về kinh tế, chính trị. Chồng cô viết sách biên khảo văn chương và cùng soạn với vợ những bộ sách viết về triết lý, tư tưởng của các bậc thánh nhân, hiền triết bên Tàu và bên Ấn Độ.

Thái Vân kết luận: “Văn minh, kiến thức, trí thức cướp sống con bạn Xuân Hà của mình rồi. May mà nó nhũn nhặn còn nghĩ tới bọn dân ngu khu đen như tụi mình. Nó dù có thiện chí với tụi mình, nhưng ba cái thứ văn chương mắc toi, ba cái kiến thức, trí thức ôn dịch không cho mầy xáp lại gần nó như ngày xưa đâu”.

Riêng Xuân Hà cũng có lần phàn nàn với vợ chồng Thể Hà:

– Coi bộ anh chị không thân ái với vợ chồng em bằng với vợ chồng chị Thái Vân. Chị Thái Vân và chị Thể Hà hễ gặp nhau là ăn nói thả giàn, vui như trúng số độc đắc. Còn anh gặp ông Tom Hunter là bày đặt cụng ly côm cốp rồi nhậu nhẹt say nhừ. Chị thì uốn lưỡi bảy lần khi nói chuyện với em. Còn anh thì có vẻ mất tự nhiên khi đàm đạo với chồng em, anh dùng cái xã giao còn khéo hơn cái thân ái trong vòng họ hàng. Tại sao vậy?

Từ dạo rời Việt Nam, cho dù lúc còn ở trại tỵ nạn,Tết Nguyên Đán nào bà Châu cũng dặn dò các con, các cháu phải ghi nhớ, cúng lễ như thời ở bên nhà, lúc giặc chưa vào chiếm miền Nam. Trước ngày Tết ta, bà cùng dâu đi chợ, lựa mua thịt đùi về kho trứng, gói bánh tét, làm dưa cải chua, hầm khổ qua, gói bì, làm cơm rượu, nấu xôi vò… Bà mua trà Tàu, bánh, mứt, lạp xương, hồng khô… Những thức ăn để cúng quảy trong ba ngày Tết, ở đây những thứ có thể làm được, mua được thì thế nào bà cũng làm, cũng mua sắm. Bà Châu muốn nhắc nhở con cháu bà những gì bà hiểu biết về ngày tư ngày Tết trong phong tục, tập quán của người Việt Nam.

Ngày 23 tháng Chạp, bà Châu nấu mâm cơm, cùng chè xôi cúng đưa ông Táo về chầu Trời và cúng ông bà. Bà dặn các cháu, khi cúng phải dốc lòng thành cầu nguyện, rồi nhắn gởi ông Táo về trình với Ngọc Hoàng, thì những gì mình mong muốn sẽ được hiển linh.

Bà dặn con trai phải gọi mời hai ba tuần trước gia đình Thái Vân, gia đình Xuân Hà ngày 30, rước ông bà về ăn Tết với con cháu. Họ phải sắp xếp thế nào, ngày đó nghỉ việc, hoặc về sớm cùng đón rước ông bà, và ăn bữa cơm gia đình đoàn tụ. Để các con biết đó là ngày Tết Nguyên Đán mà hướng vọng về quê cha đất tổ.

Tết năm đó như đúng lời hẹn, Thái Vân và Xuân Hà đưa chồng con đến. Thái Vân tặng vợ chồng Thể Hà bức tranh Tàu “Đông Hàn Tam Hữu” tức là ba người bạn của mùa đông giá lạnh: đó là ba loại cảnh, thanh tùng, lục trúc, hồng mai. Vợ chồng Xuân Hà thì tặng anh chị mình tranh sơn mài của Thành Lễ “Ngư, Tiều, Canh, Mục”. Những mảnh xa cừ màu trắng đục pha ngà rập rờn ánh bạc nổi bật trên nền gỗ sơn màu nu pha đen.

Đông Nhựt mua đâu được bàn bầu, cua, cá, cọp cho lũ trẻ. Bọn chúng ăn đậu phộng rang, cắn hột dưa, xả vỏ đầy sàn nhà, trong cuộc ăn thua chúng còn cãi lộn ỏm tỏi. Chồng Xuân Hà bắt hai bên phải xin lỗi, và bắt tay thủ huề với nhau. Thái Vân định há miệng toan rầy con, bà Châu nói át:

– Tết nhứt cháu đừng rầy tụi nó, để tụi nó không bị xui xẻo cả năm.

Xuân Hà than thở:

– Hai thằng cốt đột của cháu, dạo nay có thêm bác nuông chiều nên chúng đổi tánh kỳ cục, vòi vĩnh và khó dạy!

Bà Châu trợn mắt:

– Nồi ơi, Tết nhứt mà sao cháu lại than thở ỉ ôi nữa? Coi chừng xui đó nghen. Việc gì cũng phải nhịn, qua Tết rồi hẵng hay. Mà sao cháu khó tánh quá vậy? Chúng nó có làm gì thái thậm đâu?

Thái Vân cười, chọc quê:

– Ậy, ậy! Bác cũng đừng rầy Xuân Hà chớ. Bác không sợ chị ấy xui xẻo cả năm hay sao?

Mọi người cười rộ lên. Không khí vui nhộn, thân ái, ấm cúng của ngày cuối năm lan tràn khắp nhà trong khi ngoài trời tuyết rơi trắng xóa ngập cả lối đi.