CHƯƠNG MƯỜI BẢY
Sáng sớm hôm sau, Nguyệt Nga điện thoại đến cho biết chị đã sẵn sàng rồi. Chỉ chờ mọi người đến là đi ngay cho sớm. Nguyệt Nga là thế đó, lúc nào cũng sốt sắng và tốt bụng.
Thái Vân lái xe cùng chồng ngồi băng trước, còn Thể Hà và Nguyệt Nga ngồi băng sau. Đã có số điện thoại và địa chỉ sẵn trong tay, Thái Vân chạy ra xa lộ rồi thẳng đường bon bon đi hướng về Scramento là thủ phủ của tiểu bang California.
Ở Mỹ thì nơi nào cũng vậy, xứ sở người ta giàu có quá! Từ thôn quê đến thị thành nhà cao cửa rộng, khang trang. Đường tráng nhựa bằng phẳng dài hun hút lên đồi xuống dốc không có ổ gà, không có sỏi đá lồi lõm lổm chổm, bởi không bị chiến tranh tàn phá và luôn luôn được tu bổ…
Đúng 2 giờ 40 phút, xe đến trước cổng nhà ông thầy thuốc Nam. Nhà ông ta ở về hướng Bắc, từ Sacramento tới đây phải mất 45 phút nữa. Nhưng xe chạy ở xa lộ không bị đèn đỏ, không vào Sacramento nên thời gian từ San Jose đến nhà ông thầy thuốc Nam, hay từ San Jose đến Sacramento vẫn bằng nhau.
Ông thầy thuốc người dong dỏng cao. Bà vợ xấp xỉ tuổi chồng khoảng sáu mươi ngoài. Họ người miền Bắc, theo cha mẹ di cư vô Nam, vào năm 1954, và lập nghiệp ở Hội An. Cho nên giọng nói của vợ chồng ông thầy, dễ nghe hơn những người sanh đẻ ở địa phương nầy.
Sau khi đôi bên chào hỏi, giới thiệu, chị Nguyệt Nga nói rõ nguyên nhân bọn họ đến đây. Ông thầy bắt tay vào công việc chẩn mạch cho chồng của Thái Vân ở phòng khách.
Nguyệt Nga và Thể Hà ra nhà sau nói chuyện với bà thầy. Bà thầy người nhỏ nhắn, vui vẻ, lanh lợi. Bà mặc áo bà ba bằng tơ màu trái măng cụt, quần đen, mang đôi dép kẹp. Tóc bà bới gọn sau ót, tai đeo đôi bông cẩm thạch mù u xưa thật là xưa, bây giờ rất hiếm thấy. Hai ngón tay bà đeo hai khâu vàng dầy rộng bản. Bà vui vẻ mở lời:
– Ông nhà tôi làm thầy thuốc Nam mấy chục năm rồi, chỉ làm giúp bố thí cho dân làng lúc còn ở quê hương. Ông chỉ lấy tiền tượng trưng để sống qua ngày và mua thêm thuốc để dành cho bịnh nhân đến sau thôi. Có lẽ nhờ vậy mà Ơn Trên phù hộ cho con trai chúng tôi vượt biên qua đây rồi bảo lãnh vợ chồng tôi. Và lần lượt nó bảo lãnh cho các em nó được qua đây hết. Nay thì chúng nó có gia đình, có nhà riêng, có công ăn việc làm vững chắc ở quanh đây.
Thể Hà biết nhà nầy không phải là tiệm bán thuốc Bắc. Cũng không phải phòng khám bịnh như các tiệm thuốc Bắc ở bên nhà. Ông thầy thuốc Nam được bịnh nhân thường gọi ông là thầy Tám Chấn.
Vợ chồng thầy Tám Chấn ở trong ngôi nhà trệt không có lầu. Nhà khang trang nằm ở góc đường Stabler và đường Queens, làng Yuba City, quận Sutter, thuộc miền Bắc của tiểu bang California.
Sân nhà sau phơi nhiều thứ cỏ, cây, hoa, lá chặt khúc ngắn chừng hai phân, cây lớn thì vạt thành những lát mỏng. Đó là thuốc Nam. Dưới nắng trời gay gắt, các loại nầy có mùi hỗn hợp bay lên giống như mùi lá cách, mùi bưởi, mùi khổ qua, mùi sả, mùi nghệ, mùi chanh… Và mỗi thứ có cái tên dược thảo riêng của nó. Tất cả các loại thuốc đều phơi riêng. Bà Tám Chấn chỉ cho Thể Hà và Nguyệt Nga thấy trong nhà, còn một phòng nữa chứa đầy thuốc Nam khác. Nào là những rễ lá, thân cây, vỏ cây, hoa, trái già, trái non… được phơi khô chứa vào từng bao ni-lông lớn. Bà nói:
– Đó là những loại thuốc Nam quý được chặt ra phơi khô để dành. Đây là lá đu đủ tía, kia là rau muống tía, hột thầu dầu, lá đủng đỉnh, rễ cỏ tranh, củ cỏ cú… Thuốc nầy một phần là của những người được ổng trị khỏi bịnh khi về thăm Việt Nam, họ mua đem qua tặng để ổng giúp người. Có thứ thì ổng gởi mua của mấy người sống trong làng xã đã từng vào rừng núi tìm đem về bán cho khi chúng tôi còn hành nghề ở quê nhà. Rẻ lắm, chỉ có tiền chuyên chở hơi mắc, nhưng gởi bằng đường tàu có đi lâu một chút, nhưng không tốn bao nhiêu.
Bà Tám dừng lại, cầm ly nước lên uống và mời Thể Hà, Nguyệt Nga. Bà Tám nói tiếp:
– Chúng tôi ở đây với vợ chồng thằng con lớn. Già rồi, nên không có đi làm. Mấy năm đầu mới qua chúng nó nuôi, sau nầy xin được tiền già cũng đỡ. Nhưng vợ chồng tôi ăn ở có tụi nó lo, chẳng tốn kém đồng nào. Nên việc mua thuốc giúp người với chúng tôi không gì trở ngại cả. Ông nhà tôi hốt thuốc Nam giúp người chớ chủ yếu không vì tiền bạc.
Nguyệt Nga có vẻ không tin tưởng, nhưng cũng bảo:
– Hai bác làm van làm phước giúp đời như vậy, công đức thật là lớn, còn hơn xây chùa, cất miễu.
Nghe tiếng gọi của ông Tám, bà lật đật đi ra chỗ ông đang coi mạch cho Tom. Thái Vân vẫn còn ngồi bên cạnh chồng. Ông đưa gói thuốc, bảo vợ:
– Bà đem gói thuốc nầy sắc liền cho ổng uống. Nhà ổng xa lắm, ở khách sạn làm sao nấu thuốc được.
Bà cầm thang thuốc đi xuống bếp. Ông thầy thuốc nói với Thái Vân:
– Chồng cô bịnh lâu đời rồi, nay trở nặng, tôi không biết có trị được cho ổng không. Chỉ cầu xin ở Ơn Trên thôi. Để vợ tôi nấu thuốc, bà cho ổng uống lúc còn nóng. Rồi bà đưa ông ở tạm khách sạn đâu gần đây, ngày mai đưa ổng trở lại sớm, tôi cho ông uống thêm hai thang, và ngày mốt hai thang nữa. Nếu bớt, là ổng có hy vọng.
Thái Vân bật khóc vì mừng. Nàng vội khum xuống, xá lạy ông thầy tỏ lòng biết ơn và xin cứu chữa chồng nàng. Ông thầy cười hiền:
– Bà đừng buồn, đừng có lo quá thể. Con người đều có số mệnh cả. Tôi với ổng chắc là có duyên nên xa xôi như vậy mà hai vợ chồng cũng tìm được đến đây.
Tom đang hớp từng hớp thuốc đắng bốc khói, Thái Vân phải thổi pho pho cho bớt nóng để chồng dễ uống. Nàng chở mọi người đi tìm khách sạn ở cách nhà ông thầy Tám Chấn chừng năm phút lái xe để tiện dịp đi lại. Xong đâu đấy họ đến quán để ăn tạm. Thái Vân bảo với Nguyệt Nga:
– Vì chúng em mà đêm nay chị kẹt lại ở đây, thật là phiền cho chị quá. Ngày mai em sẽ đưa chị về
Nguyệt Nga cười dòn:
– Sao bây giờ cô khách sáo quá vậy? Hồi ở cầu Chữ Y hai đứa mình không phải như ruột thịt sao? Không phiền gì cả, tôi sẽ ở lại đây với mấy người, chừng nào về thì về luôn một thể. Tôi về nhà cũng không có chuyện gì làm. Tôi ở lại đây với cô và chị Nhựt cho vui, lâu quá chúng mình mới gặp lại, tôi có rất nhiều chuyện, nhiều việc để kể cho cô nghe… Còn nếu về, tôi cũng không cần cô đưa về tuốt dưới San Jose đâu, cô chỉ đưa tôi xuống Sacramento, trước tiệm bánh mì Hương Lan tôi đi xe đò Hoàng về San Jose, tốn có 20 đồng bạc thôi.
Thể Hà quay mặt nơi khác giấu nụ cười, nói thầm: “Làm sao mà chị ta chịu về, dù có đem xe hủ lô kéo chị ta cũng chẳng nhúc nhích. Đêm rồi có lẽ chị thức trắng không ngủ được, bởi bụng ấm ách nhiều sự việc chưa có dịp nói ra… Gặp lại Thái Vân thì đã trúng băng tần rồi, nếu đêm nay ai không cho chị ta nói, chị ta kể với Thái Vân thì người đó sẽ bị tiền trảm hậu tấu ngay. Mình còn lạ gì chị, nếu không được xì-xú-báp mà chị đã ấp ủ từ mấy chục năm nay về chuyện của kẻ thù là thằng bồ bác sĩ giả của Thái Vân ngày xưa, thì chị sẽ tức bụng mà chết ngay không kịp ngáp”.
Ăn xong, bọn họ trở về khách sạn. Vợ chồng Thái Vân ở một phòng, Thể Hà và Nguyệt Nga ở một phòng. Hai phòng sát vách nhau. Sau khi tắm rửa xong, Tom đi ngủ, Thái Vân xách một bọc ni-lông nặng qua phòng Thể Hà cười cầu tài. Nguyệt Nga trong phòng tắm bước ra, lanh lẹ hỏi:
– Cái gì trong bọc mà có vẻ nặng quá vậy cô Thái Vân?
Thể Hà vọt miệng:
– Trong bọc chắc là những thứ đồ ăn vặt chớ gì?
Đúng vậy, Thái Vân lấy từ trong bao ra chất lên bàn nào là phong bánh in nhưn đậu, táo xanh, xoài sống (hai loại trái nầy chua thấu xương). Hộp muối va keo ớt khô cà nhuyễn thiệt cay nữa. Thể Hà lắc đầu, cười:
– Tao chạy mầy luôn. Đến đây mà cũng tìm ra được những thứ nầy.
Thái Vân cười, trong khi Nguyệt Nga đến giành lấy bọc, lôi ra thêm nào là: mấy trái mận, đào dòn còn sống của Mỹ. Mấy trái cốc, chùm ruột ngâm trong keo của Thái Lan. Hộp me chín phơi khô trộn muối đường của Đài Loan. Mực nướng cán mỏng trong bao ni-lông của Đại Hàn. Kẹo đậu phộng, kẹo sữa của Hồng Kông. Sau cùng là ba cái bánh mì gà mua ở tiệm Mạc-Đa-nồ. Thể Hà ngó Thái Vân, ý muốn hỏi tại sao còn mua bánh mì? Thái Vân biết ý, cười tủm tỉm nheo mắt:
– Tao mua đồ chua đứa nào cũng thích cả. Tao cũng còn nhớ chị Nguyệt Nga thì thích kẹo đậu phộng và kẹo sữa. Còn mầy, mỗi lần ăn chua xong thì kêu xót ruột, nên tao mua bánh mì để hối lộ cho cái bao tử, và cái ruột mầy câm lại, để nửa đêm khỏi kêu gào thảm thiết không ai ngủ nghê chi được cả.
Thể Hà, cười nheo mắt:
– Tha cho mầy đó, vì mầy luôn nghĩ đến người khác. Tuy có bánh kẹo nhưng còn nước trà nóng đâu?
Nghe tiếng chân người, Thái Vân nói:
– Tới rồi kìa.
Nguyệt Nga và Thể Hà cùng lúc quay ra cửa, vừa phát ra tiếng động. Bà lao công đang bưng vào một bình cách nhiệt có nắp đậy, nhưng hơi nước trà nóng vẫn bốc lên nghi ngút. Thái Vân đỡ bình trà, hỏi bà ta:
– Còn cà-phê đâu?
Bà lao công cười vui, đưa hai bàn tay đỡ lấy tiền Thái Vân cho. Bà ta lễ phép trả lời:
– Tôi sẽ đem lên ngay. Thưa bà còn cần gì nữa không?
Thái Vân vui vẻ:
– Tôi nghĩ chắc là đủ rồi. Cảm ơn bà.
Bà lao công quay đi. Thái Vân gọi lớn. Bà lao công dội ngược, dừng lại chờ nghe. Thái Vân nói:
– A mà nầy, khi đem cà-phê lên, bà nhớ cho một ít khăn giấy nghen.
Người lao công dạ rồi quay trở ra, đóng cửa lại. Nguyệt Nga cầm trái chùm ruột nhai rào rạo:
– Tôi phải xử tử mấy trái chua trước, rồi mới phanh thây khô mực. Còn bánh mì gà, tôi cho nó nhập cảng sau cùng.
Thể Hà thành thật:
– Chị Nguyệt Nga ơi, mấy món ôn dịch nay làm lưỡi tôi muốn hóa lỏng rồi đây.
Thái Vân phàn nàn:
– Khó khăn lắm, tao mới kiếm được các thứ nầy. Quý lắm đó nghen mậy. Vậy mà mầy rủa mấy món ôn dịch.
Thái Vân, Thể Hà vừa ăn trái chua, vừa nghe chị Nguyệt Nga sôi nổi kể chuyện ngày xưa. Thể Hà nghĩ thầm, xưa thật! Thời gian qua quá mau đi thôi, mới đó mà bao nhiêu năm rồi chớ có ít ỏi chi đâu. Chị kể lể, làm mọi sự việc đã qua cuồn cuộn bừng sống lại trong lòng Thể Hà. Nàng tưởng chừng như mới qua mấy ngày trước thôi. Chị Nguyệt Nga buồn giọng:
– Lúc Việt cộng tràn vào có mấy ngày thì ba của mấy đứa nhỏ tôi bị bắt tập trung. Bà chị chồng tôi đem cho ổng cái mền, bởi mấy bữa trước ổng bị cảm chưa khỏi. Mấy thằng cán ngố vừa lấy mền vừa nói “Bà đem cái mền nầy cho ổng đắp, chừng nào cái mền mục ổng sẽ về”. Cho đến nửa năm sau mới biết ổng bị giam trong tù cải tạo ở Hàm Tân. Sau đó chúng đày ổng ra ngoài Bắc… Mãi đến ngày mẹ con tôi trốn đi ổng cũng chưa về. Nói thiệt với mấy chị nghen, tôi không ưa mụ chị chồng tôi. Bả cũng biết tôi ghét nên bả cũng chẳng ưa gì tôi. Nhưng mấy đứa con tôi thì bả thương lắm, cả vợ trước của ổng cũng thương tụi nó. Nhưng nghĩ lại bả cũng tốt lắm, nếu không có mụ cô nó giúp đỡ thì mẹ con chúng tôi lang thang lữ thứ rồi.
Thái Vân thở dài, chợt hỏi:
– Bây giờ chị em ổng ở đâu? Ngày xưa tôi biết, mặc dù ổng có bà lớn nhưng ổng thương yêu và lo lắng cho mẹ con chị lắm. Ổng có qua được đây chưa, chị Nguyệt Nga? Còn bà chị ổng nữa, ở Việt Nam hay đã đi nước nào rồi? Công sản đến đâu thì sanh linh đồ thán cửa nát nhà tan tới đó. Riêng dân Miền Nam bên nầy bờ Bên Hải, khi Việt cộng tràn vào như bầy chim vỡ tổ, lưu lạc khắp bốn phương trời làm thân chùm gởi!
Chị Nguyệt Nga trả lời:
– Ổng đi theo diện H.O với bà vợ trước. Năm nay hai người đó cũng già yếu lắm rồi nhứt là ổng. Sau ngày bị tù cải tạo về đến giờ tánh tình ổng không còn bình thường nữa. Họ đang ở vùng Bắc California, nhưng khác thành phố với tôi. Mấy đứa nhỏ đi thăm và cho tiền ổng bả hoài. Chúng nó cũng gởi tiền về cho mụ cô của chúng còn kẹt ở Việt Nam nữa. Năm trước, mấy đứa con tôi muốn bảo lãnh bà cô chúng qua đây du lịch, nhưng bả nói bả già rồi sợ đi xa và sợ ngồi máy bay lắm. Tôi nói thiệt cho hai chị nghe nghen, cho đến bây giờ tôi cũng còn ghét mụ chị chồng tôi lắm. Nhưng với tôi thì chuyện gì ra chuyện đó, mặc dù không ưa bả, nhưng tôi luôn nhắc nhở con tôi gỏi quà cáp tiền bạc cho bả. Vì dù sao, họ cũng cùng huyết thống với nhau. Mấy đứa nhỏ tôi làm ăn khá giả thì giúp đỡ họ cũng nên lắm! Khỏi đi chùa đi miễu.
Thể Hà xen vào hỏi:
– Chị Nguyệt Nga, tôi nhớ mấy năm trước gặp tôi ở Chicago, chị nói chị có chồng khác phải không? Vậy ông ta đâu rồi?
Nguyệt Nga sa sầm nét mặt một đống:
– Tôi xui xẻo gặp cái ngữ trời đất, sở khanh, lường gạt, cà chớn gì đâu không. Tôi tưởng tìm được người tâm đầu ý hiệp để sớm hôm có nhau trong lúc tuổi già ở xứ người buồn bã cô đơn nầy. Tôi không ngờ thằng chả cờ bạc và trong lúc sống với tôi như vợ chồng mà còn cặp bồ với con nhỏ chạy bàn ở nhà hàng trong vùng nữa. Tôi biết được, chặt đứt tình cảm đó cái bụp, tống cổ hắn ra khỏi nhà! Nó làm già néo, tui cho đứt dây luôn.
Nguyệt Nga thở dài, chán nản:
– Từ khi về San Jose đến giờ, tôi được bạn bè môi giới, cũng có mấy đám gấm ghé. Nhưng toàn là những ông nếu không ly dị thì cũng bị vợ bỏ, vợ chết. Tôi chán lắm cảnh chồng con rồi chị ơi. Nên tôi quyết tâm ở vậy nhứt định không ưng ai, không bước thêm bước nữa. Tôi thấy rằng sống hủ hỉ với đám con cháu coi bộ an nhàn và khỏe khoắn hơn.
Thái Vân và Thể Hà ngạc nhiên quá đổi! Vì đang rầu rĩ bỗng dưng chị Nguyệt Nga dừng lại, chồm lên gần họ hơn rồi trở giọng vui vẻ, cười toe toét, chỉ vào mắt mũi mình, nói:
– Cô Thái Vân và chị Nhựt coi nè, mấy đứa con cho tiền để tôi đi sửa mũi dọc dừa, cắt mí mắt bồ câu, bơm môi dầy cho khêu gợi. Chớ môi tôi vốn mỏng như lá lúa, xấu òm chớ đâu có đẹp như vầy. Ồ, bộ mấy chị không biết, không thấy con Nguyệt Nga nầy lạ sao?
Không ai bảo ai, Thể Hà và Thái Vân chồm đến gần Nguyệt Nga hơn, để nhìn cho kỹ. Thể Hà lắc đầu nói:
– Khoa học, y học ở xứ nầy thiệt là tân tiến! Họ hoán cải dung nhan khéo quá! Nếu chị không nói, tôi thật sự không biết đâu. Lúc mới gặp lại chị ngồi ăn cơm ở chùa, tôi nhìn không ra, tưởng người giống người, vì chị trẻ hơn, đẹp hơn trước rất nhiều.
Thái Vân cười, nói:
– Ngày xưa, mắt mũi chị cũng đẹp lắm rồi, bây giờ lớn tuổi, lại không chồng thì sửa làm chi? Bộ muốn cho mấy người đàn ông chung quanh chết mê chết mệt vì chị hả?
Nguyệt Nga cười hí hí, nguýt Thái Vân, con mắt có đuôi. Rồi chị chớp chớp rèm mi, làm điệu:
– Không ai hiểu tôi hơn cô, cô Thái Vân à! Con Nguyệt Nga nầy sửa soạn đẹp đẽ để bẹo hình bẹo dạng làm cho mấy thằng cha già ôn dịch ở xóm thèm rỏ dãi chơi!
Thể Hà lắc đầu quay mặt nơi khác, mỉm cười lẩm bẩm “Thật hết nói nỗi mụ nầy!”. Chợt nhớ ra nãy giờ mọi người cứ nói Đông nói Tây chớ chưa vào đề chánh, nàng hỏi:
– Chị Nguyệt Nga, lúc ở trại tỵ nạn có lần chị nói với tôi là khi Thái Vân rời xóm chị, thì thằng cha bác sĩ giả hiệu mà chị ghét cay ghét đắng đó, vẫn còn mướn nhà chị ở phải không?
Nguyệt Nga nhìn Thái Vân ái ngại dò xét. Thái Vân hiểu ý, miệng vừa cắn miếng xoài ngâm đường nhai giòn rụm vừa nói:
– Chuyện giữa tôi với hắn bây giờ đã thành chuyện đời xưa rồi, không có ảnh hưởng gì tới tôi nữa đâu. Chị cứ kể đi. Thật sự tôi cũng muốn nghe chơi cho biết thế thái nhân tình.
Nguyệt Nga sửa lại tướng ngồi, tay vói rót tách trà đưa lên miệng uống ực một hơi, như để lấy giọng:
– Cái thằng mắc toi đó nói có cả năm cũng chưa hết chuyện của nó. Cô Thái Vân đi chừng ba bốn tháng, thì có một hôm, thằng chả dắt về đứa con gái coi cũng lành lặn lắm. Hắn giới thiệu với mọi người trong xóm là vợ mà cha mẹ hắn cưới ngoài xứ Quảng đem vô. Ờ, mà nầy, tôi không nhớ cô Thái Vân có biết lúc cô chưa theo chồng qua Mỹ, có lần thằng chả đi chơi bời ban đêm bị xe tông rồi nó bỏ chạy luôn không? Thằng chả nằm bệnh viện mấy tháng trời. Sau đó được giải ngũ vì chân có tật đi cà nhót. Nhưng đáng đời, thằng chả không lãnh được đồng ten nào của chánh phủ hết. Bởi là quân nhân mà thẳng bị thương không phải vì công tác.
Thái Vân tỉnh bơ, lắc đầu:
-Tôi không biết chuyện đó.
Nguyệt Nga bẻ miếng kẹo đậu phộng để vào miệng nhai nhóp nhép một cách ngon lành:
– Vậy sao? Hai vợ chồng hắn ở chưa đầy năm, thì cơm không lành canh không ngọt. Khi con vợ có cái bụng phình lên chè è thì hắn bắt đầu trở chứng cũ. Thượng tay đánh, hạ chưn đá đạp, không kể vợ đang mang bụng chửa. Hai vợ chồng chửi lộn tối ngày như bằm bầu. Con vợ cũng không vừa, dữ như cọp cái. Có đêm họ đánh đấm ầm ầm như dậy giặc làm cả xóm không ngủ nghê chi được. Ngựa quen đường cũ mà. Hắn rượu chè be bét, và cờ bạc lu bù nên thiếu nợ đầu trên xóm dưới. Bị chủ nợ đòi, hắn nói ngược, bị họ chửi ông chửi cha, thật chẳng ra thể thống gì cả. Con vợ hắn thật tội nghiệp, phải theo người trong xóm đi đón hàng của mấy người làm sở Mỹ như xà bông, bột giặt, đồ hộp, khăn tắm, vải, áo, quần… mua đi bán lại kiếm lời. Con đó cũng giỏi, đi buôn bán từ sáng đến chiều mới về, lại còn bụng chửa, tay xách, nách mang nữa. Thật là tội nghiệp quá đi.
Thể Hà chép miệng thở dài:
– Cái thằng cha đó có cái số ăn bám đàn bà.
Chị Nguyệt Nga trong lúc kể về hắn, ánh mắt chị dữ tợn, mặt mày sừng sộ, chứng tỏ chị thù ghét hắn ta đến tận xương tủy:
– Chị Nhựt biết không? Đồ cái thứ ghẻ hờm, đồ cái thứ cóc lác, đồ cái thứ chó chê mèo mửa đó con Nguyệt Nga nầy coi không ra gì cả. Vậy mà khi bọn Việt cộng tràn vào cướp miền Nam, cái thằng đó ma mảnh lắm, không biết hắn tìm đâu ra được cái băng bằng vải xanh đỏ chi đó mang trên tay áo. Rồi hắn nhập theo cái bọn cách mạng 30 để chỉ điểm nhà nầy, tố cáo nhà kia cốt lập công, kiếm chác. Nhưng hắn đắc ý không được bao lâu thì bị tụi công an phường còng tay đẩy vào tù cải tạo vì tội ngày xưa là “ngụy quân” mà không khai báo. Thật là đáng đời hết sức. Ai bị đi cải tạo tôi còn thấy tội nghiệp, chớ cái thằng đó tôi cầu mong cho nó ở trong tù mút mùa lệ thủy luôn.
Chị dừng lại uống hớp nước, Thể Hà im lặng ngồi nghe như bị thôi miên. Thái Vân cũng nghe nhưng không mấy chăm chú như Thể Hà. Nguyệt Nga tiếp:
– Thiệt tình, người ta chết bờ chết bụi nhiều quá, mà không biết sao thằng đó sống dai quá chời! Hắn nhớt nhợt như con thuồng luồng. Bị tù đâu hơn một năm hắn mò về, người trong xóm khinh khi không ai thèm ngó mặt. Đến chết cái nết không chừa ở con người xấu xa tồi tệ nầy. Tôi nhớ, lúc đó phong trào vượt biên rầm rộ, hắn ta lại nhảy vào cái nghề móc nối người đi vượt biên. Hắn đã gạt không biết bao nhiêu gia đình đưa vàng, đưa tiền cho hắn rồi thì hắn trốn mất. Gạt gẫm, được vàng và tiền lấy của người ta là hắn no bầu diều rồi, hắn bèn vượt biên. Vượt biên, hắn không dắt vợ con theo mà dắt con bồ nhí theo! Nhè con quỉ cái đó lại là bọn công an nằm vùng. Nên ghe chưa rời bến thì bị bắt trọn ổ. Tiền bạc gạt gẫm của người ta bấy lâu nay mất sạch, còn bị ở tù nữa. Thật là “của tàu đổ âm ty”, đáng đời hết sức.
Mặt Thái Vân không chút gì thay đổi! Vì nó thừa biết tánh tình cái tên ma bùn cướp cạn nầy rồi. Thể Hà không nhịn được, buột miệng:
– Thật là Trời cao có mắt: “Ác lai ác báo. Ngày xưa trả báo thì chầy, bây giờ trả báo phút giây nhãn tiền” mà. Rồi sao nữa chị Nguyệt Nga?
Thái Vân lại gọt trái táo, chẻ ra từng miếng nhỏ đưa mời mỗi người, cười nói:
– Thể Hà, ăn một miếng thấm giọng ngồi nghe. Chị Nguyệt Nga, phần chị đây, hãy ăn cho thông cổ để lấy hơi kể tiếp.
Nguyệt Nga mặt mày hả hê, tươi cười có vẻ hài lòng về câu rủa xả của Thể Hà, chị nói tiếp:
– Nó bị giam trong tù hình sự đâu tám chín tháng, khi trở về mang theo cái bịnh nghiện ma túy! Lần nầy thì nó tàn đời. Nghe đâu lúc ở trong tù, nó bị cái chân què đau, nhức nhối không chịu nỗi, được mấy thằng bán xì ke nhốt chung cho uống ma túy để đuợc giảm cơn nhức. Cái chân vừa hết thì cái bịnh ghiền đến. Con vợ hận hắn dắt bồ đi bỏ mẹ con nó lại, nên khi hắn về nó không cho vô nhà, còn kêu công an bắt nữa.
Thái Vân trở về phòng ngủ, Thể Hà và chị Nguyệt Nga cũng tắt đèn trùm mền ngáp dài, nhưng Nguyệt Nga vẫn còn thủ thỉ thì thào nhỏ to tâm sự chưa chịu thôi, mắt chị ta thì nhắm hít lại để dưỡng thần, nhưng cái miệng vẫn say sưa thao thao muốn kể thêm về tên bác sĩ giả hiệu đó nữa. Trong khi Thể Hà buồn ngủ muốn chết, nàng nói trong cơn ngủ chập chờn: “Buồn ngủ quá, mai nói tiếp chị ơi”. Nguyệt Nga vẫn tỉnh bơ, như không nghe Thể Hà lè nhè, nói:
– Chị Nhựt có biết không? Mấy tháng trước đây, tôi có gặp cái thằng trời đánh bác sĩ giả, bồ cũ của cô Thái Vân ở dưới Los Angeles.
Cơn buồn ngủ tan biến, Thể Hà bật ngồi dậy như chiếc lò xo, hỏi:
– Trời đất! Chị nói sao? Chị gặp thằng bồ cũ của Thái Vân? Thằng cha bác sĩ giả đó đang ở Mỹ hả?
Chị Nguyệt Nga nhanh nhẩu:
– Ờ, đúng vậy! Lúc nãy có cô Thái Vân tôi không dám nói, sợ cổ buồn tội nghiệp.
Thể Hà nói ngay:
– Nhằm nhò gì với con Thái Vân! Thằng chả bây giờ không tác dụng gì với nó đâu, nên chị không phải ngại. Thằng chả sao qua đây được vậy? Chị còn biết gì nữa không? Hãy kể tiếp cho tôi nghe đi:
Nguyệt Nga lấy tay đập vào vai Thể Hà, cười tỏn tẻn:
– Ụa, hồi nãy chị nói buồn ngủ lắm, sao bây giờ hăng tiết vịt quá vậy?
Thể Hà cười ngượng nghịu:
– Tôi ghét hắn dùm Thái Vân vậy mà. Tôi vốn cũng không ưa và còn thù ghét cái thứ đàn ông cặn bã như hắn lắm chị à. Tôi không biết tại sao hắn luôn làm việc thất nhơn, ác đức mà lại may mắn như vậy? Trong khi hoàn cảnh của nhiều người còn kẹt ở quê nhà đáng được vào Mỹ hơn hắn.
Nguyệt Nga vẫn chứng nào tật ấy. Chị ta ngồi xổm dậy, quơ tay, đá chân như sắp đánh lộn:
– Thẳng vượt biên! Thật ông Trời không có mắt, cái ngữ đó sao không chết dưới biển để cá mập ăn tươi nuốt sống cho rồi. Nhưng tôi nghĩ cá mập sẽ sợ không dám ăn thịt của cái thú độc địa hơn bồ cạp, rắn rít, nhện hùm như nó đâu.
Thể Hà ngắt lời Nguyệt Nga:
– Sao chị lại dám trách ông Trời? Nó chưa bị quả báo đó thôi. Tôi nghĩ lại có lẽ công đức nó làm ở kiếp trước xài chưa hết thôi chị ơi. Giờ thì tôi hiểu rồi, hồi nãy chị nói, hắn bị Việt cộng bắt vào tù cải tạo, khi được thả trở về bị ghiền ma túy! Hắn lại lường gạt lấy tiền bạc của người ta đi vượt biên bị bắt. Vậy là hắn đã bị quả báo rồi đó.
Chị Nguyệt Nga vẫn còn tức tối, hằn học:
– Chưa đủ! Nó là thằng chết tiệt! Tôi muốn nó phải bị đày đọa xuống chín tầng địa ngục, đau đớn khổ sở gấp trăm, gấp vạn ngàn lần nữa mới vừa tội nó.
Thể Hà hỏi:
– Thôi được rồi, ông Trời sẽ thể theo lời yêu cầu của chị Nguyệt Nga của tụi em mà xét lại. Bây giờ, chị hãy bỏ việc trả báo đó qua một bên đi, còn nhiều chuyện đáng nói hơn. Chị thấy hắn ta thế nào? Có “lết bằng mo / Bò bằng mủn” chưa?
Chị Nguyệt Nga trầm giọng:
– Nó trông dơ dáy bẩn thỉu lắm. Quần áo nó xốc xếch hôi hám như mấy người hôm-lết vậy. Tôi nghĩ nó vẫn còn ghiền ma túy chị à. Nó nhìn không ra tôi. Tôi nhắc nó mới biết. Tôi khinh khi nó lắm, nhưng thấy nó sa sút cũng tội nghiệp nên tôi mới thí cho nó tô hủ tíu, ly cà-phê và 2 chục bạc. Lúc cầm tiền tôi cho, nó cảm động như muốn khóc. Nhưng tôi cũng không tin nước mắt cá sấu của nó đâu. Tôi không cho nó biết nhà, sợ có ngày đồng bọn nó đến dọn sạch nhà tôi. Cái thứ đó chuyện gì mà không dám làm. Nói thật với chị nghen, con Nguyệt Nga nầy sức mấy mà sợ chúng chọi thẳng. Chỉ sợ chúng dùng thủ đoạn đê tiện đánh lén mình thôi.
Nguyệt Nga vẫn dai dẳng nói, vì chị thích nói kia mà. Chị nói hết chuyện nầy bắt qua chuyện khác. Chị ngưng lại khi nghe tiếng thở pho pho của Thể Hà. Chị yên lặng thở dài trong bóng đêm, và tìm giấc ngủ cô đơn cho mình.
Hơi ấm từ máy sưởi thổi lên làm lung lay bức màn dài của cửa sổ. Và ngoài trời, vành trăng lưỡi liềm cong, nhọn hai đầu, phình ở bụng, treo lủng lẳng trên nền trời đen huyền hoặc không gợn chút mây.
Trời về đêm nơi nào cũng gần giống nhau. Yên tĩnh, êm đềm. Nhưng xứ nầy, nơi chôn nhau cắt rún của Tom. Đêm về khác với đêm quê hương của Thể Hà, của Nguyệt Nga, của Thái Vân cách hơn nửa vòng trái đất, các múi kinh tuyến và các tầng vĩ tuyến ở hai nơi cũng xa lắc xa lơ.
Nơi quê hương khốn khổ đó, thuở niên thiếu, thời thanh xuân ngày đêm họ quen nghe tiếng đại bác từng chập xa xa, tiếng súng gần chan chát, tiếng đạn pháo của địch âm ầm rót vào thành phố. Xe cứu thương hụ còi sầm sập chạy trên đường… Có ánh hỏa châu lờ lửng trên không làm héo hắt vàng úa ảm đạm đêm trường.
Nơi đây yên lặng, ấm êm sau ngày làm việc, sau buổi cơm chiều ngon lành trong bầu không khí sum họp của gia đình. Họ đang yên bình trong giấc ngủ dưỡng sức để mai đi làm, để đưa con cái đến trường… Nơi nầy máy bay cũng rầm rộ lên xuống suốt ngày đêm không ngừng nghỉ ở phi trường để đón đưa hành khách đi về trong và ngoài nước, mà phương tiện xe cộ chuyên chở đường bộ, đường tàu thủy không đáp ứng nhanh nhẹn bằng đường hàng không.
o O o
Tom uống năm thang thuốc Nam của ông thầy Tám Chấn, cảm thấy khỏe khoắn vô cùng nên chàng ngủ ngon. Vợ chồng Thái Vân mừng còn hơn lượm được vàng. Ở trong khách sạn, cô ta mở cửa sổ, để hai vợ chồng nhìn trời cao cùng cầu nguyện. Chỉ còn hai ngày nữa Thể Hà và Thái Vân ai về nhà nấy.
Trước ngày về, ông thầy Tám Chấn hốt cho Tom 30 thang thuốc Nam, và căn dặn Thái Vân:
– Mỗi ngày, cô nhớ sắc cho ổng uống hai thang. Theo dõi bịnh tình của ổng như là ăn, ngủ, thở, tâm tình, sắc mặt… rồi điện thoại cho tôi biết. Mười lăm ngày sau, hết thuốc cô nhớ dắt ổng trở lên, tôi sẽ chẩn bịnh lại và đổi thuốc nghen.
Thái Vân và Tom mừng chảy nước mắt. Trước khi ra về, cả hai sụp lạy ông thầy Tám Chấn. Thái Vân, nói:
– Thưa ông, chúng tôi không biết nói sao cho hết tấm lòng biết ơn ông của chúng tôi. Mong ông cho biết bao nhiêu tiền thù lao? Vợ chồng tôi nhứt định nghe lời ông dặn: uống thuốc đều đặn, và sẽ trở lại đúng mười lăm ngày sau.
Ông Tám Chấn cười nhẹ:
– Tôi đã nói với cô, ổng với tôi có duyên mà. Phước chủ may thầy thôi cô à. Chồng cô bớt bịnh, tôi cũng mừng lắm. Cô về lo chăm sóc cho ổng đi, đừng nghĩ ngợi chuyện tiền bạc, hay đền ơn đáp nghĩa chi cả.
Thái Vân nài nỉ:
– Thưa ông, nhưng dù sao ông cũng phải lấy tiền để mua thuốc giúp đỡ cho những bịnh nhân đến sau. Làm ơn đi ông Tám.
Ông Tám, nhỏ nhẹ:
– Thôi, được rồi. Cô đưa ổng về nhớ cho ổng uống thuốc đều đặn, đừng cho ổng dùng những thức ăn có nhiều dầu mỡ, thức ăn nóng, thức ăn cay. Để lần sau cô trở lại, tôi sẽ lấy tiền.
Thể Hà xen vào:
– Thưa bác Tám, bác nên nhận tiền đi. Bác coi, ở xứ nầy ai làm dù ít dù nhiều cũng phải được trả công. Đi chùa, đi nhà thờ cũng phải cúng tiền vào thùng phước sương, để người giữ chùa, người giữ nhà thờ còn phải trả tiền điện, tiền nước, mua nhang, đèn, linh tinh các thứ… Bác không lấy tiền công, nhưng tiền thuốc phải lấy để bác còn có tiền mua thuốc giúp người nữa. Như vậy, anh Tom đây không phải nghĩ ngợi lo là mình còn thiếu nợ ông thầy… Như vậy thì bịnh nhân của bác càng mau khỏi bịnh, thưa bác.
Ông Tám Chấn cười hiền lành:
– Cô Thể Hà nói chuyện giỏi quá! Tôi sợ mấy cô luôn. Ai mà lại kèo nèo để được trả tiền như vậy! Thôi thì cô đưa cho bả 20$ đi.
Thể Hà, Thái Vân và Nguyệt Nga chưng hửng nhìn nhau! Tom không biết họ nói gì, ngồi làm thinh. Thái Vân nắm sẵn tiền nhét vào tay bà Tám. Bà Tám giựt tay lại, tấm giấy bạc 100 trăm rớt trên sàn nhà. Bà Tám cười ngất:
– Ổng đã nói 20 Mỹ kim, nên cô chỉ trả 20$ thôi. Tôi chỉ cần nhận của cô ba chục thì ngày mai cô sẽ thấy tôi ra khỏi nhà làm người hôm-lết rồi.
Mọi người đành phải nghe theo lời ông Tám Chấn rồi lên xe. Đến San Jose, trước hết Thái Vân đưa Nguyệt Nga về nhà. Thể Hà và vợ chồng nàng đến tạm trú ở khách sạn, để hai ngày sau trở về Chicago. Trước khi từ giã Nguyệt Nga còn căn dặn:
– Sáng mai, hai người nhớ đến chở tôi, chúng mình đi tảo thanh các chợ và quán hàng của người Việt Nam bán ở đây thêm một lần nữa. Để chúng mình ăn món Việt Nam trả thù mấy hôm rày ăn toàn là thức ăn tay cầm của Ý, của Mỹ, của Ấn, của Mễ… Thật là chán muốn chết! Và cũng để mấy chị mua quà về cho gia đình như là chả lụa mười đồng năm cây, rau muống 25xu nửa ký, sầu riêng thì rẻ tàn rẻ mạt, có khi hai ba chục cắc nửa ký. Của quý mà rẻ tha hồ mua xách về bên đó để dành ăn và cho bạn bè…
Sáng hôm sau, vợ chồng Thái Vân và Thể Hà đến nhà chị Nguyệt Nga. Nhà bày biện rất sang. Bàn nước hình bầu dục lót mặt đá Đại Lý màu hường nhạt, ghế có thành dựa, mặt ghế ngồi và mặt thành dựa cũng lót cùng màu cùng thứ đá. Đây là bộ xa-lông kiểu Tàu, chân bàn và tay vịn của ghế được chạm trỗ và đánh vẹt-ni bóng loáng. Ở vùng ấm dùng loại ghế nầy thì tốt, nhưng ở miền Bắc của nước Mỹ, như chỗ Thể Hà đang ở thì không nên, vì thời tiết gần như lạnh lẽo quanh năm, ngồi ghế cần phải có nệm cho êm và giữ ấm. Đi với bàn ghế còn tủ kiếng. Trong tủ bày các món hảo ngoạn bằng ngọc thạch, bằng ngà, bằng hổ phách nhân tạo lộng lẫy. Chị Nguyệt Nga nói trước:
– Hôm nay tôi làm khổ chủ để ăn mừng chồng cô Thái Vân thuyên giảm bịnh, cấm người nào thò tay ngọc thọc tay ngà móc bóp phơi lấy tiền trả đó, nghe hôn.
Chị mở ngăn tủ lấy hai bức tranh Phật Bà Quan Âm cởi trên con lý ngư vẫy vàng trên mặt biển gần bờ rừng trúc tím, có Long Nữ cầm tịnh bình đựng cam lộ đứng hầu. Còn bức tranh kia là Đức Mẹ Đồng Trinh. Chị ân cần:
– Hôm trước có dịp đi chùa, đi nhà thờ tôi thỉnh về. Tôi tặng hai chị mỗi người thích ảnh bà nào thì chọn, nếu thích hết thì chọn cả hai. Nhà cần phải thờ Đức Mẹ Đồng Trịnh và Đức Phật Bà. Tui thờ cả hai bà. Biết đâu trên thượng giới hai bà là hàng xóm với nhau.
Thái Vân và Thể Hà cùng nhìn nhau lắc đầu mỉm cười. Thật sự, họ thấy trên bàn thờ sâu trong phòng khách chị Nguyệt Nga thờ Phật Bà và Đức Mẹ Đồng Trinh được chưng hoa quả hực hỡ, sáng choang dưới ánh nhang điện và đèn cầy thắp bằng điện. Trong lúc ngồi chờ chị Nguyệt Nga trang điểm, Thái Vân bảo Thể Hà:
– Hồi còn ở quê hương, chị ta cũng thờ chung Đức Phật Bà và Đức Mẹ như vậy. Mầy mà chọc quê chị ta, chị ta sẽ trở mặt ngay và sẽ thù mầy suốt đời đó nghen.
Thể Hà nhún vai, trề môi với Thái Vân:
– Xì, ai ngu mới dám chọc bả!
Bệnh tình của chồng Thái Vân mỗi ngày một khá hơn nhiều. Tom uống thuốc Nam của thầy Tám Chấn liên tục mấy tháng trời. Hôm qua Thái Vân điện thoại qua, vui mừng nói cười rổn rảng muốn điếc cái lỗ tai của Thể Hà:
– Thể Hà à, hôm tuần rồi đến ngày hẹn với bác sĩ tao chở Tom đi kiểm tra lại bịnh tình. Hôm qua, chúng tao trở lại để ổng cho biết kết quả. Thể Hà ơi, chúng tao vui mừng còn hơn trúng số. Bác sĩ cho biết bịnh của Tom thuyên giảm ngoài sức tưởng tượng của ổng. Mầy biết không Thể Hà? Tom bây giờ trông hiên ngang, hồng hào, môi má ửng hồng, sắc mặt tươi sáng như trăng rằm. Chèn ơi, vừa bình phuc lại, tao thấy ổng càng giống minh tinh Paul Newman.
Thể Hà sợ Thái Vân vui mừng quá xổ máy nổ vo vo đến điếc đít không hay, nên chặn lại:
– Chắc chồng mầy bịnh thuyên giam đến 90% hay 100% rồi chớ gì?
Thái Vân phơi phới:
– Bác sĩ nói, bịnh gan của Tom không còn bành trướng như trước nữa, nó cô đọng lại một chỗ rồi. Bác sĩ cho biết Tom sẽ được sống dài, sống lâu thêm chớ không phải như hôm trước ông ta cho biết. Trời ơi, bọn tao mừng rơi nước mắt ôm nhau khóc trước mặt bác sĩ không chút ngượng ngùng.
Đầu giây bên nầy, Thể Hà chúc mừng cho Thái Vân và Tom, nàng cũng vói lấy khăn giấy lau nước mắt giọt ngắn, giọt dài. Chiều đến, trong lúc ăn cơm, nàng nói cho cả nhà biết, bà Châu lật đật niệm Phật trước khi nói:
– A Di Đà Phật. Cảm ơn Trời Phật đã thương tình chiếu cô cho vợ chồng con Thái Vân. Mùng một nầy má sẽ ăn chay, vì má đã cầu xin Phật Tổ cho thằng Tom hết bịnh má sẽ ăn chay nửa tháng.
Thể Hà thương cảm, nhìn mẹ chồng:
– Má à vậy con ăn chay với má luôn. Không có mấy đứa nhỏ ở nhà, một mình anh Đông ăn mặn cũng dễ nấu.
Đông Nhựt đang uống nước, nói liền:
– Thì anh cũng ăn chay luôn chớ có gì đâu. Lâu lâu ăn đậu hủ, cải xanh, bầu bí, cũng ngon miệng và tránh được nhiều chất béo. Vậy má khỏi phải nấu món mặn riêng cho con chi rườm rà.
Chiều hôm đó, Thể Hà nhận được cú điện thoại thăm hỏi của Xuân Hà. Luôn tiện Thể Hà cho cô ta biết về bịnh tình của Tom. Xuân Hà sốt sắng:
– Hai tuần nữa, vợ chồng em đi đám cưới con người bạn thân của anh Nghiêm ở Detroit, luôn tiện chúng em sẽ ghé thăm vợ chồng chị Thái Vân. Dù sao chị ấy cũng là chị của chị mà. Anh Tom không phải là kẻ đồng chánh kiến Quốc Gia với tụi mình hay sao?
Thế Hà kể luôn chuyện vợ chồng Thái Vân cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn để Tom lành bịnh. Trong dịp nầy, họ gặp lại chị Nguyệt Nga. Xuân Hà vui vẻ:
– Chị à, có nhiều việc linh ứng, mà khoa học không cắt nghĩa được nên mình cho là sự tình cờ, sự trùng hợp. Nhưng em, em tin Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, tin tưởng Đức Quan Thế Âm Cứu Khổ Cứu Nạn. Em nghĩ chắc kiếp trước bà Nguyệt Nga đó chắc là thị nữ của Đức Quan Thế Âm.
Thể Hà cười ngất:
– Nồi đất ơi, cái nàng thị nữ nầy có cái miệng tía lia, nói láp dáp cả ngày. Được cái là nàng có tấm lòng vàng, ăn nói duyên dáng, hề cái trên sân khấu còn thua xa.
Xuân Hà cũng cười, nói:
– Người có tấm lòng vàng thì khi nói ra, dù nói xàm, nói bậy, nói bạ cũng thành lời kim cương, lời ngọc thạch, lời trân châu đó chị à. Lòng chị cũng lành vậy. Anh Nhựt em nhờ nghe lời chị mà làm việc gì cũng thành công cả.
Thể Hà cười lớn:
– Thôi đi cô ơi, tôi nghe lời anh Hai cô thì có. Tui là vợ ảnh, đâu dám dạy khôn dạy dại ảnh để mang tiếng con ác phụ xỏ mũi chồng hay sao?
Cả hai cùng cười ngặt nghẽo.
o O o
Thể Hà chỉ rời nhà đi chùa Kim Sơn với vợ chồng Thái Vân có một tuần thôi. Ba đứa con nàng trong niên học thì ở nội trú, khi lễ lộc, nghỉ hè chúng nó mới về nhà. Thế mà cả ba đứa điện thoại đòi cuối tuần nầy đều muốn về thăm mẹ. Thật sự đi xa mấy bữa mà Thể Hà lúc nào cũng cảm thấy bồn chồn mong riết để về nhà gặp mẹ chồng, gặp chồng và nhứt là thèm cái ổ chuột, thèm cái giường ngủ của mình hơn chiếc giường sang trọng, chăn, gối, mền thơm tho của khách sạn.
Nàng nhớ từng món đồ vật chưng dọn trong nhà mình. Trong phòng ngủ có chiếc bàn viết và cái ghế ngồi quay tròn đặt ở cạnh giường. Trên mặt bàn có bình thủy tinh nuôi con cá lia thia màu tím pha xanh đậm. Nó tha thướt với cặp phướng dài, và cái đuôi rẽ quạt màu đỏ tím. Má chồng nàng còn cặm vào bình mấy nhánh dây trầu bà cành lá xanh mướt. Bà thường nói: “Trong nhà có cá, có nước, có cây, phong thủy cân bằng, chẳng những sẽ đánh đuổi được tà ma, xui xẻo, mà còn đem lại may mắn cho mình”. Trên đầu giường của vợ chồng Thể Hà nào là báo tháng, báo tuần mà chồng nàng đặt mua dài hạn, hoặc được tặng, sách Việt ngữ, giáo khoa, tiểu thuyết, thơ, truyện dài, truyện ngắn… được dựng trong mấy dãy kệ kê dựa vào vách cho khỏi ngã.
Dưới chân giường, trên mặt tủ có nhiều ngăn, cửa kiếng sát lối vào phòng tắm là cái truyền hình. Trong hộc tủ nào băng cassette, phim bộ, phim tân nhạc, phim cổ nhạc do các diễn viên xưa và nay. Bà Châu thích giọng ca của các nghệ sĩ: Năm Cần Thơ, Phùng Há, Năm Châu, Tư Sạng, Ba Bến Tre, Tám Thưa, Thanh Tao. Tân nhạc bà chỉ nghe chớ không thích lắm. Còn vợ chồng Thể Hà ngoài những ca sĩ tân nhạc xưa và hiện đại, hai người còn mê cổ nhạc qua giọng ca mùi rệu của Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Minh Cảnh… tuồng “Mưa Rừng, Tuyệt Tình Ca, Thuyền Ra Cửa Biển “, nghe hoài không chán.
Tất cả những đồ vật trong nhà, hàng ngày thường thấy Thể Hà không để ý, đến khi xa nhà thì nhớ quay nhớ quắt! Nàng còn thèm tô canh rau, cá kho tộ, con cá bạc má chiên giòn dầm nước mắm chấm dưa cải chua do má chồng nàng làm.
Có xa nhà, Thể Hà mới nghiệm thấy rằng: Cho dù cái ổ chuột nhà mình, cũng là nơi che nắng che mưa cho cả gia đình. Nên khi máy bay cất cánh rời phi trường San Jose, thẳng đường bay về phi trường O’hare, là nàng cảm thấy lòng bồi hồi, nôn nao chi lạ! Tưởng chừng như mình đã cách biệt từ mấy năm trời!
Chuyến đi nầy, nàng mua cho má chồng cái áo lạnh bằng loại nhung tốt màu bọt-đô, chiếc khăn sạt màu măng cụt in hoa màu kem. Bà Châu vui vẻ, nhưng càm ràm con dâu:
– Chà, mình hàng tốt và đẹp quá! Nhưng con mua chi cho tốn kém, má có đi đâu mà mua đồ mắc tiền như vậy? Phải để dành tiền tụi nhỏ mua sách vở con à.
Thể Hà cười:
– Không có bao nhiêu đâu má. Hôm trước đi chợ, con thấy có bà đó tuổi cỡ má, mặc bên trong chiếc áo dài, bên ngoài chiếc áo lạnh choàng bằng nhung như áo con mua đây, nhưng áo màu tím con thấy không thích hợp với tuổi tác bà ta, con chọn màu nầy nhu nhã cho má. Má xem còn đây nữa, con mua cho hai cô công chúa nhà mình mỗi cô môt bộ đồ ngủ bằng tơ có thêu đẹp quá, má xem. Còn đại thiếu gia thì cũng hai cái quần xà-lỏn ngủ cũng bằng tơ, chắc là thằng nhỏ sẽ thích lắm. Tội nghiệp! Hôm trước đi chợ với con, nó chỉ mua một cái thôi, có lẽ vì ngại con tốn tiền.
Bà Châu nhìn qua, nhìn lại như tìm kiếm gì, rồi hỏi:
– Còn quà của chồng con và con đâu?
Thể Hà, vội lấy mấy cái áo ngắn tay đưa cho mẹ chồng coi:
– Đây, con mua cho ảnh bốn cái áo thun lá, để mặc mùa hè cho mát. Áo nầy nam nữ đều mặc được hết, không kén. Đi chuyến nầy, mọi thứ Thái Vân đều dành trả hết, nó không cho con trả gì ráo từ vụ ăn, ở… Vậy mà cũng tiêu hết mấy trăm bạc.
Bà Châu, lắc đầu cười:
– Bốn cái áo mười đồng chớ gì? Sao con hà tiện quá vậy? Trong dịp đến vùng có bán nhiều mặt hàng tốt thích hợp với người Á Đông như là giày, túi xách, áo quần… sao con không mua vài bộ áo quần tốt cho mình để dành đi đâu có mặc với người ta? Còn áo thun lá đó ở đâu mà không có.
Đông Nhựt lắc đầu, thở dài, đăm chiêu nhìn ngoài trời, than thở:
– Ôi, không biết bà xã tôi trở tánh keo kiết hồi nào vậy cà? Bây giờ đời sống của chúng mình ổn định rồi, không còn như lúc mới đến đây. Ai mà tệ vậy? Sao em lại để chị Thái Vân bao hết?
Thể Hà tức cười trề môi với chồng:
– Em có nói với Thái Vân để ăn uống em trả, nhưng nó không cho còn nói là đã chuẩn bị mọi thứ rồi, em đi để trấn an tinh thần nó. Nên nó còn cảm ơn em rối rít nữa kìa.