← Quay lại trang sách

Chương 16

Vụ án mạng gây chấn động cả nước cuối cùng đã kết thúc. Tất cả những kẻ sát nhân đều bị bắt hoặc phải đền tội. Cảnh sát điều tra tìm ra chất độc xyanua trong nhà Thái Bá Huân cùng với hai can axít, bộ quần áo phụ nữ và mái tóc giả mà hắn đã dùng để hóa trang. Huân khai nhận tất cả tội lỗi. Hắn bị tuyên mức án phạt nặng nhất là tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc. Những người cai tù nói rằng cho đến lúc chết, Huân vẫn gọi tên đại tá Phạm Chí Vĩnh với vẻ căm ghét pha lẫn khâm phục. Cùng với cái chết của Huân, chuyên án “Chuồn chuồn ớt” chính thức đóng lại.

Được cấp cứu kịp thời, Hoàng nhanh chóng khỏi bệnh. Vết thương không để lại di chứng cho anh trừ một vết sẹo mà Lan đùa là càng làm anh trông đàn ông hơn trước. Vĩnh làm đơn đề nghị thủ trưởng đơn vị trao tặng bằng khen cho Hoàng và Lan vì những đóng góp nổi bật giúp giải quyết vụ án.

Cậu bé Dũng còi được một phen hú vía, nhưng với bản tính nghịch ngợm, Dũng ngay lập tức quên phắt nỗi kinh hoàng ngày hôm đó. Không những thế, cậu còn bị đám bạn ghen tị vì đã được trải qua giây phút đối mặt với kẻ sát nhân. Dũng thường xuyên mang câu chuyện của mình ra kể với niềm tự hào. Cậu cũng không quên thêm mắm thêm muối, biến mình từ chỗ suýt bị giết chết thành tiểu anh hùng dám cản đường tên tội phạm nguy hiểm để các chú công an đến bắt. Cũng phải nói thêm rằng trong những câu chuyện một phần thực chín phần hư của mình, cậu nhóc mười tuổi lúc nào cũng miêu tả một cách chi tiết phong thái như nữ tướng nhà trời của nữ đại úy Nguyễn Ngọc Lan, mỗi lúc một kiểu, kiểu gì cũng vô cùng mĩ lệ, rực rỡ, tươi tắn, khiến cô trở thành thần tượng trong mộng của đám con trai đang tuổi ăn tuổi lớn trong làng, vượt xa những diễn viên, hoa hậu, người mẫu đương thời. Dĩ nhiên Ngọc Lan không hề biết chuyện này.

Nguyễn Thái Khanh bị di lý về tỉnh Nghệ An để xét xử việc đánh người gây thương tích. Do tính chất vụ việc không nghiêm trọng, gia đình bị cáo đã bồi thường và nạn nhân có đơn xin bãi nại, nên tòa xét xử khoan hồng phạt tù bị cáo một năm, cho hưởng án treo. Trần Thu Nga bán đất đai nhà cửa ở xã Vân Trung, đốt hết giấy tờ sổ sách ghi nợ mà người chồng quá cố để lại. Khi được hỏi tại sao lại làm thế, bà trả lời muốn tìm sự thanh thản trong tâm hồn. Hành động của bà Nga đã khiến những người họ hàng của ông Tuấn rất tức giận, nhưng cuối cùng cũng không dẫn đến vụ kiện cáo nào. Bà Nga trở về quê cũ sinh sống cùng với bố mẹ và người yêu mới. Một năm sau, Khanh mãn hạn tù, hai người tổ chức lễ kết hôn với sự tham dự của toàn bộ nhóm điều tra từ trên Hà Nội xuống. Vĩnh là người đọc lời chúc mừng cho đôi vợ chồng son. Lúc đó Hoàng và Lan cũng đã kết hôn. Khung cảnh có thể nói là viên mãn. Nhưng đây là câu chuyện ở thì tương lai mất rồi.

Lại nói vào thời điểm một tháng sau khi bắt được Huân, kết thúc vụ án, Vĩnh nhận được cú điện thoại từ một số máy lạ. Anh bấm nút nghe:

- A lô, tôi Vĩnh đây.

Ở đầu dây bên kia, tiếng người phụ nữ vang lên như chuông vỡ làm Vĩnh giật bắn mình:

- Có thật là chú Vĩnh không đới?

- Tôi đây. Xin hỏi ai đang nói chuyện thế?

- Chị Hoài đây mà. Cháu cụ Khang. Chú còn nhớ chị không?

Vĩnh kêu lên vui vẻ:

- Ồ, hóa ra là chị. Em vẫn nhớ chứ, làm sao quên được. Hôm nay chị gọi cho em thế này chắc cụ khỏe lại rồi phải không.

- Không phải thế. Cụ mệt lắm, sắp chết rồi. Bác sĩ bảo không qua được tối nay. Trong mấy ngày vừa rồi cụ nhắc đến tên chú suốt. Cụ muốn gặp chú mà tôi không cho, sợ cụ mệt thêm. Nhưng bây giờ đằng nào cụ cũng chết đến nơi rồi, không cho cậu gặp thì tội quá. Cậu sang luôn bây giờ đi nhé.

Vĩnh than thở, rồi bảo em sẽ sang ngay. Khi đó vừa khéo anh đang ở trụ sở Ủy ban nhân dân xã Vân Trung để xử lý hồ sơ vụ án. Anh chạy sang thôn Tiền Phong. Lần này anh đi một mình, nhưng vẫn nhớ đường đến thẳng nhà cụ Phạm Đình Khang.

Trái với sự hình dung của anh, ngôi nhà vẫn yên tĩnh như trước. Không có họ hàng nào quây quần xung quanh người sắp chết, ngoại trừ cô cháu gái cũng đã cao tuổi lắm rồi. Bà Hoài vẫn đang làm công việc muôn thuở là chặt thịt gà. Thấy Vĩnh đến, bà không dừng tay lại mà hất hàm về phía gian nhà chính:

- Cụ đang đợi, chú vào đi. Lần này không bị hạn chế về thời gian nữa nhé.

Vĩnh không nén nổi nỗi tò mò:

- Chị chặt thịt gà để làm cái gì thế?

- Để ăn, chứ chú nghĩ để làm gì. Chôn cụ, làm ma chay mất sức lắm, không ăn thì lấy sức đâu mà làm. Chỉ có mình tôi lo hậu sự cho cụ thôi.

Vĩnh thấy câu nói đó nghe có vẻ vô tình nhưng lại vô cùng hợp lý. Người đàn bà bé nhỏ này dường như đã hiểu thấu lẽ trời, mà cũng có thể bà đã chờ ngày này lâu quá rồi nên thành ra bị chai sạn.

Vĩnh bước vào ngôi nhà. Ngôi nhà tối om, anh phải đợi một lúc để mắt quen với ánh sáng yếu trong phòng. Anh đi lần lần về phía cái phản nơi trên đó cụ Phạm Đình Khang đang thở dốc.

Dường như biết anh đến, cụ Khang khẽ nhỏm dậy. Dù đã cố hết sức, nhưng giọng cụ vẫn bé tí gần như thì thào, Vĩnh phải quỳ gối xuống, ghé sát tai mới nghe thấy.

- Cậu muốn nghe về lịch sử xã Vân Trung?

Vĩnh gật đầu, nói “Vâng”.

Cụ Khang mỉm cười. Cụ lấy hơi, rồi những lời nói cứ thế tuôn chảy ra từ đôi môi già nua như dòng nước vô tận vô cùng.

- Xã Vân Trung có từ thời nhà Lê. Người có công khai phá đất đai lập nên làng cũng là một người họ Lê, nghe nói là quan lớn về hưu. Khi đó sông Tích Giang chưa có hình dáng như bây giờ. Đến đoạn chảy qua làng, dòng chảy bị bóp nghẹt lại giống như con kênh, mùa lũ nước không có đường thoát, trào lên ngập nhà cửa, đồng ruộng, người chết rất nhiều. Vị quan đó kêu gọi mọi người góp công góp của đào rộng con sông, tạo thành đường thoát lũ. Mọi người thuận theo, nhưng khi đó dân cư thưa thớt, công cụ thiếu thốn, phải mất gần hai năm công trình mới hoàn thành. Khi hoàn thành rồi, viên quan mới giật mình nhận ra khu đất mới hình thành có hình tam giác lạ thường. Đứng từ trên đỉnh núi Búp Măng nhìn xuống, ngôi làng trông như con mắt khổng lồ. Viên quan nghĩ đây là điềm lạ, liền đặt tên cho làng là Long Nhãn, mắt rồng. Trong mắt rồng thì vị trí trung tâm là khu vực ngã tư Thân bây giờ. Đây được xem là vùng đất tinh hoa hội tụ, phúc trạch sâu dày, sống một đời, hưởng phúc vạn kiếp.

Vĩnh ngồi nghe, mồ hôi bắt đầu chảy xuống thắt lưng.

- Năm Ất Dậu 1945, người sở hữu khu trung tâm của mắt rồng là lý trưởng Trần Đình Toại. Toại là người tham lam, tàn bạo, và hết sức giàu có. Người ta đồn đó là tiền bóp nặn dân làng. Nạn đói nổ ra, dân trong làng nổi lên, cướp phá nhà lý trưởng Toại. Cả nhà hắn đều bị chết trong vụ bạo loạn. Người ta đem chôn mười mấy cái xác chết xuống dưới hố trong vườn nhà. Năm đó tình hình thật thảm thương, trong làng không còn bất cứ thứ gì để ăn, người chết đói đầy đồng. Sông Tích Giang ngập xác chết.

Cách mạng nổ ra. Quân Pháp bị quét khỏi Việt Nam. Chính quyền mới tiếp quản làng Long Nhãn, đổi tên làng thành Vân Trung là núi trong mây, căn cứ theo sự bề thế của núi Búp Măng mà đặt tên như thế. Vị trí ngã tư Thân sang tên đổi chủ mấy lần trước khi dừng lại ở Nguyễn Đức Tuấn. Nghe nói anh ta ăn nên làm ra lắm phải không?

Vĩnh nói “Vâng”, nhưng rồi lại nói thêm:

- Anh ta chết rồi, bị giết.

Cụ Khang gật đầu như thể ta đây biết cả. Cụ thều thào nói tiếp:

- Tinh hoa hội tụ, tiền tài từ bốn phương tám hướng đổ về, nhưng phải có tâm mới giữ được. Không thì họa lớn vào thân.

Vĩnh ghé sát tai cụ, hỏi:

- Chuyện đó có thật không?

- Chuyện gì?

- Khu mắt rồng, đất tinh hoa hội tụ, điều đó có thật không ạ?

Cụ Khang lắc đầu, rồi lại gật, mỉm cười:

- Đó chỉ là truyền thuyết thôi. Nhưng truyền thuyết từ đâu mà ra? Từ những câu chuyện ta gặp hằng ngày, trải qua năm tháng truyền cho lớp lớp cháu con, bị sửa đổi nhiều lần mà thành bản cuối cùng. Truyền thuyết với sự thật, nó không phải là một, nhưng cũng không thể tách rời. Làng Long Nhãn, xã Vân Trung, ước gì ta có thể sống lâu hơn nữa để tiếp tục kể những truyền thuyết.

Nghe đến đây, Vĩnh bỗng giật mình kêu lên:

- Cụ đã kể cho ai nghe những câu chuyện này chưa?

Vĩnh hỏi mấy lần, nhưng cụ Khang nằm im, không nói thêm gì nữa. Từ đằng sau, bà Hoài đặt tay lên vai Vĩnh:

- Cụ mất rồi. Chú đừng la lên thế. Điếc tai lắm.

Vĩnh bàng hoàng. Anh sờ bàn tay lạnh giá của cụ già, sau đó sờ lên mũi bắt hơi thở. Quả thực cụ đã mất rồi. Anh quay lại nhìn bà Hoài. Bà không khóc, trông hoàn toàn bình tĩnh.

- Em xin chia buồn với chị.

- Không cần phải thế. Cụ sống đến nay đã là quá thọ rồi. Sinh lão bệnh tử, có ai thoát được quy luật đấy đâu?

- Chị có cần em giúp gì không?

- Khỏi, cậu về đi. Tôi sẽ gọi hàng xóm sang phụ giúp việc ma chay. Nhìn cậu như đang có việc gì đó cần phải làm gấp vậy.

Vĩnh phát hiện ra người phụ nữ trông như bà bán thịt này thực ra lại vô cùng tinh tế. Anh gật đầu chào tạm biệt bà Hoài. Khi ra bên ngoài, anh quay số gọi điện cho bà Nga. Anh nói trong hơi thở gấp gáp:

- A lô, chị Nga đó hả. Có điều này tôi muốn hỏi chị. Chị đã bán nhà chưa?

- Em bán rồi anh ạ. Vừa ký hợp đồng xong.

- Chị bán cho ai vậy?

- Cho anh Lê Phương Đông.

- Việc mua bán này là chị đề nghị ư?

- Không anh ạ. Anh Đông gọi cho em. Em cũng ngạc nhiên. Em chưa hề nói ý định bán nhà cho ai trừ anh Khanh, vì biết bán bây giờ sẽ lỗ nặng. Nhưng không hiểu làm thế nào mà anh Đông lại biết em muốn bán nhà.

- Khu đất nhà chị vừa xảy ra án mạng, thông thường sẽ không có người nào dám mua. Anh Đông có giải thích hành động của mình không?

- Anh ấy nói khu nhà em địa thế đẹp. Nếu em không có nhu cầu dùng nữa thì để lại cho anh ý. Anh ấy đồng ý mua với giá thị trường. Quả thực em phải cảm ơn anh Đông. Không có đề nghị của anh Đông thì em không biết phải làm sao. Ở cũng chẳng được, mà bán cũng không xong.

Vĩnh buông điện thoại. Anh điểm lại tất cả mọi sự kiện diễn ra từ lúc anh đến tam giác Bon Phấn. Tất cả mọi thứ đều chỉ ra rằng Huân là kẻ chủ mưu và Tùng là đồng phạm duy nhất. Không một bằng chứng nào cho thấy Lê Phương Đông có liên hệ đến vụ này. Nhưng anh vẫn cảm thấy có điều gì đó quá trùng hợp, không sao giải thích được.

Vĩnh đi bộ ra sông Tích Giang. Trời về chiều, gió thổi lồng lộng. Mái tóc dày của anh tung bay. Anh ngẩng đầu nhìn lên núi Búp Măng, nhưng không thấy đỉnh. Những đám mây dày tầng tầng lớp lớp đã quấn lấy đỉnh núi, tạo nên khung cảnh vừa thơ mộng, vừa kỳ bí lạ lùng.

HẾT