← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI NĂM

Vào kỳ đám giỗ cha của Thể Hà, Xuân Hà có về dự, nhưng không có dắt chồng con theo. Lý do Nghiêm không đi vì bận rộn trong lúc thi ra trường của các sinh viên anh phụ trách. Hai cậu con trai thì đi trại hè mà họ đã ghi tên từ nửa năm trước.

Xuân Hà tặng vợ chồng Thể Hà mấy quyển sách nền thương mại kinh tế hiện đại dưới chế độ Cộng sản. Đây là công trình biên soạn do hai vợ chồng cô hợp tác. Thể Hà biết rằng mình đã mất hẳn một cô bạn thơ mộng năm xưa. Xuân Hà đã huy hoàng trong một thế giới khác, trong một môi trường khác.

Chiều tối, trước ngày giỗ cha, Thái Vân điện thoại qua cho biết nàng không về được. Vì Tom trở bịnh phải vào nhà thương hồi sáng nay. Giọng nói của Thái Vân đầy nước mắt qua điện thoại:

– Đêm qua tao nằm chiêm bao. Tao thấy mình đứng bên bờ rào nghĩa địa. Hàng rào bằng dây kẽm gai. Tom đang quờ quạng đi trong nghĩa trang dầy sương mù mờ mịt. Tao gọi ảnh rát cả cổ mà ảnh không ra tới hàng rào. Đang lúc lo sợ bối rối, tao thấy chị hàng xóm ngày xưa bên cầu Chữ Y nhảy qua hàng rào, vào nghĩa trang. Chỉ nắm tay chồng tao lôi nhảy qua hàng rào trở ra ngoài. Lúc đó sương tan, mặt trời chiếu tỏ rạng. Nhìn lại thì tao thấy nghĩa trang biến đâu mất. Một khu buôn bán sầm uất hiện ra, trong đó có cửa hàng giống tiệm cũ của tao. Chẳng biết đó là điềm gì đây?

Thể Hà an ủi:

– Biết đâu đó là điềm hên mà bọn mình đoán không ra. Nhưng mầy tin đi, chắc là sẽ có quới nhơn đến giúp đỡ vợ chồng mầy. Mầy tốt bụng, lẽ nào Trời Phật để mầy thiệt thòi hoài hay sao? “Thần cho nhân loại khổ đau, cũng cho họ hạnh phúc sau đó“. Sau giỗ ba, vợ chồng tao sẽ qua thăm bọn mầy.

Thái Vân yêu cầu:

– Nếu Thái Dương có về, thì rủ nó đi với. Trong mấy đứa con mầy, coi bộ Thái Dương mến mẹ con tao nhứt.

Thể Hà an ủi Thái Vân cho có chuyện:

– Mầy rán bảo trọng sức khỏe. Hôm má chồng tao đi Texas thăm vợ chồng Xuân Hà về, Bà có xin cho mầy cái xăm trung kiết. Xăm nói dù mầy kề bên miệng vực thẳm đi nữa, cũng có dịp may được cứu vớt bất ngờ. Ý nói là mầy tiền hung hậu kiết đó.

Khi buông ống điện thoại Thể Hà bàng hoàng. Biết đâu những lời đặt chuyện đía xạo của mình phù hợp với giấc chiêm bao của Thái Vân? Đời vốn có nhiều chuyện huyền bí, mầu nhiệm mà lạị!

Chiều nay thứ sáu, mai là ngày cuối tuần, Thể Hà thấy nhẹ nhỏm. Ngày thường Thể Hà bận đi làm, mọi việc đều để lại cuối tuần, cho nên ngày đi làm còn thong thả hơn ngày cuối tuần. Nhưng nàng vẫn thích ngày cuối tuần, dù bận rộn, nhưng nàng có thời gian đi thăm con, nói chuyện bằng điện thoại với con, hoặc làm xong những công việc nhà lặt vặt mà ngày thường làm chưa xong.

Thể Hà cởi chiếc áo lạnh vắt lên máng áo, thảy xâu chìa khóa vào rổ, liếc nhìn tấm giấy có biên số điện thoại lạ để trên bàn dằn lên cái cắt móng tay. Nàng cầm lên săm soi, suy nghĩ, nhưng vẫn không biết số điện thoại nầy của ai. Nàng hỏi mẹ chồng, bà Châu nói:

– Hồi trưa, Xuân Hà ghé cho hai trái bầu. Bầu mới cắt còn tươi rói non nhẫn. Mai, má nấu canh bầu với tép cho bây ăn. Thằng Đông ưa món nầy lắm. Má nhớ hồi còn ở quê nhà, tôm càng xanh vỏ, có càng dài, ở vùng nước ngọt, và tôm hùm ở biển mới gọi là tôm. Còn bao nhiêu đều gọi là tép hết. Như là tép bạc, tép lóng, tép mồng, tép muỗi, tép thợ rèn, tép đất… Qua đây rồi, con nào họ cùng gọi là tôm cả. À, Xuân Hà đưa số điện thoại đó, nó nói là của bà Nguyệt Nga ở tiểu bang xa gọi qua thăm tụi bây.

Thể Hà lại cầm tờ giấy ghi rõ số điện thoại săm soi lần nữa, rồi nói với bà Châu:

– Hèn gì nhìn ba số đầu của điện thoại lạ quá! Dữ đa, lâu lắm rồi mình không tin tức gì của chị Nguyệt Nga. Má còn nhớ không? Hồi mình còn ở chung cư, lúc đó chỉ được qua San Fracisco có gọi cho mình mấy lần rồi mất tiêu luôn. Lâu quá, chỉ không có gọi, con gọi qua thăm thì tổng đài cho biết đường dây đó cắt rồi. Mình lại dời nhà, đổi số điện thoại. Chỉ khôn thiệt, gọi cho Xuân Hà chớ không thì làm sao mà tìm ra mình. Không biết bây giờ chỉ ra sao? Thời gian qua mau quá. Mới đó mà đã mà mười mấy năm rồi. Con cái của chỉ chắc cũng có đứa thành gia thất, và cũng có đứa đã đi làm rồi?

Bà Châu chép miệng:

– Má thấy cái tướng của cô Nguyệt Nga không nghèo, cũng không giàu. Nhưng cổ có tấm lòng hào hiệp hay giúp đỡ người ươn yếu, hoạn nạn. Nhờ vậy mà ông trời thương, luôn cho cổ gặp may mắn, nên cổ sẽ không đến nỗi nào dâu. Ở đời nầy, có “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” đâu con? Mình ở phải thì trời sẽ thưởng cho con à, “Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho. Miếng khi đói bằng gói khi no” mà. Má luôn nghĩ như vậy, nên lúc nào má cũng muốn các con và các cháu của má là làm người phải có nhân đức để còn nhờ ở mai sau.

Thể Hà rất thương kính má chồng. Nàng biết bà lúc tuổi thanh xuân cũng gặp nhiều cay đắng, đau thương. Chồng chết, lại không được gần con, bà phải sống vất vả nương náu bên ngoài… Nhưng bà không lấy sự bất hạnh của mình mà đổ trút cho cuộc đời rồi sanh ra thù hận cuộc đời, như một số người khác bị lâm vào cảnh hoạn nạn như bà. Mà bà cho đó là do Ơn Trên thử thách mình. Nên trong lòng bà, trong mắt bà luôn có sự tha thứ, bao dung. Thể Hà mỉm cười một mình. “Sống chung với mẹ chồng lâu như vậy, nên mình cùng tiêm nhiễm được những tánh tình tốt nầy của bà”.

Mỗi tuần vợ chồng Đông Nhựt thường cùng đi thăm con ở trường đại học Northwestern. Có nhiều lúc Thái Dương bận học ở thư viện, nàng không muốn làm mất thì giờ của con. Hai người dùng chìa khóa riêng vào phòng, để thức ăn và những thứ đồ cần thiết trên bàn. Nàng dọn dẹp, sắp xếp phòng lại ngăn nắp, gom góp quần áo dơ đem về nhà giặt, tuần sau đem xuống cho. Trước khi ra về, vợ chồng nàng viết vài dòng để lại cho con.

Hôm nay, Thể Hà một mình lái xe đi thămThái Dương. Nàng đi vào chưa đến chân cầu thang để lên phòng, thi mùi ói tanh tưởi xông lên, và mùi rượu còn vương vẩn quanh đây. Bây giờ, cảnh nầy đối với nàng không còn lạ nữa. Nhớ lần đầu đi thăm con nàng vừa ngạc nhiên, vừa khó chịu. Nàng hỏi thì Thái Dương cho biết:

– Cuối tuần mà mẹ, tụi nó đi uống rượu say ở bên ngoài, về đến cầu thang ói tùm lum hôi hám không chịu được.

– Nhà trường không cấm sao?

Thái Dương cười, ranh mảnh:

– Có chớ mẹ, nhưng không cho uống nơi phòng học, chỗ ở và trong trường thôi, nhưng đôi khi tụi nó còn lén đem bia về phòng uống nữa kia. Sinh viên đại học là người lớn rồi, ai mà cấm đoán uống rượu ở bên ngoài khi chúng đã hai mươi mốt tuổi. Chỉ có chị em con, đến một trăm tuổi thì mẹ và bà nội vẫn coi là “baby”.

Thể Hà nghe con nói cười bùi ngùi, thổn thức trong lòng “Chừng nào có con, con mới thấu hiêu nỗi lòng của mẹ”. Cũng như mọi lần, Thể Hà lấy ly hứng nước tưới chậu hoa hồng có bông nở quanh năm. Loại hồng nầy bông lớn bằng đầu ngón chân cái, màu vàng thắm tươi. Kia là chậu trầu bà để trên cửa sổ đầy đủ ánh sáng nên lá xanh, tươi tốt. Nàng xếp mền, sắp gối để lại ngay ngắn trên đầu giường, gom góp áo quần thảy bừa bãi dưới sàn nhà, tô, chén, lon nhựa đựng thức ăn tuần rồi, để hết vào túi xách đem về. Rồi lái xe đi gặp chị Nguyệt Nga, người quen biết ở trại tỵ nạn bên Nam Dương, mà hai người đã điện thoại hẹn từ mấy tuần trước.

Thể Hà vừa bước vào nhà hàng của người Ý, mắt còn dè dặt kiếm tìm thì sau lưng có tiếng vui vẻ hỏi lớn:

– Phải chị Nhựt không? Tôi là Nguyệt Nga đây!

Thể Hà vừa quay lại, chưa kịp chào thì chị Nguyệt Nga vừa cười ngất, đưa tay bắt và nói một hơi:

– Nguyệt Nga ơi hỡi Nguyệt Nga / Việt Cộng tàn ác, nàng qua xứ người!

Nàng cười nhẹ, đưa tay ra siết tay chị:

– Chào chị, chị có khoẻ không? Lâu quá, mình mới gặp lại. Chị đẹp hơn xưa nhiều.

Người thanh niên mặt mũi sáng sủa, ăn mặc theo thời trang, đúng sau lưng chị Nguyệt Nga nhẹ chào nàng. Thể Hà ngờ ngợ chào lại. Chị Nguyệt Nga đon đả:

– Con trai út của tôi đó chị Nhựt. Thằng nầy lúc ở trại tị nạn một tháng nó bịnh hai mươi lăm ngày, tôi tưởng quăng ở đảo rồi chớ.

Cậu thanh niên nói nhỏ với chị gì đó. Chị gật gật đầu nói lớn:

– Ờ, thôi con đi đi. Khi nào xong mẹ sẽ gọi điện thoại cho con.

Thằng nhỏ bước đi. Chị quay qua Thể Hà:

– Nó bận ra tiệm phụ làm với anh nó chị ơi. Chúng mình ngồi vào bàn đi, chị ăn gì thì gọi. Gần hai mươi năm mới gặp lại, tướng tá chị cũng không gì thay đổi nhiều, chị trắng hơn, mặn mòi hơn. Sao, bác Châu, anh Nhựt và mấy đứa nhỏ luôn khỏe chớ? Có đứa nào lập gia đình hay đi làm gì chưa?

Ở Mỹ bấy lâu, có rất nhiều người thay đổi từ tánh tình, hình dáng, đi đứng, ăn mặc, kiểu cách… Người ta thường nói “Thập niên, sơn thủy luân lưu chuyển”. Còn chị Nguyệt Nga nầy thì đúng là “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng bản tánh Nguyệt Nga không bao giờ thay đổi”. Chị đã nói lớn tiếng thì chớ mà cái giọng nói vẫn rổn rảng trước chỗ đông ngươi như xưa. Nhưng chị Nguyệt Nga lại cho Thể Hà một cái nhìn khác. Hôm nay chị mặc chiếc áo dài được may theo kiểu xường xám của người Tàu, bằng gấm Thượng Hải màu ngọc thạch có in nổi mai, lan, cúc, trúc màu trắng bạc ẩn hiện trên nên hàng. Áo chị mặc tay ngắn, khoe làn da trắng nõn nà, và bó sát eo như tài tử Lý Lệ Hoa. Nhưng chị không cao sang như cô nữ hoàng điện ảnh Hương Cảng đó, bởi chị hơi thấp mà còn hơi “sổ sữa” nữa, nên trông chị thật là tròn trịa. Chị còn dồi thêm lớp phấn dầy trên da mặt nên trông chị giống như bức tượng đắp bằng thạch cao chưng trong tủ kiếng ở các cửa hàng ngoài siêu thị. Chị đeo nhiều nữ trang quý giá, chứng tỏ chị có tiền bạc dồi dào. Đôi bông hột xoàn, nhẫn cặp, giây chuyền cổ, vòng tay… toàn là hột xoàn, lấp la lấp lánh dưới ánh đèn điện của nhà hàng.

Chị vẫn như xưa, vẫn vui vẻ, bặt thiệp kể cho Thể Hà nghe hết chuyện nầy đến chuyện khác. Mười mấy năm rồi mới gặp lại, hôm nay chị tha hồ tâm sự và Thể Hà tha hồ chịu trận ngồi nghe mệt nghỉ. Nguyệt Nga nói:

– Chị biết không chị Nhựt? Hai thằng con trai lớn của tôi cưới vợ rồi. Mỗi đứa có một đứa con. Thằng thứ hai dọn về lập nghiệp ở thành phố nầy được cả năm nay. Nó có ba tiệm làm móng tay ở đây, nên coi không xuể. Có khi không có thì giờ để đếm tiền… Đứa con út hồi nãy chị gặp đó cũng qua đây phụ cho anh nó. Ba đứa nhỏ tôi đều lớn lên trên đất nước Hoa Kỳ. Đứa nào cũng đẹp trai, cũng lanh lợi. Nhưng chị ơi, nghĩ lại tôi vô phước bạc phần lắm chị à.

Thể Hà chưng hửng:

– Ủa, lại còn chuyện gì nữa đó?

Chị Nguyệt Nga xịu nét mặt:

– Hai thằng con trai lớn của tôi có tướng hùng “vai năm thước rộng, lưng mười thước cao” nhưng tụi nó sợ vợ lắm chị ơi. Hai đứa đều lấy vợ Việt Nam. Chúng nó cũng xứng đào xứng kép lắm. Hai cỏn không ưa mẹ chồng, nói hành nói tỏi tôi, chê tôi hủ lậu khó tánh. Để chọc tức tôi, tụi nó luôn õng ẹo với chồng, gọi chồng bằng hờ-ni, còn cố tình chu mỏ chờ chồng hun mỗi khi tôi trờ tới. Ở xứ mình, vợ của con trai mình là nàng dâu, là con dâu, chớ xứ nầy tụi nó là bà dâu. Còn bà mẹ chồng thì biến thành con mẹ chồng, chớ đâu được lên tới địa vị mụ mẹ chồng. Chị ơi, thiệt là bạc phước cho con Nguyệt Nga nầy. Còn thằng út tôi, chị thấy đó. Nó đẹp trai có thua gì tài tử điện ảnh Hồng Kông nên cứ lẹo tẹo với mấy con Mễ cái, Mỹ cái, dù chưa định cưới con nào. Nhưng ai biết mai sau, nó sẽ tính sao? Tôi có than thở về hai thằng anh trời đánh thờ bà, thì nó cười khì khì: “Má ơi, con cái càng lớn thì càng xa cha mẹ, đứa nào cũng có cuộc sống riêng. Má còn trẻ đẹp sao má không kiếm một boyfriend cho đỡ cô đơn. Có người bạn trai, má sẽ cảm thấy yêu đời, bớt hằn học với hai nàng dâu của má”. Nghe nó nói, tôi suy nghĩ lung lắm, rồi thì chị biết sao không chị Nhựt?

Thể Hà cười cười, nhìn chị:

– Rồi thì chị quơ đại một chàng trẻ tuổi bảnh trai để làm bạn chớ gì?

Chị Nguyệt Nga lộ vẻ hí hởn ngay, rồi làm vẻ bi ai:

– Chị đoán trúng lắm. Con cái ăn ở đoản hậu nên tôi tính phận tôi chớ. Từ khi tôi gá nghĩa với Trần Nghĩa Đởm nầy, tụi con trai tôi chịu lắm, coi như tôi ra khỏi cuộc đời riêng tư của tụi nó. Thật là đồ ích kỷ, bất hiếu, vô ơn, lại nhiễm cái thói văn minh mắc toi, ôn dịch, coi vợ coi mèo hơn mẹ. Bởi vậy ông bà mình thương nói “Nhà xa hơn chợ / Sợ vợ hơn sợ cha” Thật là đúng hết chỗ nói mà!

Chị thở dài thườn thượt, bỗng chị trở giọng:

– Ba của mấy đứa nhỏ tôi đi theo diện H.O với bà vợ trước của ổng. Hiện giờ, họ đang ở đâu trên Bắc California. Lúc ổng mới qua, tôi có cho mấy đứa nhỏ đi thăm, còn tôi thì không đi, vì tình nghĩa của tôi và ổng, Việt cộng cắt đứt từ khi ổng bị bắt đi học tập cải tạo và lúc mẹ con tôi xuống tàu rời bỏ quê hương.

Nói đến đây chị cười ỏn ẻn, giọng ngọt lịm, mắt long lanh ướt rượt sóng tình:

– Vả lại bây giờ tôi đã có chồng khác rồi. Ông nầy ly dị vợ. Không biết phải cái số hẩm hiu của tôi không, mà lúc nào tôi cũng làm vợ sau của người ta không hà! Nhưng ông nầy ngon hơn ông chồng trước của tôi nhiều chị ơi. Ổng trẻ hơn tôi bốn tuổi, nhưng mê mệt tôi lắm. Lần sau qua đây, tôi rủ ổng theo đến nhà thăm bác và anh chị, lúc đó tôi sẽ giới thiệu ổng luôn. Vân Tiên của tôi đó đa, kép Đặng Quang Vinh của tôi đó đa chị.

Nói đến ông chồng mới, chị làm điệu e thẹn, rồi đôi mắt chớp chớp mơ màng. Thể Hà biết chị đang rớt vào mê hồn trận yêu đương say mê đắm đuối ông chồng trẻ nầy rồi. Nàng chép miệng nghĩ thầm, thật là đồ mắc toi, già dịch, đã có cháu nội rồi mà không an phận, còn õng a ỏng ẹo thật là không nên nết chút nào.

Nguyệt Nga kể về mình cả buổi vần chưa hết.

Sau cùng Thể Hà mời chị, lần sau có qua thăm con, đến nhà nàng chơi, vì bây giờ nàng phải đi về, trên đường về phải qua cánh rừng thưa dài, nên không tiện cho nàng lái xe một mình khi trời tối. Hai người cùng đứng lên vui vẻ chào nhau chia tay ra về. Bỗng chị Nguyệt Nga quẹo đầu ra sau thân mình, xoay qua, xoay lại hỏi:

– Chị Nhựt, chị xem bây giờ tôi mập lắm phải không?

Thể Hà lừng khừng, nhưng mỉm cười bảo:

– Chèn ơi, dạo nầy chị mập hơn một chút, nhưng mập chắc, mập tươi trẻ, mập hồng hào, mập đẹp, mập sang, như mấy bà mệnh phụ phu nhân, chớ có mập sồ sề đâu mà sợ.

Nguyệt Nga có vẻ hài lòng:

– Chị nói đúng lắm, nhiều người cũng khen tôi như vậy.

Thể Hà lại nghĩ, chị Nguyệt Nga nầy mập ra trông đẹp thiệt, chị đẹp và trắng nõn nà như củ kiệu trâu. Củ kiệu trâu tuy lớn mà nhớt nhớt, nếu đem làm dưa thì không thơm, không dòn bằng cũ kiệu hương. Nhưng ví chị như củ kiệu hương thì không ổn, vì củ kiệu hương làm dưa tuy ngon mà kém trắng ngà, trắng ngọc. Nghĩ đến đây. nàng lại nhớ đến món củ kiệu đập giập giập xào với tôm thịt của má chồng nàng thường làm.

Bỗng Nguyệt Nga nhìn Thể Hà soi bói:

– Chắc chị Nhựt chê tôi đoản hậu. Thật tình mà nói, khi tôi làm bé ông Định, tôi chỉ hạnh phúc khi cầm bạc, đếm tiền rồi cất vào tủ, hoặc đi gởi vào trương mục ngân hàng. Tôi không biết tình yêu là gì cả. Bà vợ lớn ổng dù yên phận thiệt thòi nhưng bả cũng tủi, cùng buồn chớ. Giờ đây tía sắp nhỏ sau thời gian cực khổ ở chốn tù đày, tôi phải trả ổng về cho bà vợ lớn. Giữa họ, dẫu hết tình cũng còn nghĩa. Còn giữa ổng với tôi từ đầu cuộc chỉ có nghĩa buộc ràng. Tôi không tìm gặp ở ổng một chút đam mê nào cho trái tim mình cả “Bây giờ tui tính phận tui / Ông còn vợ lớn thì vui với bà”

Nguyệt Nga giành trả bữa ăn nhẹ, bánh ngọt và nước uống hôm nay. Sau khi tính tiền, họ vừa đi chầm chậm vừa nói chuyện. Nguyệt Nga gọi con đến rước. Thể Hà cũng đứng chờ với chị. Nguyệt Nga cong đôi mày liễu, chớp chớp hàng lông mi dài, điệu đà khoe tiếp:

– Tụi con tôi thương má lớn nó cũng như thương tôi vậy. Hễ có nghỉ lễ là anh em tụi nó đi thăm ổng. Tôi nhứt định không đi, nhưng chúng nó năn nỉ riết, cầm lòng không đặng nên tôi cũng đi theo chúng. Chồng cũ của tôi không có vẻ gì cay cú hay hờn giận tôi. Ổng còn cảm ơn tôi nuôi dạy con ổng nên người. Vợ ổng gặp lại tôi, bà hết sức niềm nỡ vui vẻ và cảm ơn tôi cho ba đứa nhỏ về thăm ba nó. Thấy vợ chồng ổng đầm ấm hơn xưa nên tôi cũng mừng lắm. Bả cũng tần tiện gởi tiền về giúp cho bà chị chồng ó đâm của tôi còn kẹt ở Việt Nam thường xuyên. Bả khéo ăn nói, khéo cư xử, lại có tấm lòng mẫu tử bao la, nên lũ con dâu tôi kính yêu bả lắm. Tôi có dặn chúng nó rằng: “Khi má lớn bây trăm tuổi già, tụi bây phải theo phận hiếu tử để tang cho bả”. Cách nay mấy tháng, cô mấy đứa nhỏ gởi thư qua xin năm ngàn đô-la để phụ thêm cất cái chùa theo kiểu Nhật Bổn, để thiện nam tín nữ tới lui có nơi trang nghiêm cúng bái. Chị coi, đã đi tu là dứt nợ trần gian, nên cần gì phải cất chùa lớn, chùa đẹp, kiểu nay kiểu kia? Cái mụ chị chồng tôi miệng đọc kinh, tay đếm bạc. Cái miệng bả độc địa lắm. Hồi xưa, hễ cô nào chưa tới ba mươi tuổi mà đi tu thì mụ nói hành nói tỏi người ta. Thiệt là “Tối độc phụ nhân tâm” mà. Nói thì nói vậy chớ tôi cũng rút tiền tiết kiệm, hùn với mấy đứa nhỏ gởi về cho bả 2 ngàn đô.