CHƯƠNG MƯỜI TÁM
Chiều thứ sáu tuần đó, Đông Nhựt lấy nửa buổi nghỉ để đi rước Thể Dao và Thái Dương. Còn Thể Quỳnh thì đi nhờ xe của ba má người bạn đi rước con họ. Tới ngày đi thì Thể Hà đưa con và đưa bạn của con trở lại trường. Bà nội các cháu hôm nay nấu rất nhiều món ăn ngon. Bà làm bì để cuốn với bánh tráng, rau sống, chấm với nước mắm chua ngọt. Bà còn luộc bún, làm sẵn mấy tô bún, để sau khi ăn bì cuốn ai còn cảm thấy chưa no thì ăn thêm tô bún bì. Món nầy ăn chưa xong thì thấy trên bếp nồi nước đang sôi ùng ục. Đông Nhựt hỏi mẹ:
– Má nấu gì mà sôi dữ vậy má? Có muốn con tắt lửa không?
Bà Châu cười, xua tay:
– Má hầm xương nấu nước lèo để tối nấu cháo tôm thịt với con mực tươi cho mấy đứa nhỏ ăn. Má sợ ăn bì cuốn, bún bì có nhiều rau mau tiêu bụng sẽ lỏng bỏng. Tội nghiệp chúng sẽ bị đói. Con hãy để đó cho má coi chừng, nồi xương nầy còn phải hầm lâu, chưa xong đâu.
Thể Hà lấy vá hớt bọt nồi xương hầm. Bà Châu nói:
– Vợ thằng Đông cững tắm đi con, cứ để đó má hớt bọt cho nước trong, một hồi nấu xong, má sẽ tắt lửa.
Thể Hà cảm động nhìn mẹ chồng, mà thấy lòng kính thương bà vô cùng. Mấy đứa con nàng bây giờ đều lớn cả, ở tuổi có thể dựng vợ gả chồng được rồi. Nhưng bà nội lúc nào cũng chu đáo săn sóc như khi chúng còn năm ba tuổi. Được bà nội cưng quá, cho nên bao giờ tụi nó cũng vòi vĩnh bà đủ thứ, kể cả cục cưng Thái Dương của bà.
Hai nàng tiểu thơ khi về đến nhà, đứa thì ôm sách vở vào phòng nói học bài thi, đứa thì ngủ bỏ ăn sáng, đến mười hai mười ba giờ mới thức, vì mấy hôm rồi ở trường bận học bài thi nên thiếu ngủ… Chỉ có Thái Dương thì theo kể chuyện nầy chuyện kia cho bà nội nghe. Hoặc giúp ba làm lặt vặt những chuyện trong nhà như đóng cây đinh vào chưn ghế bị lỏng, kê lại cái tủ cho ngay, cắt cỏ vào mùa xuân, mùa hè, hoặc phụ xúc tuyết vào mùa đông…
Hai hôm rày Thể Hà nhận thấy con gái mình Thể Quỳnh có vẻ bất an. Nàng lo lắng. Đợi lúc có hai mẹ con, nàng hỏi:
– Con có khỏe không? Sao mẹ trông con có vẻ bơ phờ quá vậy?
Cô thiếu nữ cười, trả lời mẹ tỉnh bơ:
– Không có gì mẹ à. Mẹ nhạy cảm quá đi. Không phải mẹ thường nói con là đứa cứng đầu nhứt nhà, trời không sợ, đất không sợ thì còn sợ gì nữa mẹ?
Thể Hà biết con cố tình giấu giếm mình, nàng cười nhẹ bảo:
– Không có gì thì thôi, con cũng biết mẹ hiểu con như vậy thì nếu có chuyện gì con nói ra sẽ thấy dễ chịu hơn để nó ấm ách trong lòng. Nhiều khi đó không phải là chuyện xấu, chuyện buồn cũng vậy. Con đừng có mắc cỡ nghen, mẹ là bà Tùm Lum đây, mẹ sẽ gỡ rối tơ lòng cho cô tiểu thơ của mẹ.
Thể Quỳnh cười nũng nịu háy yêu mẹ, nói:
– Không chuyện gì giấu mẹ được hết. Có chuyện nầy, không biết chuyện vui hay buồn con muốn nói với mẹ. Nhưng ngoài mẹ ra con không muốn ai biết hết kể cả bà nội, ba, chị Dao. Mẹ có hứa với con không?
Thể Hà chợt giật mình, nhưng cô làm ra vẻ mặt tự nhiên, hỏi con:
– Không nói với bà nội, ba, Thể Dao, nhưng nói với Thái Dương thì được phải không?
Thể Hà hỏi rồi nheo mắt nhìn con, chờ câu trả lời. Thể Quỳnh ôm ngang lưng mẹ, cười nhăn mặt:
– Mẹ à, mẹ mà cho thằng yêu lồi đó biết thì chết con gái của mẹ. Cái thằng thúi, cái thằng ranh mảnh, ranh mương, nịnh bợ đó mà biết được thì bà nội, ba, chị Dao tích tắc sẽ biết ngay.
Thể Hà biết tánh con gái mình, nhưng cũng binh cậu quý tử:
– Sao nói em tệ vậy? Thằng em con còn nhỏ mà biết điều và thương lo cho gia đình lắm. Ờ, Thể Quỳnh, mẹ muốn gặp bác Trung chiều nay, để nhờ bác coi cái thân sau xe của mẹ, nếu muốn sửa phải trả bác bao nhiêu tiền? Hôm trước mẹ đi chợ, để xe ngoài bãi đậu, xui xẻo bị thằng nào đụng móp, rồi bỏ chạy mất, thiệt là đồ quỉ quái mà. Xe mẹ bị đụng trước mấy ngày mẹ đi California với dì Thái Vân trị bịnh cho chồng dì.
Thể Qùynh nhìn mẹ như dò hỏi:
– Ba giờ rồi, mẹ nhắm mình xuống còn kịp không? Hay đến nơi thì người ta đã đóng cửa về mất? Sao mẹ không để mai đi?
Thể Hà biết con không muốn đi, nhưng nàng cố ý bảo con đi theo để trên xe ngoài hai mẹ con ra, không có ai thì dễ nói chuyện hơn. Bởi từ nhà nàng đến chỗ sửa xe mãi ở thành phố Chicago, chạy nhanh lắm cũng mất bốn mươi lăm phút. Gặp giờ tan sở, xe kẹt mất hơn một giờ là chuyện hết sức bình thường. Thời gian đi và về mẹ con tha hồ tâm sự. Thể Hà nhẹ giọng bảo con:
– Mẹ nghĩ không trễ đâu. Thôi để mẹ gọi nói với bác, nếu mình đến trễ bác sẽ đợi một chút cho chắc. Làm ăn mà, người ta đem tiền đến thì phải chịu khó chớ. Con quên sao? Ngày mai không đi được vì mẹ phải đưa con về trường.
Thể Quỳnh lái xe. Ngồi kế bên con, khi xe vừa ra xa lộ là Thể Hà hỏi ngay:
– Nè Thể Quỳnh, có chuyện gì muốn nói với mẹ, hãy nói đi con.
Thể Hà nhìn con chờ đợi. Thể Quỳnh tỉnh táo, mắt không chớp, rất tự nhiên nói với mẹ:
– Mẹ à, con có quen với người bạn trai mới, chúng con muốn kết hôn.
Thể Hà tá hỏa tam tinh! Tưởng chừng mình như từ trên trời rớt xuống, khi nghe một chuyện hết sức bất ngờ của con gái mình. Phải chi Thế Quỳnh đòi làm đám cưới với người bạn trai đã quen biết mấy năm nay, và hai gia đình đã qua lại thì nàng không nói làm gì, cũng không ngạc nhiên. Đằng nầy! Đằng nầy… Trời ơi, thật là một tin hết sức mới mẻ kinh thiên động địa! Con giận trong lòng dâng lên muốn phát nổ tung, nhưng Thể Hà cố dằn xuống, dằn xuống, để lấylại giọng bình tĩnh, nhỏ nhẹ hỏi con:
– Sao trước đây mẹ chưa bao giờ nghe con nhắc tới người bạn mới nầy? Còn thằng Quang bạn trai con từ lúc hai đứa mới vào đại học đến giờ đâu rồi? Sao lạ vậy? Anh ta tên gì? Đang làm gì? Cha mẹ ở đâu? Người Việt Nam hay người nước khác?
Thể Hà như hụt hơi trong lời nói. Nhưng nàng cố trấn tĩnh, bảo con:
– Việc nầy hệ trọng đến cả đời con, mẹ phải biết rõ, không thể qua loa được!
Thể Quỳnh biết mẹ dang âu lo, nàng nói:
– Anh ta là du học sinh, con út của gia đình người Tàu ở Trung Quốc. Cha chết, chỉ còn mẹ và các anh chị ở bên Tàu. Anh ta học giỏi lắm, mấy năm trước học ở Nhật, lấy xong bằng Cao học thì xin sang học ở trường con. Anh đang học để lấy chừng chỉ Tiến sĩ về sửa chữa máy bay. Đi học mà được trường trả lương.
Thể Hà mấy lần dợm hỏi con, nhưng Thể Quỳnh nhanh miệng nói:
– Mẹ để con kể hết về anh ta, xong rồi mẹ muốn biết thêm hay nói gì thì hỏi. Con gặp anh ta ba tháng trước. Mẹ nhớ, có dạo con mượn xe ba không? Hôm đó, xe con đậu kế xe anh ta, khi tan lớp ra về con mở hoài mà máy xe không nổ, vì thời tiết ngày ấy xấu quá, dưới 0 độ. Anh ta đi ngang qua thấy, và đến giúp con. Từ đó chúng con hẹn cùng đến trường và đôi khi đi ăn chung với nhau. Anh ta tên Chung-Chen, người hiền lành, trắng trẻo. Tuần rồi anh ta cầu hôn vói con, con chưa nhận lời vì muốn hỏi ý kiến của mẹ trước…
Không biết sao Thể Hà cảm thấy như bị ai tát gáo nước lạnh vào lòng! Nàng không nói được lời nào, lưỡi nàng như bị quíu lại, toàn thân như run rẩy. Nàng không biết sao mình lại có cảm ứng ở nội tâm lạ lùng như vậy? Chuyện của con vừa nói đó, có phải chăng đã làm cho người mẹ yêu thương trân quý con, hy sinh cả đời cho con, đặt cả niềm hy vọng ở con bị sai lệch? Niềm hy vọng tốt đẹp đó, gần như của hầu hết những người mẹ bình thường đã bị cuốn phăng theo chiều gió của một cơn giông. Trước đây niềm hy vọng đó là nền trời xanh như ngọc không gợn mây trắng. Dưới bầu trời đầy hoa lá mởn mơ đầy nhựa sống có tiếng chim gọi đàn ca hót líu lo trong nắng ấm, và dòng sông êm đềm chảy qua thôn làng trong thời yên bình dân cư an lạc… Bây giờ, trận cuồng phong nổi lên kéo mây, giăng mưa và làm người mẹ từ trên cao rơi xuống như con diều bị đứt dây. Thể Quỳnh giục:
– Mẹ nghĩ sao hả mẹ? Con có cảm tình với anh ta lắm. Con biết ảnh rất thành thật và thương yêu con.
Thể Hà cảm thấy hai bàn tay và hai bàn chân mình lạnh ngắt. Lại bị con hỏi dồn, nàng bật thốt bằng giọng khó chịu, khổ đau:
– Chuyện bự sự như vây làm sao không cho ba và bà nội biết được? Thật bất ngờ quá, mẹ không biết tính sao, và cũng không thể trả lời với con ngay được.
Nói đến đây, không còn giữ được nữa, nước mắt nàng trào ra. Thể Quỳnh lấy khăn giấy đưa cho mẹ, nói:
– Mẹ thường nói với chúng con là mẹ muốn chúng con có hạnh phúc. Bây giờ con thương người ta, con tìm được hạnh phúc cho con thì mẹ không chịu gả sao?
Thể Hà lấy lại được bình tĩnh, nàng nạt con:
– Mẹ có trả lời với con là được hay không chưa? Chưa chi mà đã ong óng rồi. Chuyện của con không đơn giản đâu. Ở đây cái gì cũng khác biệt hết. Nhứt là tự do quá trớn. Con cũng biết, bà nội và ba mẹ luôn nghĩ cho con cái trước hết. Cha mẹ gánh chịu mọi vất vả cực nhọc không một lời thán oán để cho con được an tâm mà học hành. Cũng vì tương lai của các con mà ba mẹ không bao giờ từ nan việc làm nặng nhọc hay khổ cực để có tiền cho các con học hành… Con cũng biết, cho đến bây giờ ba và mẹ tóc đã hoa râm mà chuyện lớn, chuyện nhỏ gì trong gia đình trước khi làm, đều phải hỏi qua ý kiến của bà nội.
Thể Hà ngừng nói, chồm lấy khăn giấy trong hộp lau nước mắt. Giọng buồn buồn:
– Con có biết tại sao không? Vì nề nếp của ông cha truyền lại bao đời. Kính trên nhường dưới, và lễ độ với những người chung quanh là khuôn phép của gia đình mình. Đến đời các con thì phần lễ nghĩa đó dễ dãi đi đôi phần. Ba mẹ để cho các con vào các trường có tiếng dạy giỏi là muốn cho các con có phương tiện để trau dồi tâm tánh, mở mang trí tuệ, mở mang kiến thức, học hiểu và suy gẫm chuyện ngoài trường đời, để tạo cho mình có cuộc sống thoải mái, bình yên ở xứ tự do nầy. Các con sẽ không như cha mẹ, đến xứ người nửa chừng phải đi làm cực khổ bằng sức lao động tay chân của mình, vất vả mà đồng lương vẫn từ thiếu chỗ nầy đến thiếu chỗ nọ. Các con đã nghe thấy và đã hiểu.
Các con phải biết bổn phận và trách nhiệm của mình. Con nên nhớ, không phải vì quá thương các con mà ba mẹ mù quáng nuông chiều. Để các con dựa vào tự do mà đòi hỏi quá đáng như những thanh thiếu niên ở xứ nầy được. Người ta khác, mình khác! Mình là người Á Đông lại là người Việt Nam nữa. Phong tục tập quán mình khác với phong tục tập quán của họ. Con lớn rồi, phải hiểu chuyện đó, đừng để mẹ nói nhiều.
Thể Hà vừa nói mà lệ rơi thành giòng:
– Con bồng bột lắm, mới quen người ta có mấy tháng thôi mà muốn đám cưới rồi. Con thấy như vậy có quá mạo hiểm không? Con có biết gì gia đình họ không? Còn trăm ngàn sự khó khăn khác… Con có biết, khi đã cưới nhau rồi thì phải hy sinh mọi thứ để duy trì hạnh phúc gia đình mà ăn đời ở kiếp với nhau, lo cho tương lai của lũ con cái. Nên trước khi kết hôn con phải đắn đo, phải tìm hiểu đối phương cho rõ ràng. Chúng ta không phải như người dân bản xứ, kết hôn bữa nay, tuần sau ly dị. Ở đây, người đàn bà có năm ba chồng, người đàn ông có sáu, bảy vợ là chuyện hết sức bình thường. Dù các con khôn lớn trong xã hội nầy, nên chịu ít nhiều ảnh hưởng sự giáo dục của họ, nhung phong tục, tập quán chúng ta, không cho phép chúng ta làm điều đó… Còn nữa, rủi nó đã có vợ bên nước nó rồi, nó dấu thì làm sao? Mẹ thật sự chưa nghĩ ra là sẽ trả lời với con như thế nào đây!
Thể Hà lau nước mắt, tiếp:
– Mẹ chỉ đưa ra một vài thí dụ để con suy nghĩ. Mẹ cũng không tin con thật sự yêu thương tên thanh niên Trung Quốc kia. Mẹ nghĩ rằng tình cảm hiện tại của con đối với nó chỉ là một thứ cảm tình đậm đà hơn tình bạn bè một chút thôi. Có lẽ vì con thấy nó học cao, nó đẹp trai, nó hoạt bát, nó vui vẻ, nó chiều chuộng con… Nó có nhiều điểm trội hơn người khác mà từ nhỏ đến bây giờ con chưa gặp, nên đã làm con chóa mắt đó thôi. Hãy bình tĩnh, ngồi một mình mà suy gẫm lại đi.
Thể Quỳnh nhăn nhó:
– Mẹ thì lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng lấy gia đình ra để đè, ép con. Con biết con đang nghĩ gì, và muốn làm gì. Con thật sự đã thương ảnh rồi. Con muốn làm đám cưới với ảnh. Mẹ về nói với nội, nói với ba đi. Tùy ý mẹ, bây giờ nói cho họ biết thì mai mốt khỏi nói. Con lớn rồi, con có quyền lựa chọn người hôn phối của con chớ…
Lòng Thể Hà trũng xuống. Nàng vừa tức, vừa đau khổ vô cùng! Nàng biết đứa con gái này đuợc cưng chiều quá hóa hư rồi! Nên nó rất cứng đầu, khó lòng mà lay chuyển được nó bằng biện pháp cứng rắn.
Nàng nghĩ, bây giờ nếu đem chuyện nầy mà nói với bà Châu thì nếu không bằng lòng, bà chỉ càm ràm một chút thì thôi. Nhưng làm sao nàng mở miệng nói với chồng? Chồng nàng quá vất vả vì gia đình. Chàng không nghĩ đến thân thế mình lúc còn ở quê nhà, đến xứ người, đi làm quần quật ngày nầy qua ngày kia không bao giờ dám chểnh mảng, ngừng nghỉ, cốt để có tiền lo cho tương lai của con cái. Niềm hạnh phúc của chàng là niềm vui từ các con đem đến trong việc thành tựu học hành của chúng.
Vợ chồng nàng chưa bao giờ gò bó con, bắt chúng phải làm theo ý mình chuyện nầy, chuyện kia. Bao giờ vợ chồng nàng cũng để cho con cái có một khoảng để lựa chọn. Sau đó, chúng nó nói rõ lên quan điểm hoặc sự lựa chọn của chính mình. Rồi vợ chồng nàng mới góp ý kiến, phân phải trái cho các con biết việc gì nên tránh và việc gì nên làm. Có được sự cảm thông liên đới với nhau giữa cha mẹ và các con, cho nên gia đình của Đông Nhựt và Thể Hà rất hạnh phúc.
Đã có lần chính miệng Thể Quỳnh, và chị em cô gái đã nói những nhận xét, ý nghĩ tương tự của bạn bè chúng cho cả nhà nghe trong bữa ăn gia đình:
– Bà nội biết không? Chị em con là những đứa hạnh phúc nhứt trên cõi đời ô trọc nầy.
Nghe con nhỏ nói rành tiếng Việt, mà còn biết nói những lời tếu tếu nữa, bà Châu và vợ chồng nàng vui ra mặt. Đông Nhựt hỏi con:
– Chuyện gì, mà con nói là chị em con hạnh phúc vậy?
Mọi người ngừng ăn, để nghe Thể Quỳnh trả lời. Con bé nuốt vội thức ăn, nói:
– Mấy đứa bạn con thấy ba mẹ đưa đón con, bà luôn làm thức ăn gởi cho con… Trong nhiều lúc ăn cơm chung, hoặc tán gẫu với nhau, có lần chúng nói: “Trong nhóm bạn chơi chung của chúng mình có trai có gái, cha mẹ đứa nào cũng khá, ba má đứa nầy có hãng xưởng riêng, cha mẹ đứa kia là công chức lương hướng cao, ba má đứa khác buôn bán có nhiều tiền… Như ba má tao đây đều là kỷ sư, ba tao có cơ sở làm ăn riêng, tao là con độc nhất của ông bà. Tao muốn gì được nấy, xe cộ, áo quần, tiền bạc…Vật chất của tao quá đầy đủ. Nhưng nếu gặp má, thì tao không gặp ba và ngược lại”. Bọn chúng con chưng hửng, nó buồn giọng kể tiếp: “Vì ba má tao ly dị lúc tao mới học lớp sáu. Ba má tao giờ người nào cũng đã có gia đình riêng của họ. Tao có em một cha khác mẹ, tao có em một mẹ khác cha. Bây giờ tao lớn rồi, ở với ai cũng được nhưng phải chia xẻ tình thương với hai gia đình riêng của ba hoặc của má tao… Tao đã mất gia đình cùng cha mẹ, tao buồn lắm thành thử tao không muốn chia của ai hết… Hè tụi bây về với gia đình có mẹ, cha, anh, chị, em… Còn tao ở chỗ nầy vài tuần thì đi qua chỗ khác…Buồn lắm tụi bây ơi! Tiền khi ra trường đi làm tao sẽ có, nhưng hạnh phúc gia đình cha mẹ của tao suốt đời nầy chẳng bao giờ tao có được. Đó là nỗi bất hạnh to lớn của đời người!…”. Chúng con đứa nào cũng tội nghiệp cho bạn, nhưng nhìn đi ngoảnh lại trong đám bạn nầy, có hai phần ba cha mẹ ly dị, hoặc ly thân. Bỗng có đứa lên tiếng: “Trong nhóm chúng ta, Thể Quỳnh là người hạnh phúc nhứt trên cõi đời nầy. Mầy được hưởng hạnh phúc trọn vẹn của gia đình có đầy đủ cha mẹ và anh chị em… cùng sum họp dưới một mái nhà”.
Thể Hà nghĩ đến đâu nước mắt chảy đến đó. Thể Quỳnh nghe bạn bè nói thế thì lẽ ra nó phải hiểu chớ! Lòng Thể Hà hết sức rối rắm. Bây giờ nàng mới thấu hiểu và mới thấy thương cho những bà mẹ có nhiều con gái. Thể Hà hỏi lại con:
– Con muốn bao giờ đám cưới? Thằng đó con ai, ở đâu… làm gì bên Tàu?
Thể Quỳnh như mở cờ trong bụng, tưởng mẹ đã chiều mình:
– Con định ra trường, và ảnh ra trường sau con ba tháng. Có công ăn việc làm chúng con sẽ làm đám cưới. Còn khoảng hai năm.
Nàng nuốt nước mắt, nói với con:
– Từ đây đến đó cũng hơn cả năm nữa. Để mẹ về tìm cách nói với nội và ba con đã, rồi sẽ tính sau.
Thể Hà đang tan nát cõi lòng, nhưng cũng nhẹ giọng nói với con. Con nhỏ vui mừng, quên đi mẹ đang buồn:
– Mẹ đừng lo. Con sẽ không làm mất mặt ba mẹ đâu. Trong đời con, ba mẹ rồi mới tới chồng. Nếu nội và ba bằng lòng thì con sẽ bảo ảnh đến nhà mình cho mọi người xem mặt. Con sẽ bắt anh ta phải làm đủ lễ lộc theo phong tục Việt Nam trong lễ hỏi và lễ cưới của con…
Thể Hà đang tan nát cõi lòng, nhưng cũng gượng cười, nói với con:
– Lễ mễ riêu cua rườm rà gia đình mình không để ý đâu! Cái quan trọng trong lòng ba mẹ là hạnh phúc của đời con. Mẹ sợ cảnh vợ chồng có đôi ba đứa con rồi ly dị, khổ lắm con ơi! Lứa đôi dang dở, tội nghiệp cho mấy đứa nhỏ, làm gì cũng không bù đắp được tình thương của hai bên cha và mẹ! Mẹ thấy hiếm có cặp vợ chồng nào dị chủng mà ăn đời ở kiếp với nhau…
Sáng hôm sau, cơm nước xong Đông Nhựt đưa Thể Quỳnh xuống trường, bởi chàng ngại để vợ lái xe một mình đi khoảng đường xa từ trường của con trở về nhà gần ba giờ lái xe. Nên chàng đổi, để vợ đưa Thể Dao và Thái Dương về trường trong đường thành phố, chừng một giờ thôi. Như vậy chàng yên tâm hơn.
Chiều tối hôm đó, cơm nước xong, bà Châu, Đông Nhựt và Thể Hà còn ngồi uống trà. Hồi chiều khi đưa hai đứa nhỏ trở về, nàng tính trong bụng là chuyện của Thể Quỳnh để vài hôm nữa mới nói. Nhưng không thể nào giữ trong lòng lâu được nữa, nàng đem ra kể hết cho má chồng và chồng nghe. Hai người nghe xong chưng hửng. Bà Châu há hốc miệng, hỏi:
– Sao lạ lùng vậy cà? Còn bạn trai của nó mấy năm nay đâu? Bộ hai đứa nó chia tay rồi sao? Chà, thật rắc rối. Ba má người ta cũng đến thăm nhà mình đôi lần rồi, may mà mình chưa nhận lễ hỏi với người ta, chỉ hẹn để cưới hỏi luôn một thể khi chúng bằng lòng kết hôn. Nếu mình lỡ nhận lời thì lần nầy vợ chồng bây đội đồ đến lạy người mà trả, còn phải mang nhục nữa. Thiệt là con cái báo hại cha mẹ mà!
Thể Hà chảy nước mắt, nói với mẹ chồng:
– Mẹ đừng tức giận. Còn cả hai năm nữa lận. Cháu còn trẻ, biết đâu nó sẽ đổi ý.
Đông Nhựt nổi nóng:
– Tại sao trước khi đưa nó đi, em không nói cho anh biết? Em làm mẹ kiểu nào đây? Không biết rầy la con cái. Em cưng nó quá để nó leo trên đầu trên cổ em muốn làm gì thì làm. Chúng muốn ngăn nào được ngăn nấy. Em chỉ có khóc là giỏi!
Bất ngờ bị chồng mắng, Thể Hà vừa buồn, vừa tức nhưng nghẹn ngào không nói được lời nào hết. Nàng chỉ biết cúi mặt, nước mắt đầm đìa! Bà Châu nạt con:
– Cái thằng nầy thiệt là vô duyên không ai bằng, lại đổ lỗi cho vợ! Chuyện Thể Quỳnh muốn như vậy ai cấm cản nó được? Bộ vợ mầy xúi nó hả? Bây giờ tụi bây hãy tìm cách khuyên con thôi, chớ không được la ó, hoặc mắng chửi vợ con. Nóng nảy như mầy sẽ làm hư chuyện và mất con luôn đó.
o O o
Làm cha, làm mẹ ở xứ nầy, theo lẽ khi con cho biết đã tìm được người xứng đáng để kết hôn thì ông bà, cha mẹ còn có gì mừng hơn? Nhưng trường hợp của Thể Quỳnh thì khác. Vì cô gái đã có người yêu từ mấy năm nay rồi, mặc dù chưa chánh thức nhận quà lễ của nhà trai, nhưng hai bên đã thăm hỏi, qua lại với nhau rất là tương đắc. Người bạn của cô tên Nguyễn Phúc Quang là một người thanh niên thật xứng đáng.
Cậu ta trông dễ nhìn, tánh tình điềm đạm, ăn nói chững chạc, đàng hoàng. Cậu được sanh trưởng trong gia đình nề nếp. Lúc còn ở Việt Nam, song thân cậu là công chức. Vượt biên sang Mỹ, chẳng so đo vất vả, đi làm hãng xưởng để nuôi con cái học hành. Họ là những người có đạo đức, luôn luôn tôn trọng nghĩa nhân.
Gia đình hai bên đã gặp nhau đôi lần. Cuối tuần, họ thường hay gọi thăm hỏi nhau. Họ kính mến nhau vì cùng hoàn cảnh là người xa xứ, cùng tôn giáo… Bên kia có bốn người con, hai trai hai gái. Ba nguời con lớn học hành đến nơi, đến chốn, đã ra trường đi làm và có gia đình ở riêng. Còn thằng út là bạn trai của Thể Ọuỳnh. Hai cô cậu yêu thương nhau vì cùng ngành học và cùng trường. Hai gia đình đều hy vọng sau nầy được làm sui, khi hai cô cậu học xong.
Năm rồi, bên nhà trai xin cho Phúc Quang và Thể Quỳnh đính hôn, khi ra trường sẽ đám cưới. Cũng may là Thể Hà và Đông Nhựt đều không bằng lòng, viện cớ với họ là hai gia đình ở quá xa xôi, nhiều lễ mễ chi phiền phức, để cưới hỏi luôn một lễ cho tiện.
Vợ chồng Thể Hà cũng đã nghĩ là ở xứ nầy con cái ít có nghe lời cha mẹ trong vấn đề hôn nhân. Nên họ e ngại rủi ro một trong hai có đứa thay đổi. Việc kết hôn thành chồng vợ của chúng không đi đến đâu sẽ gây thế kẹt cho người lớn.
Thiệt tình, những gì vợ chồng Thể Hà sợ thì hôm nay đã đến rồi. Thể Hà buồn quá! Mấy đêm rày nàng không ngủ được, ăn không ngon, ban ngày còn phải đi làm, nên trong vòng mấy tuần lễ nàng ốm đi và mặt mày tiều tụy ngó thấy.
Thường thì đêm nào Thể Quỳnh cũng gọi điện thoại về thăm nhà. Không những chỉ có Thể Quỳnh thôi, mà hai đứa kia cũng vậy. Tiền điện thoại của các con, ở hãng điện thoại đều gởi giấy nợ đến cho vợ chồng nàng trả. Vợ chồng nàng làm cho mỗi đứa con một thẻ tín dụng riêng, và tiền thẻ tín dụng chúng xài mỗi tháng vợ chồng nàng cũng trả. Thể Hà và Đông Nhựt biết tánh tình của các con mình về tiền bạc tiêu xài hàng tháng. Chúng không xài bậy, chỉ mua sách vở, hoặc mua món gì chỉ đáng giá năm mười đồng thôi. Có khi hai ba tháng liên tục ba đứa chẳng dùng trong thẻ tín dụng một đồng để xài riêng cho mình. Đứa nào cũng vậy, sau mỗi khi xài cho việc gì thì chúng đều gọi về cho cha mẹ biết. Chúng cũng không có đi la cà uống rượu, khiêu vũ ở các quán bar gần trường như các sinh viên khác. Lâu lâu, đôi ba tháng trường tổ chức chiếu phim, ca nhạc, khiêu vũ… trước những ngày lễ lộc thì chúng cùng đám bạn học kéo nhau đi xem thôi.
Việc học hành của các con cũng vậy, vợ Đông Nhựt không phải rầy la chan chát, hay nhắc nhở hoài hoài. Có con cái biết bổn phận, và biết thương cha mẹ như vậy thì làm sao nàng không thương yêu chiều chuộng con và đặt nhiều hy vọng ở chúng được?
Cho nên, giờ gặp chuyện của Thể Quỳnh, nàng không làm sao tránh khỏi phiền muộn? Nàng buồn rầu khóc rưng rức, khóc thầm, khóc lén một mình. Nàng nghĩ ngợi, tỉ tê than oán trong lòng: Bây giờ con không còn nghe mình nữa, con phụ lòng tin của cha mẹ, con không cần biết đến cảm nghĩ của cha mẹ… Và bao nhiêu là lý do để Thể Hà giận, Thể Hà buồn con… Vì thế mà Thể Quỳnh điện thoại về mấy lần, nàng không muốn nói chuyện với con. Lần nào cũng vậy, bà Châu viện đủ cớ trả lời với câu: “Mẹ cháu không được khỏe nên đi ngủ sớm rồi, mẹ cháu hôm nay làm thêm nên chưa về, mẹ cháu đi chợ mua thêm chút đồ…”.
Thứ sáu hôm đó, Thể Quỳnh đi xe đò về đến nhà 9 giờ tối, mà không cho ai biết trước hết. Bà Châu cũng phiền cháu, nhưng không giấu được vẻ vui mừng. Nhưng bà chỉ nói qua loa, hỏi bâng quơ vài chuyện không đâu vào đâu, rồi viện cớ kết mấy cái nút áo, lên lai cái ống quần quá dài, bưng rổ may đi về phòng. Bà cố tình để cho con và dâu mình nói chuyện với cháu. Thể Hà ở trong phòng bước ra, thấy con nước mắt rưng rưng. Thể Quỳnh chạy lại ôm siết mẹ trong vòng tay thật chặt, nức nở:
– Chỉ có mấy ngày thôi, mẹ ốm quá! Con xin lỗi mẹ, con xin lỗi mẹ! Xin mẹ tha thứ cho con, đừng buồn nữa, đừng giận con nữa, con xin mẹ! Xin mẹ giúp cho con thuyết phục ba và bà nội! Ba mẹ thường dạy chúng con: “Trên đường tiến thân lập nghiệp, việc gì mình làm mà không thấy phiền với chính mình, không làm hại đến người khác, ra ngoài không e dè, không thấy hổ thẹn với lương tâm, không hổ thẹn với người thì vẫn là việc làm tốt cho mình và lẫn cho tha nhân. Cho nên khi làm một việc gì, một chuyện gì mà không bị vướng vào các lỗi lầm đó thì đừng chùng bước, đừng nãn lòng mà phải cố gắng hết sức mình. Các con cũng biết lúc chúng ta được sanh ra trên cõi đời nầy, chúng ta có đem gì theo không? Và khi nằm xuống, chúng ta cũng chẳng mang theo được gì cả…” Thưa mẹ, con nhận xét con có lầm lỗi gì đâu? Mẹ đâu nỡ để cho Thể Quỳnh khổ phải không mẹ? Mẹ đã nói Thể Quỳnh hạnh phúc là mẹ hạnh phúc mà! Cho nên con kết hôn với ai cũng vậy thôi, có khác chi đâu? Xin mẹ thương con, xin mẹ giúp con…
Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau mà khóc. Bà Châu đứng bên trong vói lấy chiếc khăn gần đó lau vội nước mắt. Đông Nhựt nghe Thể Quỳnh về định ra quạt cho con một trận. Nhưng khi nghe con nói, thấy cảnh tượng của hai mẹ con, chàng không thể nặng lời với con được nữa. Và chàng nghĩ tới nghĩ lui. Thể Quỳnh nói rất đúng. Thật sự con chàng có lầm lỗi chi đâu?
Sau hai hôm, Thể Quỳnh về thăm nhà rồi trở lại trường. Bà Châu, Đông Nhựt và Thể Hà không đề cập đến việc Thể Quỳnh cho biết sau nầy sẽ kết hôn với người bạn trai mới quen nữa. Nhưng không khí trongnhà hết sức ngột ngạt, nặng nề. Lòng nàng vẫn còn xót xa, ê ẩm lắm! Nàng cũng biết thật sự con nàng không nói sai. Lời nói của con từng chữ, từng câu vẫn còn văng vẳng bên tai nàng.”Mẹ đã nói Thể Quỳnh hạnh phúc là mẹ hạnh phúc mà! Cho nên con kết hôn với ai cũng vậy thôi, có khác chi đâu?”.
Thể Hà buồn lắm. Nói thì dễ, nhưng làm thì thật là khó. Với lại tánh nàng rất bảo thủ, dù nàng ở xứ người hai mươi mấy năm rồi. Nàng sống hòa hợp với dân bản xứ chớ không bị họ đồng hóa.
Trong tâm tư, lúc nào Thể Hà cũng mong muốn rể, dâu mình sau nầy là người Việt. Bởi Thể Hà là người mẹ không trèo cao, không so sánh, không tranh dành. Nàng là người mẹ giống như những bà mẹ bình thường khác, đầu óc nàng mang nặng tinh thần tồn cổ chớ không đến nỗi nệ cổ một cách mù quáng. Nàng nghĩ rằng, trong cuộc họp mặt nhỏ nhoi của gia đình mà dâu, rể đều có khẩu vị na ná giống nhau, có cùng phong tục, một tập quán, nói cùng một thứ tiếng… thì dễ cảm thông hơn, ấm cúng hơn dâu rể là kẻ dị tộc, ngoại nhân. Sự ước mong như vậy, có phải là sự đòi hỏi quá đáng không? Có quá ích kỷ không?
Thấy vợ tiều tuỵ dằn vặt với cơn buồn, Đông Nhựt khuyên:
– Anh cũng chẳng vui vẻ gì, và cũng không hài lòng cho Thể Quỳnh kết hôn với người con trai Tàu tên Chung đó. Nhưng con mình lớn rồi, nó biết suy nghĩ và hiểu biết nó đang làm gì. Thôi em đừng buồn nữa. Thằng Chung đó học hành cũng không tệ. Mình sanh con chớ không sanh lòng nó được. Vậy em còn buồn chi? Bịnh hoạn khổ lắm. Bổn phận và trách nhiệm làm cha mẹ của mình quá đầy đủ đối với con cái rồi. Để cho nó chọn người phối ngẫu theo ý nó đi. Chúng nó kết hôn và sẽ sống với nhau, ăn đời ở kiếp với nhau. Nếu có gì không may đến với chúng nó thì đó là ý trời. Hoặc ngày nào đó mình có theo ông theo bà, nếu có chuyện gì xảy ra với nhau thì chúng gánh chịu, không oán trách mình được.
Thể Hà gật đầu, vì nàng cũng thầm nghĩ như chồng. Không cản được thì buông xuôi chớ nàng biết làm sao bây giò? Làm găng với nó quá thì cha mẹ và con cái sẽ trở thành kẻ thù! Đã nghĩ như vậy, biết như vậy nhưng Thể Hà vẫn cảm thấy không cam lòng!
o O o
Hai tuần sau, Thể Quỳnh gọi về xin cho người bạn trai mới đến chào bà nội và gia đình. Đến nước nầy rồi, vợ chồng Thể Hà không bằng lòng cũng không được. Xử sự không khéo, vợ chồng nàng và Thể Quỳnh sẽ bất hòa và không chừng nàng mất con luôn. Đó là lời của bà Châu rầy con trai. Nhưng cũng là sự tế nhị nhắc nhở và cảnh cáo thích đáng của mẹ chồng.
Thể Quỳnh mặt mày tươi như hoa. Bình thường con bé nói nhiều, hôm nay cô ta còn véo von như chim sáo sậu. Cả ba chị em đều về chiều hôm qua. Thể Dao và Thái Dương rất bận rộn nhưng vẫn đòi về vì tánh tò mò muốn thấy mặt bạn trai của Thể Quỳnh, không biết anh chàng du học sinh nầy tròn méo ra sao, mà làm điêu đứng tâm hồn thứ ái nữ của nhà họ Vũ nầy.
Sáng sớm, không ai gọi, mà Thể Quỳnh thức dậy dọn dẹp nhà cửa lại cho tốt hơn, mặc dù hôm qua bà nội và mẹ nàng đã dọn dẹp gọn ghẽ. Mười giờ bạn trai của Thể Quỳnh đến, cô giới thiệu:
– Thưa bà, thưa ba mẹ, đây là anh Chung, bạn học cùng trường với con. Anh Chung đây là bà nội, ba, má, chị Thể Dao, và em trai Thái Dương của Quỳnh.
Chung, người bạn trai của Quỳnh lễ phép cúi đầu chào từng người một. Thể Dao, Thái Dương và bà Châu chào hỏi lịch sự đôi câu rồi lảng vào trong. Nơi phòng khách giờ chỉ còn lại bốn người. Họ nói với nhau bằng tiếng Anh, vì Chung không nói được tiếng Việt, và nhà Đông Nhựt cũng không ai nói được tiếng Tàu.
Chung có vóc người cao lớn khỏe mạnh. Cậu ta có nước da trắng, mũi thẳng, vầng trán cao rộng biểu lộ có nét thông minh đặc biệt. Miệng dù không nói nhưng lúc nào miệng cậu ta cũng như mỉm cười. Và mỗi khi cậu cười thì đôi mắt nhỏ có đuôi dài (hầu hết những người Tàu đều có cặp mắt giống nhau nầy) như cũng cười theo, nên trông cậu ta mặt mày thanh tú rạng rỡ. Hàm răng cậu đều đặn, trắng nõn, bóng ngời như những hạt bắp kết hợp lại với nhau. Cậu ta vui vẻ, hoạt bát, ăn nói gọn gàng tự nhiên. Đã có những ưu điểm trời cho, cậu ta còn là một du học sinh xuất sắc. Những người con trai như vậy, ở thời buổi nầy thật sự khó kiếm! Đông Nhựt hỏi:
– Ở nước Cộng sản, những học sinh được ra nước ngoài học, thường thì phải ở ba yếu tố sau đây: con nhà giầu nứt đố đổ vách, con cán bộ cao cấp, học sinh thật ưu tú, thật giỏi hơn người. Chung ở trong trường hợp nào?
Chung nhã nhặn lễ phép, trả lời:
– Thưa hai bác, cha cháu đi dạy học, nhưng ông qua đời lúc cháu còn bé. Mẹ cháu chỉ là công nhân. Cháu có ông anh và hai bà chị đều có gia đình. Mẹ cháu đang sống với gia đình anh trai của cháu. Thưa bác, như vậy gia đình cháu không thuộc vào giai cấp giàu, hoặc cha mẹ có chức quyền. Cháu rời quê hương ra nước ngoài học là ở trường hợp thứ ba trong câu hỏi của bác.
Thể Hà tấn công ngay:
– Chúng tôi nghe Thể Quỳnh nói cháu muốn kết hôn với nó sau khi ra trường phải không?
Chung nhanh miệng trả lời:
– Thưa bác, đúng như vậy.
– Vậy gia đình cháu bên Tàu đã biết chuyện nầy chưa?
– Dạ thưa hai bác, mẹ và anh chị cháu gỏi thư thăm thường nhắc nhở cháu, nếu gặp người nào vừa ý thì lập gia đình đi. Cháu bằng lòng là gia đình cháu rất vui lòng.
– Bác nghe Thể Quỳnh nói cháu đã đậu bằng MS ở Nhật, sang đây để lấy PH.D phải không? Vậy học xong cháu sẽ trở về nước, thì làm sao hai người thành hôn được?
Chung vẫn chẫm rãi trả lời:
– Thưa bác, cháu đã xin tỵ nạn ở Mỹ sau ngày dân và học sinh, sinh viên biểu tình ở Thiên An Môn bên Trung Quốc. Nay cháu đã được thẻ xanh, chờ đúng hạn thi vào quốc tịch Mỹ. Dù cho không có quốc tịch, cháu vẫn làm việc ở đây được. Việc về nước hay không là do ở cháu thôi.
Thể Hà vẫn chưa hài lòng:
– Cháu học thông minh như vậy, thì cháu nên học nói tiếng Việt Nam. Tiếng Việt không khó. Khó hay không ở lòng cháu thôi. Hai bác khi gả con bắt buộc chàng rể phải nói và nghe đuợc tiếng Việt. Vậy cháu có làm được không? Nếu được thì học xong ra trường mà cháu vẫn còn thương yêu Thể Quỳnh thì hãy trở lại đây nói chuyện với hai bác bằng tiếng Việt về việc xin cưới hỏi Thể Quỳnh.
Anh chàng Chung không ngần ngại mỉm cười tự tin, trả lời ngay:
– Thưa hai bác, cháu xin hứa với hai bác cháu sẽ làm được điều dó.
Theo nhận xét của bà Châu và vợ chồng Thể Hà thì Chung là một thanh niên rất xứng đáng. Thể Dao nói nhỏ với ba mẹ mình:
– Cái thằng Chung đẹp trai, học giỏi tánh tình như vậy nên Thể Quỳnh nhà ta chấm trúng. Con nhỏ có mắt tinh đời, hay thiệt!
Thái Dương xen vào:
– Chị Ba mà chấm người nào thì xong rồi! Không biết người đó có phước hay có họa đây?
Thể Hà trong lòng vẫn chưa thoải mái, nạt con:
– Nói bậy! Thể Quỳnh đẹp gái, đàng hoàng, học giỏi. Nói tóm lại, ai vào làm dâu làm rể nhà nầy đều là có phước cả!
Bà Châu trề môi nhìn con dâu, và quay qua cười nói với các cháu:
– Mẹ các cháu thương các cháu quá đi, nên ý của mẹ các cháu là thương con trai thì thương dâu, thương con gái thì dĩ nhiên là thương rể rồi.