Phần I - Chương 1
Chương 1
Lần đầu tiên cha đưa Andrea đến Ngôi nhà của Người Hà Lan, Sandy, quản gia của chúng tôi, đến phòng chị tôi và bảo chúng tôi xuống dưới nhà. “Cha cô muốn cô gặp một người bạn của ông ấy,” cô nói.
“Là bạn làm ăn ạ?” Maeve hỏi. Chị ấy lớn hơn nên cũng hiểu chữ “bạn” một cách phức tạp hơn tôi.
Sandy cân nhắc rồi đáp: “Tôi cho là không. Em cô đâu?”
“Bệ cửa sổ kia kìa,” Maeve nói.
Sandy kéo rèm để tìm tôi. “Sao cậu phải kéo rèm vậy?”
Lúc đó tôi đang đọc sách. “Cho riêng tư,” tôi nói, mặc dù lúc tám tuổi tôi chẳng có chút ý niệm gì về quyền riêng tư cả. Chỉ là tôi thích từ này và thích cảm giác được bao bọc bởi những tấm rèm đóng kín.
Về phần người khách, quả là một bí ẩn. Cha chúng tôi không có nhiều bạn, ít nhất là cũng không có ai thân đến mức đến thăm hỏi vào chiều muộn thứ Bảy như thế này. Tôi bước ra khỏi chỗ ngồi bí mật của mình, đi ra đầu cầu thang rồi nằm nép người xuống tấm thảm trải sàn. Bằng kinh nghiệm của mình, tôi nép mình xuống sàn nhà, ghé mắt qua khe hẹp giữa trụ chốt và chấn song đầu tiên đề nhìn lén xuống phòng khách. Tôi thấy cha và một người phụ nữ đang ngồi trước lò sười; theo những gì tôi thấy, họ đang ngắm nhìn bức chân dung ông bà VanHoebeek. Tôi đứng dậy, quay về phòng chị gái để báo cáo những thông tin thu thập được.
“Là một phụ nữ,” tôi nói với Maeve. Sandy biết điều này rồi.
Sandy hỏi tôi đã đánh răng chưa, tôi nghĩ ý cô muốn hỏi tôi đã đánh răng buổi sáng chưa. Chẳng ai lại đi đánh răng vào lúc bốn giờ chiều cả. Vào thứ Bảy, Sandy phải tự quán xuyến mọi việc vì Jocelyn được nghỉ. Cô sẽ phải nhóm lò, mở cửa đón khách, gọi đồ uống và trên hết vào lúc này, cô phải chịu trách nhiệm về vấn đề răng miệng của tôi. Sandy sẽ được nghỉ vào thứ Hai. Sandy và Jocelyn đều được nghỉ vào Chủ nhật vì cha tôi nghĩ rằng không ai đáng phải làm việc vào Chủ nhật cả.
“Cháu đánh rồi,” tôi nói, vì sáng ra tôi đã làm vậy.
“Thế thì đánh lại đi,” cô nói. “Và nhớ chải đầu nữa nhé.”
Vế sau cô có ý nói chị tôi. Tóc Maeve dài, đen nhánh và dày như mười cái đuôi ngựa túm lại thế nên có chải cũng như không.
Khi trông tạm coi là chỉn chu, Maeve và tôi đi xuống cầu thang và đứng dưới mái vòm ở tiền sảnh, quan sát cha và Andrea ngắm bức tranh ông bà VanHoebeek. Họ chẳng để ý đến chúng tôi, hoặc họ không thừa nhận sự có mặt của chúng tôi lúc đó - cũng chẳng biết được - vì vậy chúng tôi cứ đứng đó đợi. Maeve và tôi biết cách giữ im lặng trong ngôi nhà này, như một thói quen từ lúc sinh ra để cố gắng không chọc tức cha, dù việc thấy chúng tôi len lén nhìn lại khiến ông bực hơn. Hôm nay, ông mặc bộ vét màu xanh. Bình thường, cha chẳng bao giờ mặc vét vào thứ Bảy cả. Đây là lần đầu tiên tôi thấy tóc sau gáy ông đã điểm bạc. Đứng cạnh Andrea, trông ông có vẻ cao hơn.
“Có chúng ở bên quả là niềm an ủi.” Andrea thủ thỉ với cha, không phải nhắc đến chúng tôi, các con của ông, mà là về những bức tranh. Ông bà VanHoebeek, những người tôi chẳng hề biết tên[1], được khắc họa trong bức chân dung có vẻ đã đứng tuổi nhưng không quá già. Cả hai mặc đồ đen, dáng thẳng đứng khác kiểu những bức tranh thời nay. Dù ở hai khung hình riêng biệt nhưng trông họ hoàn toàn thuộc về nhau, quá gắn kết đến độ tôi luôn có cảm giác như thể ai đã cắt bức tranh của họ ra làm đôi vậy. Andrea nghiêng đầu ra phía sau, quan sát hai đứa trẻ ngơ ngác rồi nhìn chằm chằm vào đứa con trai (là tôi) vẻ không hài lòng dù tôi có chọn ngồi trên chiếc sofa nào đi chăng nữa. Maeve im lặng, lén thọc hai ngón tay vào mạng sườn tôi đề tôi ré lên nhưng tôi kìm lại được. Chúng tôi vẫn chưa được giới thiệu một cách chính thức với Andrea, trông từ phía sau dì ta thật nhỏ nhắn và gọn gàng trong chiếc váy thắt đai lưng. Dì ta đội chiếc mũ đen nhỏ xíu như chiếc đĩa lót tách, cài hờ lọn tóc nhạt màu. Được học với các nữ tu, tôi biết cách cư xử hơn việc cười hô hố khiến khách mất mặt. Andrea không biết rằng những người trong bức họa gắn bó với ngôi nhà này, mọi thứ trong ngôi nhà đều thuộc về nó.
Phòng khách của gia đình VanHoebeek là nơi trưng bày những tiết mục đặc sắc, những thước phim tài liệu về những khuôn mặt nghiêm nghị, đoan trang và già cỗi với kích thước như người thật. Khuôn mặt của họ được khắc họa chính xác những đường nét tiêu biểu của người Hà Lan và sự đặc biệt đó càng được thể hiện rõ nét dưới ánh đèn. Không những vậy, còn hàng tá những bức chân dung khác nhỏ hơn ở mỗi tầng - những bức tranh vẽ con cái họ đặt ở ngoài hành lang, vẽ tổ tiên họ được đặt trong phòng ngủ và những người vô danh mà họ ngưỡng mộ đặt rải rác khắp nhà. Ngoài ra, còn một bức chân dung của Maeve khi chị mười tuổi. Mặc dù bức đó không lớn bằng những bức tranh của ông bà VanHoebeek nhưng nó lại đẹp hơn nhiều. Cha tôi từng mời một họa sĩ nổi tiếng từ Chicago đến đây. Người ta đồn rằng, ông định vẽ mẹ tôi nhưng mẹ tôi - bà không được báo trước rằng người họa sĩ này sẽ lưu lại đây hai tuần - đã từ chối ngồi để vẽ, vì vậy ông họa sĩ đã vẽ thế Maeve. Sau khi bức chân dung được hoàn thiện và đóng khung, cha tôi treo nó trong phòng khách, đổi diện bức họa ông bà VanHoebeek. Maeve thích nói rằng đấy là nơi chị luyện cách nhìn mọi người chằm chằm.
“Danny,” cha nói. Cuối cùng thì ông cũng quay lại. Trông ông có vẻ mong rằng chúng tôi đã đứng ở đây. “Đến đây chào hỏi cô Smith đi.”
Tôi chắc rằng vẻ mặt của Andrea xìu xuống khi nhìn thấy Maeve và tôi. Ngay cả khi cha tôi không đề cập về con cái, dì ta cũng phải thừa hiểu rằng ông có con riêng. Mọi người ở khu Elkins Park này đều biết những chuyện xảy ra trong Ngôi nhà của Người Hà Lan. Có lẽ dì ta nghĩ chúng tôi sẽ ở rịt trên lầu. Rốt cuộc, dì ta đến để ngắm nhìn ngôi nhà chứ đâu phải thăm chúng tôi. Hoặc có thể vẻ mặt của Andrea chỉ dành cho Maeve, mười lăm tuối, đi giày tennis mà cao hơn dì ta cả cái đầu dù dì ta đi giày cao gót. Maeve đi lom khom khi nhận ra mình cao hơn tất thảy nữ sinh và hầu hết các nam sinh trong lớp, nhưng rồi cha đã tìm mọi cách để sửa cái tư thế đó. Chị thường bị gọi là Cái sào[2]. Nhiều năm trời, ông thường vỗ hai bàn tay vào bả vai chị mỗi khi hai người đi ngang qua nhau. Hậu quả không lường trước được là giờ Maeve đứng thẳng như một người lính trong quân đội hoàng gia, thậm chí như chính Nữ hoàng. Ngay cả tôi cũng có thể thấy được chị ấy đáng gờm như thế nào từ chiều cao cho đến mái tóc đen óng ả rồi cả cách chị liếc mắt nhìn dì Andrea chứ không cúi đầu. Còn tôi, tám tuổi, vẫn là một đứa trẻ nhỏ bé hơn rất nhiều so với người phụ nữ sau này trở thành mẹ kế của chúng tôi. Tôi đưa tay ra bắt lấy bàn tay bé nhỏ của dì ta, giới thiệu tên mình rồi đến lượt Maeve. Mặc dù người ta thường nói Maeve và Andrea đã xích mích với nhau ngay từ lần gặp đầu tiên nhưng sự thật không phải như vậy. Maeve hoàn toàn vô tư và lịch sự trong lần gặp đầu tiên và chị tin rằng chị vẫn cư xử như vậy cho đến khi không thể chịu được nữa.
“Cô khỏe chứ ạ?” Maeve hỏi. Andrea trả lời là dì ta rất khỏe.
Andrea khỏe, tất nhiên rồi. Mục tiêu của Andrea trong nhiều năm trời là chen chân được vào gia đình tôi, khoác tay cha bước đi trên những bậc thang bằng đá rộng thênh thang và băng qua sân hiên lát gạch đỏ. Dì ta là người phụ nữ đầu tiên mà cha đưa về nhà kể từ ngày mẹ bỏ đi, mặc dù Maeve nói với tôi là ông qua lại với vú em của chúng tôi một thời gian. Đó là một cô gái người Ireland tên Fiona.
“Chị nghĩ là cha đã ngủ với Fluffy ư?” Tôi hỏi Maeve. Chúng tôi gọi Fiona là Fluffy phần vì hồi nhỏ chúng tôi không phát âm được cái tên Fiona, phần vì những lọn tóc đỏ mềm mại xõa xuống lưng cô giống những đám mây đến bất ngờ. Tin tức về mối tình này đến với tôi theo cái cách hệt như những thông tin khác: nhiều năm sau khi sự kiện xảy ra, trong chiếc ô tô đậu bên ngoài Ngôi nhà của Người Hà Lan cùng với chị gái tôi.
“Hoặc là thế, hoặc là cô ta vào dọn phòng cha lúc nửa đêm,” Maeve nói.
Cha và Fluffy mê đắm cuốn lấy nhau. Tôi lắc đầu. “Không thể tưởng tượng được.”
“Đừng cố hình dung chuyện đó! Chúa ơi, Danny, thật kinh tởm. Dù sao đi nữa, hồi Fluffy làm ở đây thì em vẫn còn bé mà. Chị ngạc nhiên vì em vẫn nhớ cô ta đấy.”
Tôi vẫn nhớ Fluffy đã dùng thìa gỗ đánh tôi lúc tôi mới bốn tuổi. Bên khóe mắt trái tôi vẫn còn vết sẹo nhỏ hình cây gậy đánh golf - dấu ấn của Fluffy, Maeve gọi nó như vậy. Fluffy khẳng định rằng cô ta đang nấu nồi nước xốt táo thì tôi giật váy khiến cô ta giật bắn mình. Cô ta nói rằng lúc đó cô ta chỉ cố gắng đưa tôi ra khỏi bếp chứ hoàn toàn không có ý định đánh tôi, mặc dù tôi nghĩ rất khó để mà vô tình dùng thìa đập vào mặt một đứa trẻ. Tôi thấy câu chuyện ấy thú vị vì đó là ký ức đầu tiên của tôi về một người khác hoặc về Ngôi nhà của Người Hà Lan hay chỉ đơn giản đó là ký ức đầu tiên của tôi. Tôi chẳng còn chút ký ức nào về mẹ nhưng lại nhớ được Fluffy đã đập thìa vào đầu mình. Hình ảnh Maeve chạy xuống hành lang khi nghe thấy tiếng hét của tôi, rồi chạy như bay vào nhà bếp như con nai vọt qua hàng rào phía sau nhà khiến tôi không tài nào quên được. Chị tung người vào Fluffy, đẩy cô ta xô vào bếp khiến ngọn lửa màu xanh lam bốc lên, nồi xốt táo đang sôi sùng sục rơi xuống đất bắn tung tóe khiến tất cả chúng tôi đều bị bỏng. Tôi được đưa ngay đến chỗ bác sĩ và bị khâu sáu mũi, còn Maeve thì phải băng cả bàn tay. Về phần Fluffy, cô ta bị đuổi việc mặc dù tôi nhớ là cô ta đã khóc lóc và nói rằng đấy chỉ là một tai nạn. Cô ta không muốn rời khỏi đây chút nào. Theo lời chị tôi, cô ta chính là người tình cũ của cha và tôi nghĩ là Maeve biết thật, vì khi tôi có vết sẹo đó thì chị tôi đã mười một tuổi rồi.
Trước khi chuyện đó xảy ra, cha mẹ của Fluffy là tài xế và đầu bếp cho gia đình VanHoebeek. Fluffy đã trải qua thời thơ ấu trong Ngôi nhà của Người Hà Lan, chính xác là trong căn phòng nhỏ phía trên ga ra. Vì vậy tôi đã tự hỏi - khi tên cô ta xuất hiện trong cuộc hội thoại của chúng tôi sau nhiều năm - rằng cô ta đã đi đâu sau khi bị đuổi như vậy.
Fluffy là người duy nhất trong nhà biết ông bà VanHoebeek. Ngay cả cha chúng tôi cũng chưa từng gặp họ, dù chúng tôi đang ngồi trên ghế của họ, ngủ trên giường của họ và dùng bữa bằng bát đĩa của họ. Chuyện của nhà VanHoebeek chẳng quan trọng nhưng đây là câu chuyện về ngôi nhà mà ngôi nhà lại là của họ. Khi còn sống, họ đã kiếm được rất nhiều tiền thông qua việc phân phối thuốc lá, công việc kinh doanh may mắn của ông VanHoebeek trước khi Chiến tranh thế giới nổ ra. Những người lính trên chiến trường được chính phủ trợ cấp thuốc lá để an ủi tinh thần và thói quen này đã bám riết họ đến tận khi họ trở về với gia đình để kỷ niệm một thập kỷ thịnh vượng. VanHoebeek, lúc đó giàu lên trông thấy, đã quyết định xây dựng ngôi nhà trên khu đất lúc bấy giờ là đất nông nghiệp bên ngoài Philadelphia.
Thành công đáng kinh ngạc của ngôi nhà có thể phần lớn là nhờ vị kiến trúc sư, dù sau đó tôi đã tìm kiếm nhưng không thấy thêm công trình nào khác của ông ta. Có thể là vậy hoặc do ông bà VanHoebeek lạnh lùng là những người có tầm nhìn xa trông rộng, hay do khu đất đã truyền cảm hứng cho một điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của bất kỳ ai trong số họ, nhưng cũng có thể là do nước Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đầy ắp những thợ thủ công lành nghề ít được trọng dụng. Dù thế nào đi nữa thì ngôi nhà mà họ gắn bó - ngôi nhà sau này thuộc về chúng tôi - là sự kết hợp thần kỳ giữa tài năng và may mắn. Không cách nào giải thích được sao một ngôi nhà ba tầng lại có đủ diện tích cho mọi người nhưng đúng là như vậy. Nói đúng hơn, ngôi nhà thừa rộng rãi cho tất cả mọi người. Nó to lớn và lãng phí một cách lố bịch nhưng chúng tôi cũng chẳng muốn gì khác cả. Ngôi nhà của Người Hà Lan, như đã biết, tọa lạc ở Elkins Park, Jenkintown, Glenside và Philadelphia. Tạm chưa nhắc đến kiến trúc của nó, hãy nhắc đến những người sống ở đó trước. Ngôi nhà của Người Hà Lan là nơi sinh sống của những người Hà Lan mang những cái tên thật khó đọc. Nhìn từ xa, ngôi nhà trông như lơ lửng ở trên đồi. Những tấm kính lớn như mặt kính cửa hàng vòng tay ôm ấp tấm cửa ra vào bằng kính, tất cả được che chắn bởi hàng rào thép rào quanh. Những tia nắng lấp lánh nhảy nhót qua những tấm kính hai bên rồi trượt dài xuống tráng cỏ rộng quanh nhà. Ngôi nhà được xây dựng theo phong cách tân cổ điến, có lẽ vậy, mặc dù sự đơn giản trong đường nét của nó gần với phong cách Địa Trung Hải hoặc Pháp hơn, và mặc dù nó không mang phong cách Hà Lan, phòng khách, thư viện và phòng ngủ đều được lát gốm vẽ thủ công vùng Delft (nghe nói được cạy từ một lâu đài ở Utrecht và bán cho gia đình VanHoebeek để trả các khoản nợ cờ bạc cho hoàng tử quốc gia này). Ngôi nhà được hoàn thiện bằng các lớp gốm lát tường vào năm 1922.
“Họ có bảy năm yên bình ở nơi này trước khi nhân viên ngân hàng để mắt đến,” Maeve kể về quá khứ những người chủ trước của ngôi nhà.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy việc thanh lý tài sản là vào ngày Andrea lần đầu đến thăm nhà. Dì ta theo cha đến tiền sảnh và nhìn ngắm bãi cỏ rộng trước nhà.
“Nhiều kính quá,” Andrea nói, như thể đang tính toán xem liệu có cách nào thay đổi tấm kính chắn thành bức tường hay không. “Anh không lo bị mọi người nhòm ngó sao?”
Bạn không chỉ nhìn được vào Ngôi nhà của Người Hà Lan mà còn có thể nhìn xuyên qua nó. Ngôi nhà hẹp ở phần giữa với tiền sảnh kéo dài dẫn thẳng đến nơi chúng tôi gọi là đài quan sát, chỗ có bức tường bằng kính nhìn ra sân sau. Từ lối vào, ta có thể phóng tầm mắt lên những bậc tam cấp, qua sân thượng, qua cửa trước, qua sàn lát đá cẩm thạch ở tiền sảnh, qua đài quan sát và bắt gặp những hàng hoa tử đinh hương rung rinh đón gió trong khu vườn sau nhà.
Cha chúng tôi đưa mắt nhìn trần nhà rồi hai bên cánh cửa như thể giờ ông mới nghĩ đến điều này. “Ngôi nhà cách đường sá khá xa,” ông nói. Vào buổi chiều tháng Năm, hàng cây đoạn lá bạc bao bọc bên ngoài khuôn viên căn nhà sum suê lá; bóng lá dày rộng tỏa mát xuống bãi cỏ xanh dày rộng, nơi tôi lăn lộn chơi đùa suốt mùa hè.
“Nhưng còn về đêm nữa chứ,” dì Andrea lo lắng nói. “Em tự hỏi không biết treo rèm lên có được không.”
Treo rèm để ngăn ánh mắt nhòm ngó từ bên ngoài không chỉ bất khả thi mà còn là ý tưởng ngu ngốc nhất mà tôi từng nghe.
“Cô từng nhìn gia đình cháu vào ban đêm rồi sao?” Maeve hỏi.
“Em nên nhớ rằng người ta đã chọn khu đất này để dựng ngôi nhà,” cha nói át tiếng Maeve. “Diện tích tổng bất động sản này vào khoảng trên hai trăm mẫu Anh[3], kéo dài đến tận công viên Melrose.”
“Thế sao họ lại bán nó đi?” Andrea đột nhiên nhận ra việc chẳng có ngôi nhà nào quanh đây có vẻ hợp lý hơn nhiều. Tầm nhìn của ngôi nhà vốn dĩ phóng ra xa qua bãi cỏ trên con dốc thoai thoải, qua những luống mẫu đơn và những luống hồng. Tầm nhìn ở đây nghĩa là nhìn xuống một thung lũng rộng với con đường mòn chạy thẳng vào khu rừng. Thế nên ngay cả khi gia đình nhà VanHoebeek hoặc một trong những vị khách của họ có nhìn ra từ cửa sổ phòng khiêu vũ vào ban đêm thì ánh sáng duy nhất mà họ thấy được là ánh sao. Hồi đó, không có đường phố và không có cả láng giềng còn giờ có thể nhìn rất rõ nhà gia đình Buchsbaum vào mùa đông khi hàng cây vào mùa thay lá.
“Vì tiền,” Maeve đáp.
“Vì tiền,” cha gật đầu nói. Đó không phải một câu hỏi khó. Đến cả tôi, lúc đó mới tám tuổi, cũng có thể dễ dàng trả lời.
“Họ đã sai lầm,” Andrea nói, đôi môi mím chặt. “Hãy nghĩ đến việc ngôi nhà này từng đẹp đến mức nào. Ý em là đáng lẽ họ phải tôn trọng nó hơn chứ. Ngôi nhà này là một tác phẩm nghệ thuật.”
Tôi bật cười, tôi hiểu ý Andrea là gia đình VanHoebeek phải hỏi ý kiến dì ta trước khi bán mảnh đất này. Cha không hài lòng về điều đó chút nào. Ông bắt Maeve đưa tôi lên lầu như thể sợ tôi lạc đường.
Thuốc lá quấn sẵn đóng hộp là thứ xa xỉ ngay cả đối với những người giàu. Những địa chủ đồn điền thuốc lá thời đó chẳng bao giờ phải đặt chân lên những cánh đồng của ông ta. Rồi những mảnh đất bị bán dần bán mòn. Sự suy thoái của gia đình địa chủ này đã được thông cáo công khai, được lịch sử ghi thành văn trong các chứng thư về tài sản. Elkins Park ngày càng bé lại. Bằng cách này, gia đình VanHoebeek đã thoát được thời kỳ Suy thoái, đến khi ông VanHoebeek mất vì bệnh viêm phổi năm 1940. Một cậu trai nhà VanHoebeek mất khi còn nhỏ, hai người con trai khác qua đời trong chiến tranh. Bà VanHoebeek từ trần năm 1945, khi gia sản chẳng còn gì để cầm cố ngoài mảnh sân cạnh nhà. Ngôi nhà và tất cả những gì thuộc về nó lúc đó thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Cát bụi lại trở về với cát bụi.
Fluffy được ở lại căn nhà nhờ sự tử tế của Hiệp hội Tiết kiệm và cho vay của bang Pennsylvania. Cô ta được trả một khoản phí nhỏ để quản lý điền trang này. Về phần cha mẹ Fluffy, có khi họ đã qua đời hoặc tìm được công việc khác. Dù sao đi nữa cô đã sống một mình phía trên ga ra, kiểm tra ngôi nhà hằng ngày để đảm bảo mái nhà không bị dột, đường ống không bị vỡ. Fluffy tạo con đường thẳng từ ga ra đến cửa trước bằng máy cắt cỏ cầm tay, phần còn lại của bãi cỏ thì cứ để um tùm. Cô hái quả trên những cái cây còn sót lại sau nhà, làm bơ táo và đào đóng hộp cho mùa đông. Vào thời điểm năm 1946, khi cha chúng tôi mua lại nơi này, những con gấu mèo đã xâm chiếm phòng khiêu vũ và gặm nát hệ thông dây điện. Fluffy chỉ vào nhà khi mặt trời lên đến đỉnh đầu, khi đó lũ ăn đêm nằm chất đống lên nhau mà ngủ. Kỳ diệu làm sao khi chúng không thiêu rụi nơi này. Cuối cùng, những con gấu mèo cũng bị bắt và được xử lý nhưng chúng để lại bọ chét khắp nơi. Maeve kể lại ký ức đầu tiên của chị ở ngôi nhà này là những vết trầy xước và cách Fluffy xử lý những vết xước bằng tăm bông với kem Calamine[4]. Cũng vì thế cha mẹ đã quyết định thuê Fluffy làm bảo mẫu chăm sóc chị tôi.
✽ ✽ ✽
Lần đầu tiên tôi và Maeve đỗ xe trên đường VanHoebeek (đọc là Van Who-Bake, chứ không phải là Van Ho-Bik như cách phát âm sai của những người ở Elkins Park) là lần đầu tiên tôi từ Choate về nhà để nghỉ xuân. Mùa xuân năm đó như một trò đùa của tạo hóa để che giấu một mùa đông khắc nghiệt vì gọi là xuân mà lớp tuyết trên mặt đường vẫn dày cả foot[5]. Mùa xuân thực sự, mùa xuân mà tôi biết khi học học kỳ đầu tiên ở trường nội trú là mùa những cậu trai được cha mẹ đưa đi chèo thuyền ở Bermuda.
“Chị đang làm gì vậy?” Tôi hỏi khi Maeve dừng lại trước ngôi nhà của nhà Buchsbaum, đối diện Ngôi nhà của Người Hà Lan.
“Chị muốn xem vài thứ.” Maeve nghiêng người, nghịch chiếc bật lửa.
“Có gì đâu mà xem,” tôi nói. “Rời khỏi đây thôi.” Tôi đang thấy khó chịu vì thời tiết và sự bất công giữa những gì tôi có và những cái tôi xứng đáng được hưởng, nhưng tôi vẫn vui khi được trở lại Elkins Park, vui vì được ngồi trong xe của chị tôi, chiếc Oldsmobile mui trần màu xanh lam cha tặng chị khi chị có căn hộ riêng. Bởi vì tôi mới mười lăm tuổi và ngốc nghếch nên không hiểu được rằng tôi cảm thấy thoải mái vì được ở bên chị gái chứ không phải vì quay lại chốn này trên con xe ấy.
“Em đang vội đi đâu sao?” Chị lắc điếu thuốc ra khỏi gói rồi đặt tay lên chiếc bật lửa. Nếu không để điếu thuốc đúng vị trí, tàn thuốc sẽ làm thủng một lỗ trên ghế, hoặc trên thảm, hoặc chân tùy vào vị trí mà nó rơi xuống.
“Chị có qua đây khi em ở trường không?”
Bụp. Chị bắt đúng ngọn lửa rồi châm thuốc. “Không.”
“Nhung giờ chị lại đưa chúng ta đến đây,” tôi nói. Tuyết bay bay như những tia sáng cuối ngày lách qua các đám mây. Maeve đích thực là một tài xế người Iceland, không thời tiết nào có thể ngăn cản chị, nhưng tôi vừa xuống tàu, mệt và lạnh. Tôi thầm nghĩ rằng sẽ tuyệt biết bao nếu giờ được lấp đầy chiếc bụng đói bằng vài lát bánh mì kẹp thịt nướng phô mai và được sưởi ấm cơ thể đang tê tái vì lạnh trong bồn nước ấm. Tắm bồn là một chủ đề thường xuyên bị đem ra giễu cọt ở Choate, tôi cũng không hiểu vì sao. Chỉ biết ở Choate, chỉ có tắm vòi mới được coi là nam tính.
Maeve hít đầy buồng phổi, nhả khói rồi tắt máy. “Cũng có vài lần chị tính tới đây nhưng rồi chị quyết định đợi em đi cùng.” Sau đó, chị mỉm cười với tôi, xoay chỉnh cửa số kéo xuống một khoảng vừa đủ để luồng khí lạnh cóng ùa vào. Tôi nài nỉ chị bỏ thuốc trước khi tôi đi học nhưng lại không nói với chị rằng tôi cũng tập tọe hút. Ở Choate, chúng tôi hút thuốc thay vì tắm bồn.
Tôi rướn người sang để nhìn qua cửa sổ bên ghế lái. “Chị thấy họ không?”
Maeve nhìn ra cửa sổ bên hông ghế lái. “Chị không biết sao nhưng chị chỉ luôn nghĩ đến cái ngày xưa xửa xừa xưa, cái ngày đầu tiên mà dì ta đến thăm nhà. Em nhớ chứ?”
Tất nhiên là tôi nhớ. Ai có thể quên được cái ngày mà Andrea xuất hiện cơ chú?
“Rồi dì ta nói dì ta lo lắng thế nào khi mọi người có thể nhòm ngó chúng ta vào ban đêm?”
Lời nói vừa thốt ra khỏi miệng Maeve thì tiền sảnh ngôi nhà đã ngập trong ánh đèn vàng ấm áp. Sau vài phút, lần lượt đèn phía trên cầu thang rồi đến đèn trong phòng ngủ chính trên tầng hai cũng bừng sáng lên theo. Ánh đèn rực rỡ từ Ngôi nhà của Người Hà Lan như được hẹn giờ chính xác với lời nói của Maeve khiến trái tim tôi như ngừng đập. Tất nhiên, Maeve đã đến đây mà không có tôi. Chị biết rằng Andrea sẽ bật đèn ngay khi mặt trời lặn. Việc Maeve nói mình chưa từng đến đây chỉ tăng thêm phần kịch tính cho màn biểu diễn của chị. Nhận ra, tôi cứ tấm tắc mãi. Hiệu ứng của màn biểu diễn khiến nó trở nên ngoại mục.
“Nhìn kìa,” tôi thì thầm.
Khi những hàng cây đoạn lá bạc quanh nhà đã trơ trụi lá, tuyết rơi cũng không quá dày, chắc chắn ta có thể nhìn vào bên trong ngôi nhà, tất nhiên là không thể thấy mọi ngóc ngách nhưng những kỷ niệm ùa về giúp lấp đầy những khoảng trống: Kia là chiếc bàn tròn bên dưới chiếc đèn chùm, nơi Sandy đặt thư của cha mỗi buổi chiều. Sau nó là chiếc đồng hồ quả lắc của ông nội mà tôi từng phải lên dây mỗi Chủ nhật sau Thánh lễ để con tàu bên dưới số sáu có thể tiếp tục lắc lư, chồng chành nhẹ nhàng giữa làn sóng được sơn màu xanh lam. Tôi chẳng thể nhìn thấy con tàu nhưng tôi vẫn có thể mường tượng được nó rất rõ ràng. Chiếc bàn hình bán nguyệt kê sát tường, lọ hoa màu xanh coban vẽ hình cô gái nhỏ và chú chó, hai chiếc ghế kiểu Pháp chưa từng được đụng đến, chiếc gương khổng lồ với phần khung luôn khiến tôi liên tưởng đến những xúc tu vặn vẹo của một con bạch tuộc vàng. Andrea băng qua hành lang đúng như đã định. Chúng tôi đứng quá xa để có thể thấy được khuôn mặt của dì ta nhưng từ cách bước đi, tôi biết chắc đó là Andrea. Norma lao hết tốc lực xuống cầu thang rồi dừng phắt lại vì mẹ con bé sẽ bảo nó không được chạy. Norma trông lớn hơn trước, mà đó cũng có thể là Bright.
“Hẳn dì ta đã quan sát chúng ta,” Maeve nói, “trước khi đến nhà chúng ta lần đầu.”
“Hoặc có thể mọi người, tất cả những ai từng lái xe qua con đường này vào mùa đông, đều quan sát gia đình ta.” Tôi thò tay vào túi xách của chị lấy điếu thuốc.
“Phóng đại quá ông tướng ạ,” Maeve nói. “Tất cả mọi người cơ đấy.”
“Choate dạy em điều đó.”
Chị cười lớn. Tôi không nghĩ tôi khiến chị cười và điều đấy làm tôi rất vui.
“Trọn năm ngày ở nhà với em,” chị nói, phả làn khói ra ngoài cửa sổ, “là năm ngày tuyệt nhất trong năm.”
Chú thích:
[1] Ở đây VanHoebeek là họ, không phải tên (các chú thích trong cuốn sách là của dịch giả).
[2] Trong thành ngữ “Cao như cái sào”. Nguyên văn là “Head-up shoulders-back”.
[3] Khoảng hơn 8000 m2.
[4] Một loại kem dưỡng da làm dịu da, giảm ngứa, đau, rát.
[5] 1 foot = 30,48 cm.