← Quay lại trang sách

Chương 2

Sau lần đầu tiên xuất hiện tại Ngôi nhà của Người Hà Lan, Andrea nán lại gia đình tôi dai dẳng như một căn bệnh. Ngay khi chúng tôi chắc rằng đấy là lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy dì ta, sau những tháng ngày tên dì ta không được nhắc đến, Andrea lại xuất hiện trong phòng ăn, lúc đầu có vẻ áy náy về sự vắng mặt của mình nhưng rồi dần dà lại sôi nổi như chưa có gì xảy ra. Andrea, khi đã hoàn toàn phấn khích, không nói chuyện gì khác ngoại trừ về ngôi nhà. Dì ta cứ nói mãi về một số chi tiết trang trí trên phào chỉ trần nhà hoặc suy đoán về độ cao chính xác của trần nhà như thể điều đó hoàn toàn mới mẻ với chúng tôi. “Chi tiết đó trong kiến trúc họ gọi là trứng và phi tiêu,” dì ta vừa nói với tôi vừa chỉ lên trần. Chỉ khi đến độ không thể chịu được nữa, dì ta sẽ biến mất, để lại sự nhẹ nhõm cho tôi và Maeve (và tôi nghĩ là cả cha chúng tôi) bằng sự im lặng huy hoàng.

Vào Chủ nhật nọ, chúng tôi về nhà sau buổi Thánh lễ thì thấy dì ta đang ngồi trên một trong những chiếc ghế sắt cạnh hồ bơi. Maeve thấy dì ta trước tiên. Chị đang rảo bước trong thư viện thì tình cờ nhìn thấy Andrea qua cửa sổ. Chị không gọi cha (cách mà tôi sẽ làm trong tình huống này) mà vòng ra cửa sau khu bếp đi ra ngoài.

“Cô Smith đó ạ?” Maeve nói, lấy tay che mắt. Chúng tôi gọi dì ta là cô Smith cho đến lúc họ kết hôn và dì ta cũng chưa bao giờ muốn được gọi khác. Sau khi kết hôn, tôi chắc rằng dì ta cũng muốn được chúng tôi gọi là dì Conroy nhưng điều đó chỉ làm mọi chuyện thêm khó xử vì tôi và Maeve cũng đều mang họ Conroy.

Maeve kể lại với tôi là Andrea đã giật bắn cả mình và, ai biết được, có khi dì ta đang ngủ. “Cha cháu đâu?”

“Trong nhà ấy ạ,” Maeve lo lắng đáp. “Cha cháu đang đợi cô ạ?”

“Cô đợi cha cháu cả tiếng rồi,” Andrea sửa lại.

Vì hôm đó là Chủ nhật nên Sandy và Jocelyn đều được nghỉ. Tôi không nghĩ là họ sẽ cho dì ta vào nếu chúng tôi không có ở nhà, tôi cũng không chắc nữa. Sandy là người ấm áp hơn, còn Jocelyn thì đa nghi hơn. Họ không thích Andrea và có thể họ sẽ bắt dì ta đợi bên ngoài cho đến khi chúng tôi về nhà. Hôm đấy, trời chỉ se lạnh, thời tiết đẹp để nằm trải dài bên hồ bơi, ngắm ánh nắng lấp lánh trên mặt nước xanh, nhìn những đường rêu mềm mại phủ trên những phiến đá. Maeve nói với dì ta rằng chúng tôi vừa đi lễ nhà thờ.

Rồi họ nhìn nhau chằm chằm, không ai chịu nhìn đi chỗ khác. “Cô mang trong mình một nửa dòng máu Hà Lan,” cuối cùng Andrea lên tiếng.

“Xin lỗi, gì cơ ạ?”

“Đằng mẹ. Mẹ cô là người Hà Lan.”

“Nhà cháu là người Ireland,” Maeve nói.

Andrea gật đầu như thể cuộc tranh luận đã đi đến hồi kết và phần thắng nghiêng về phía dì ta. Khi chắc chắn là cuộc nói chuyện đã kết thúc, Maeve vào trong nhà để báo với cha là cô Smith đang đợi bên hồ bơi.

“Dì ta đỗ xe ở chỗ quỷ quái nào vậy?” Maeve bực tức nói với tôi sau khi cha đi ra ngoài. Hồi đó, chị hầu như không bao giờ nói tục, nhất là sau buổi Thánh lễ. “Dì ta luôn đậu xe trước cửa nhà cơ mà.”

Vì lẽ đó chúng tôi đi tìm chiếc xe, đầu tiên là nhìn về hướng phía xa ngôi nhà, sau đó quay lại nhà để xe. Không nhìn thấy bất kỳ dấu hiệu khả quan nào, chúng tôi bước xuống lối lái xe vào nhà rồi ra đường, đá dăm lạo xạo dưới đôi giày mà hai chị em dành riêng cho Chủ nhật. Chúng tôi không rõ Andrea sống ở đâu nhưng khá chắc dì ta không phải hàng xóm của chúng tôi, cũng có nghĩa là dì ta không thể đi bộ sang được. Cuối cùng, chúng tôi tìm thấy chiếc Impala màu kem của dì ta đậu cách đó một dãy nhà, bị lõm góc trước bên trái. Maeve cúi xuống kiểm tra phần hư hại, còn tôi thì chạm cả vào tấm chắn bùn đang lủng lẳng, kinh ngạc vì chiếc đèn pha đã rơi hẳn ra. Rõ ràng Andrea đã đâm phải một thứ gì đó và dì ta không muốn chúng tôi biết điều này.

Chúng tôi không kể gì cho cha về chuyện chiếc xe. Rốt cuộc thì cha chẳng nói với chúng tôi bất cứ điều gì. Ông chẳng bao giờ nói về Andrea, khi nào dì ta về hay khi nào dì ta lại tới. Ông chẳng nói cho chúng tôi liệu ông có muốn dì ta trở thành một phần trong cuộc sống của chúng tôi hay không. Khi dì ta xuất hiện, ông luôn hành động như thể dì ta vẫn luôn hiện diện trong căn nhà và khi dì ta đi, chúng tôi không bao giờ nhắc đến cái tên Andrea trước mặt ông vì sợ ông sẽ gọi dì ta đến. Trong thâm tâm, tôi không nghĩ là cha đặc biệt quan tâm Andrea. Tôi chỉ không nghĩ rằng ông có đủ khả năng và cách thức để đối phó với sự dai dẳng của dì ta. Theo tôi thấy, chiến lược của ông chỉ là phớt lờ dì ta cho đến khi dì ta bỏ đi. “Điều đấy sẽ chẳng bao giờ hiệu quả,” Maeve nhận xét.

Điều duy nhất mà cha thực sự quan tâm trong đời là công việc: những tòa nhà mà ông xây dựng, sở hữu và cho thuê. Ông hiếm khi bán bất cứ thứ gì. Thậm chí ông còn tận dụng những gì mình có để mua thêm. Mỗi lần cha có cuộc hẹn với ngân hàng, khi nhân viên ngân hàng đến gặp, ông sẽ để họ đợi. Bà Kennedy, thư ký riêng của ông, sẽ mời nhân viên ngân hàng một cốc cà phê và bảo sẽ không phải đợi lâu nữa đâu dù đôi khi họ sẽ phải đợi rất lâu. Nhân viên ngân hàng sẽ không thể làm gì khác ngoại trừ việc ngồi trong phòng chờ, ôm khư khư chiếc mũ của mình.

Ông dành cho tôi chút ít quan tâm vào cuối tuần dù phần lớn khoảng thời gian đó ông cũng bận bịu công việc. Ông đưa tôi đến Buick vào thứ Bảy đầu tiên hằng tháng để thu tiền thuê nhà, đưa cho tôi cây bút chì và cuốn sổ cái để tôi viết số tiền người thuê nhà đã trả vào cột cạnh cột ghi nợ. Rất nhanh tôi biết được những ai chẳng bao giờ có mặt ở nhà và ai sẽ cầm phong bì đứng sẵn trước cửa vào ngày thu tiền. Tôi biết ai sẽ phàn nàn - có hai nhà vệ sinh nhưng một cái không dùng được, một công tắc đèn bị hỏng. Một số người nghĩ ra những vấn đề khác nhau vào mỗi tháng và sẽ nhất quyết không trả tiền thuê nhà cho đến khi vấn đề được giải quyết. Cha tôi, với đôi chân bị tật nguyền sau chiến tranh, khập khiễng đi đến thùng xe, lôi ra những dụng cụ cần thiết để khiến mọi thứ trở nên ổn thỏa. Khi còn là một cậu bé, tôi nghĩ thùng xe tải của cha như một chiếc rương ma thuật - nào kìm, nào kẹp, nào búa rồi tua vít, keo, đinh - tất tần tật mọi thứ. Giờ thì tôi đã hiểu những yêu cầu của mọi người vào sáng thứ Bảy khá dễ nên cha thường tự làm những việc đó. Cha là một người đàn ông giàu có nhưng ông vẫn muốn thể hiện cho mọi người thấy ông hiểu cách mọi thứ vận hành. Hoặc có thể ông chỉ thể hiện cho mình tôi xem vì vốn dĩ ông không cần phải lái xe khắp nơi để thu tiền thuê nhà hay lết đôi chân khẳng khiu lên cái thang để kiểm tra một mảng tường bong tróc. Ông đã thuê người bảo trì lo việc đó. Có thể vì tương lai của tôi mà ông đã xắn tay áo lên, tháo lò ra để kiểm tra bộ phận làm nóng trong lúc tôi đứng đó, há hốc mồm trước những điều mà ông đang làm. Ông bảo tôi phải để ý vào, vì tương lai cơ nghiệp này sẽ thuộc về tôi. Tôi cần phải hiểu cách mọi thứ vận hành.

“Chỉ có người nghèo mới thực sự hiểu ý nghĩa của đồng tiền,” ông nói với tôi khi hai cha con ăn trưa trên xe. “Đó là cuộc chiến mà con phải chiến thắng chính bán thân mình. Một đứa con trai lớn lên trong nhung lụa thì chưa chịu cảnh thiếu thốn, đói khổ bao giờ.” Ông lắc đầu như thể tôi đã đưa ra một sự lựa chọn tồi tệ. “Cha không biết làm sao để vượt qua được thử thách lớn như vậy. Con có thể quan sát cuộc sống của người nghèo nhưng sẽ không giống như con tự trải nghiệm cuộc sống của họ.” Ông đặt lát bánh xuống, uống một hụm cà phê đựng trong bình giữ nhiệt.

“Vâng, thưa cha,” tôi nói, vì chẳng biết nên đáp lại ông như thế nào.

“Lời nói dối kinh khủng nhất trong kinh doanh chính là cần tiền để đẻ ra tiền. Nhớ lấy điều này. Con cần phải thông minh, cần có kế hoạch, cần để ý đến những thứ xung quanh. Đấy mới là cốt lõi. Chúng chẳng tốn lấy một xu.” Cha tôi không phải người giỏi đưa ra lời khuyên và dường như ông đã phải cố hết sức để nói được những lời vừa rồi. Dứt lời, ông lôi khăn tay trong túi ra rồi vắt lên trán. Trong những lúc tâm thái khoan dung, khi nhớ lại khoảnh khắc này tôi thường tự nhủ rằng đấy là lý do mọi thứ diễn ra như nó vốn thế. Cha chỉ cố gắng khiến tôi học hỏi được từ kinh nghiệm của ông.

Cha tôi luôn thoải mái với những người thuê nhà hơn những người làm việc tại văn phòng ông, thậm chí hơn cả những người trong nhà. Mỗi người thuê nhà sẽ bắt đầu bằng một câu chuyện, đôi khi là về việc Phillies không có khả năng đấu với Brooklyn, lần khác là lý do họ không có đủ tiền, và chỉ cần nhìn cách ông đứng, gật đầu với chuyện này hay chuyện kia là tôi có thể biết rằng ông có đang để tâm hay không. Những người thiếu tiền thuê nhà không bao giờ phàn nàn về việc lớp sơn bị hoen ra ngoài nên không mở được cửa sổ. Họ chỉ muốn có cơ hội được trình bày những thứ đã xảy ra với họ trong tháng đó và chắc chắn rằng việc này sẽ không tái diễn nữa. Tôi không bao giờ thấy cha la mắng hay đe dọa những người thuê nhà. Ông chỉ lắng nghe những câu chuyện của họ rồi động viên họ cố gắng. Nhưng sau ba tháng nói chuyện, sẽ có một gia đình khác sống trong căn hộ vào lần kế tiếp khi cha con tôi quay lại. Tôi chưa bao giờ biết chuyện gì xảy ra với những người kém may mắn đó, nhưng điều đó đã xảy ra vào một ngày nào đó không phải ngày thứ Bảy đầu tiên của tháng.

Cha hút thuốc ngày càng nhiều. Tôi ngồi kế ông trên băng ghế rộng của ô tô, xem xét những con số trong sổ cái hoặc nhìn những hàng cây lướt qua ngoài cửa sổ. Khi cha hút thuốc, tôi biết ông đang suy nghĩ và điều đó có nghĩa là nên im lặng. Càng về gần Philadelphia, khu dân cư trông càng tồi tàn. Cho đến cuối ngày, ông sẽ cứu vớt những người thuê nhà nghèo nhất bằng cách cho họ thêm thời gian để có thể giải quyết những gì họ đang mắc phải. Ở những phân khu cuối cùng, tôi chỉ muốn đợi trong xe nghịch radio nhưng tôi thừa biết nếu tôi đề nghị thì ông sẽ nói không. Những người thuê nhà ở Mount Airy và Jenkintown luôn đối tốt với tôi. Họ hay hỏi về trường học, về đội bóng rổ và mời tôi kẹo (mà tôi được dạy là không được nhận). “Trông ngày càng giống cha nhỉ,” họ nói. “Con trai càng lớn càng giống cha thế.” Nhưng ở những khu dân cư nghèo hơn, mọi thứ lại khác. Không phải những người thuê nhà không tốt, chỉ là họ luôn lo lắng về tiền thuê nhà tháng này hay tháng tới ngay cả khi họ đang có tiền trong tay. Họ không chỉ khúm núm trước cha mà họ còn khúm núm trước tôi, điều đấy khiến tôi muốn độn thổ. Những người đàn ông lớn hơn cả tuổi cha tôi gọi tôi là “ngài Conroy” khi tôi chưa tới mười tuổi, như thể họ nhìn thấy sự tương đồng giữa tôi và cha tôi không chỉ về mặt hình thể. Có thể họ đã nhìn thấy cách cha đã làm, rằng một ngày họ sẽ phải trả tiền thuê nhà cho tôi nên chẳng có cớ gì họ lại gọi tôi là Danny cả. Khi cha con tôi leo lên bậc thang của các tòa nhà, tôi bóc các mảng tường bị tróc và bước qua những thanh gỗ ọp ẹp nứt toác. Cánh cửa khép hờ đập vào bản lề và chẳng cái nào là còn kính cả. Hơi nóng ở hành lang cứ phả hầm hập như ở vùng nhiệt đới và dường như chẳng thoát đi đâu được. Điều này khiến tôi nghĩ việc càm ràm về gioăng cao su của vòi nước bị lỏng thật xa xỉ. Mặt khác, tôi lại không nghĩ được rằng đây là một trong những tòa nhà của cha tôi và ông ấy đủ sức mở thùng xe, lôi hộp dụng cụ ra và làm cho cuộc sống của mọi người trong này trở nên tốt đẹp hơn. Ông gõ cửa từng nhà một và khi cánh cửa mở ra, cha con tôi sẽ lắng nghe mọi điều mà những người bên trong căn nhà trình bày như: chồng thất nghiệp, chồng bỏ đi, vợ bỏ đi hay con ốm. Một lần nọ, một người đàn ông trình bày về việc không có tiền thuê nhà vì con bị ốm, ông phải ở nhà trông chừng nó. Chỉ có cậu bé và người đàn ông sống trong căn hộ tối tăm, tôi đoán những người khác đã bỏ đi. Nghe xong câu chuyện, cha bước vào phòng khách và bồng đứa bé đang sốt cao nằm ở đi văng lên. Tôi không biết người chết trông ra sao nhưng lúc đó cánh tay cậu bé thõng xuống, đầu nó gục vào vòng tay của cha tôi. Cảnh tượng đó làm dấy lên lòng kính sợ Chúa trong tôi. Nếu không phải vì tiếng thở rít lên từng hồi của cậu bé, tôi đã nghĩ chúng tôi đã đến quá muộn. Không khí trong phòng đặc quánh mùi ốm đau và cao xoa bóp. Cậu bé chỉ tầm năm, sáu tuổi. Cha tôi bế nó đi xuống cầu thang, đặt nó vào trong chiếc Buick trong khi người cha đi sau nói không có gì phải lo. “Nó có sao đâu,” ông cứ nhắc đi nhắc lại. “Thằng bé sẽ sớm khỏe lại thôi.” Nhưng ông vẫn leo lên ghế sau của chiếc xe và ngồi kế con trai đến bệnh viện. Tôi chưa bao giờ ngồi ghế trước ô tô khi người lớn ngồi ghế sau, thế nên tôi cũng hơi thấp thỏm. Tôi chỉ có thể nghĩ đến những gì mà các sơ sẽ nói khi họ nhìn thấy chúng tôi đi qua. Khi chúng tôi đến bệnh viện, cha tôi đã nói chuyện với người phụ nữ ở quầy trực, sau đó chúng tôi để họ ở lại đó rồi lái xe về nhà trong màn đêm mà không nói thêm lời nào về những chuyện vừa diễn ra.

“Sao cha phải làm vậy?” Maeve đã hỏi tôi câu này vào đêm đó, sau bữa tối, khi chúng tôi ở trong phòng ngủ của chị. Cha không bao giờ bắt Maeve cùng đi thu tiền nhà dù chị hơn tôi bảy tuổi, được giải thưởng toán ở trường hằng năm và giỏi việc sổ sách hơn tôi nhiều. Quả là một điều kỳ quặc. Vào ngày thứ Bảy đầu tiên mỗi tháng, sau khi chúng tôi rời khỏi bàn ăn và cha đến phòng đọc sách với đồ uống cùng tờ báo, Maeve sẽ kéo tôi vào phòng ngủ của chị và đóng cửa lại. Chị muốn nghe kể toàn bộ việc xảy ra hôm đó: những gì xảy ra ở mỗi căn hộ, những người thuê nhà đã nói gì và cha đã đáp lại ra sao. Thậm chí chị còn muốn biết chúng tôi đã mua gì ở Carter’s Market, nơi hai cha con tôi luôn dừng chân để mua sandwich.

“Đứa bé ốm rất nặng, vậy thôi. Nó còn chẳng mở nổi mắt khi cha bế nó vào trong xe.” Đến bệnh viện, cha bắt tôi vào phòng vệ sinh, dùng nước ấm và xà phòng để rửa tay dù tôi chưa chạm vào cậu bé.

Maeve suy ngẫm.

“Sao?” Tôi hỏi.

“Chà, thử nghĩ mà xem. Cha ghét người ốm lắm. Đã bao giờ ông vào phòng em khi em ốm chưa?” Chị duỗi người trên chiếc giường sát chỗ tôi, vỗ vỗ cái gối kê dưới đầu. “Nếu em cho chân lên giường chị thì việc tối thiểu nên làm là cởi ngay đôi giày bẩn thỉu ra nhé.”

Tôi đá văng đôi giày khỏi chân. Đã khi nào cha ngồi bên mép giường, đặt tay lên trán tôi chưa? Đã bao giờ cha mang cho tôi một ly nước gừng, hỏi tôi xem có còn buồn nôn nữa không chưa? Đó là những gì Maeve làm, là những gì Sandy và Jocelyn làm khi Maeve ở trường. “Cha chẳng bao giờ vào phòng em.”

“Nhưng tại sao cha phải làm vậy khi cha cậu bé đang ở đó chứ?”

Tôi hiếm khi trả lời được câu hỏi của Maeve nhưng trong trường hợp này, lý do quá đỗi hiển nhiên. “Vì mẹ cậu bé không có đó.” Nếu trong căn hộ có một người phụ nữ, cha sẽ không nhúng tay vào.

Mẹ là biểu hiện của sự an toàn, điều đó cũng đồng nghĩa với việc tôi an toàn hơn Maeve. Sau khi mẹ tôi rời đi, Maeve đứng ra thay mẹ chăm sóc tôi nhưng chẳng ai làm điều tương tự cho chị. Tất nhiên là có Sandy và Jocelyn chăm sóc chúng tôi. Họ đảm bảo chúng tôi được tắm rửa sạch sẽ, được ăn uống no đủ, được sắp đồ ăn trưa và trả toàn bộ phí học hướng đạo sinh. Tôi biết họ yêu quý chúng tôi nhưng họ sẽ phải về nhà vào cuối ngày. Không có chuyện tôi leo lên giường Sandy hay Jocelyn khi gặp ác mộng vào ban đêm, chưa bao giờ tôi nghĩ đến việc gõ cửa phòng cha. Tôi đến phòng Maeve. Chị là người dạy tôi cách cầm nĩa. Chị tới xem tất cả các trận bóng của tôi và biết tất tần tật bạn bè tôi, kiểm tra bài tập về nhà của tôi, hôn tôi vào mỗi sáng trước khi hai đứa đến trường và một lần nữa vào buổi tối trước khi đi ngủ bất kể tôi có muốn được hôn hay không. Chị thường xuyên nói với tôi rằng tôi tốt bụng, thông minh và nhanh nhẹn, rằng tương lai tôi sẽ trở thành một người đàn ông tuyệt vời như tôi hằng mong đợi. Chị quá giỏi trong việc này, dù chẳng ai làm điều đó cho chị.

“Mẹ từng vào phòng chị,” chị nói, ngạc nhiên khi tôi nhắc đến điều đó. “Nghe này nhóc, chị là một đứa trẻ may mắn. Chị có nhiều năm ở bên mẹ, còn em thì không. Thậm chí chị còn không nghĩ tới chuyện em sẽ nhớ bà ấy đến mức nào.”

Nhưng làm sao mà tôi có thể nhớ được một người mà tôi còn không biết cơ chứ? Lúc đấy tôi mới ba tuổi, và nếu tôi biết chuyện gì đang xảy ra thì tôi cũng chẳng thể nhớ nổi. Sandy là người kể tôi nghe toàn bộ câu chuyện mặc dù một phần trong đó tôi biết được nhờ chị gái mình. Lần đầu mẹ rời đi là khi Maeve mười tuổi. Một buổi sáng, Maeve ra khỏi giường, kéo tấm rèm cửa sổ để xem đêm hôm trước tuyết có rơi không. Ngôi nhà của Người Hà Lan luôn lạnh cóng. Trong phòng ngủ của Maeve có lò sưởi và Sandy luôn để củi khô bọc bằng giấy báo cũ trên vỉ lò ở đầu giường. Tất cả những gì Maeve phải làm là đánh diêm, điều mà chị được phép làm vào sinh nhật thứ tám của mình. (“Mẹ đã tặng chị một hộp diêm vào lần sinh nhật thứ tám,” chị từng kể. “Mẹ kể lại rằng bà ngoại cũng tặng mẹ một hộp diêm khi mẹ lên tám và họ đã dành cả buổi sáng để học cách đánh lửa. Mẹ chỉ chị cách đánh lửa và tối đó mẹ cho chị tự tay thắp nến trên bánh sinh nhật.”) Maeve đốt lò, khoác áo choàng, xỏ dép rồi đến phòng tôi để kiểm tra xem tôi đã thức giấc chưa. Lúc đó tôi mới ba tuổi, vẫn đang ngủ và không can dự trong chuyện này.

Sau đó, chị băng qua hành lang để đến phòng cha mẹ và thấy nó trống không, chăn màn đã được gấp gọn. Maeve về phòng để chuẩn bị đến trường. Đánh răng, rửa mặt xong, chị đang mặc quần áo thì Fluffy bước vào để đánh thức chị.

“Sáng nào cô cũng dậy trước khi tôi đến,” Fluffy nói.

“Cô nên đánh thức cháu sớm hơn,” Maeve đáp.

Fluffy nói với chị rằng chị dậy vậy là quá sớm rồi và không cần phải dậy sớm thêm chút nào nữa.

Việc cha ra khỏi nhà từ sớm thì chẳng có gì lạ. Còn việc mẹ không có mặt ở nhà vào giờ này khá bất thường nhưng không phải không có tiền lệ. Sandy, Jocelyn và Fluffy dường như chẳng thấy gì lạ, và nếu họ không lo lắng thì chẳng có lý gì phải lo lắng cả. Mẹ thường chở Maeve đến trường nhưng vào sáng đó Fluffy chở chị đến trường với bữa trưa được Jocelyn chuẩn bị. Cuối ngày Fluffy lại đến đón chị. Khi Maeve hỏi mẹ đâu thì cô ấy chỉ nhún vai. “Bà ấy đi cùng cha cháu chăng?”

Mẹ tiếp tục vắng mặt vào bữa tối, và cho đến khi cha xuất hiện, Maeve hỏi ông rằng mẹ đi đâu. Ông ôm chị vào lòng và hôn lên cổ chị. Thời đó ông vẫn hay làm vậy. Ông nói với Maeve bà đi Philadelphia để thăm vài người bạn cũ.

“Mà không nói lời nào sao?”

“Mẹ có nói với cha,” cha đáp. “Mẹ dậy từ rất sớm.”

“Con cũng dậy sớm mà.”

“Chà, mẹ dậy trước con và mẹ có nhắn với cha rằng mẹ sẽ gặp con sau một đến hai ngày nữa. Ai cũng cần được nghỉ ngơi mà.”

“Khỏi cái gì ạ?” Maeve hỏi, ý chị là mẹ cần kỳ nghỉ để thoát khỏi cái gì. Khỏi chị? Hay khỏi chúng tôi?

“Khỏi ngôi nhà.” Ông nắm tay chị dẫn vào bàn ăn. “Gánh vác nơi này là một trọng trách lớn.”

Trọng trách lớn đến mức nào khi đã có Jocelyn, Sandy và Fluffy làm hầu hết mọi việc, người làm vườn đến chăm sóc những bãi cỏ, cào lá và xúc tuyết, còn Maeve làm mọi thứ để phụ bà?

Sáng hôm sau, khi Maeve thức giấc, bà vẫn chưa về, Fluffy lại chở Maeve đến trường rồi đón chị. Nhưng đến ngày hôm sau nữa, khi Maeve từ trường về, mẹ đã ngồi trong bếp uống trà với Sandy và Jocelyn. Lúc đó tôi đang chơi tha thẩn trên sàn, lấy hết các nắp chai ra.

“Trông mẹ rất mệt mỏi,” Maeve kể lại. “Nhìn mẹ như thể chẳng được ngủ chút nào kể từ khi rời khỏi nhà.”

Mẹ đặt tách trà xuống rồi kéo Maeve vào lòng. “Gái yêu của mẹ,” mẹ nói và hôn lên trán, lên tóc chị. “Tình yêu đích thực của mẹ.”

Maeve quàng tay qua cổ mẹ, tựa đầu lên bầu ngực ấm nóng rồi hít hà mùi hương của bà trong khi bà âu yếm vuốt tóc chị. “Ai mà có cô con gái như thế này nhỉ?” Bà hỏi Sandy và Jocelyn. “Ai sinh ra cô con gái vừa xinh đẹp vừa thông minh thế này cơ chứ? Sao mẹ lại sinh ra được đứa con ngoan thế này nhỉ?”

Chuyện đó cứ thế lặp lại vài ba lần nữa.

Trong suốt hai tháng sau đó, mẹ cứ biến mất hai đêm, bốn đêm, rồi có lúc bà đi bằn bặt cả tuần. Maeve bắt đầu có thói quen thức dậy giữa đêm, đi đến phòng cha mẹ để chắc chắn rằng mẹ không đi mất. Đôi khi, bà tỉnh giấc, thấy Maeve ở cửa, bà vén chăn và Maeve sẽ vật vờ đi vào giường mà không gây ra bất kỳ tiếng động nào rồi rúc vào cơ thể ấm áp của bà. Chị sẽ chìm vào giấc ngủ không mộng mị trong vòng tay âu yếm của mẹ, nhịp tim và hơi thở đều đặn của bà bao bọc phía sau. Không khoảnh khắc nào trong đời có thể sánh được cảm giác ấy.

“Sao mẹ không nói lời tạm biệt với con trước khi rời đi?” Maeve hỏi nhưng bà chỉ lắc đầu.

“Mẹ không thể làm vậy. Cho mẹ cả triệu năm mẹ cũng không thể tạm biệt cục cưng của mẹ.”

Bà ốm hay sao? Bệnh tình của bà trở nên trầm trọng hơn hay sao?

Maeve gật đầu. “Mẹ cứ héo dần héo mòn. Rồi một tuần trông mẹ gầy hơn, xanh xao hơn, mọi thứ chuyển biến ngày càng xấu. Cả nhà ai cũng lo lắng. Mẹ về nhà và cứ khóc hoài. Mỗi ngày tan học về chị đều leo lên giường mẹ để ngồi với bà. Đôi lúc, em cũng chơi đùa trên giường mẹ. Bất cứ khi nào về đến nhà, cha đều trông như thể muốn giữ rịt lấy mẹ bằng cách đi quanh mẹ, sẵn sàng dang rộng đôi bàn tay. Sandy, Jocelyn và Fluffy đều lo lắng nhưng chẳng ai đả động đến chuyện đó. Khi mẹ rời đi, ai cũng cảm thấy bất an nhưng khi mẹ về, mọi người lại có một mối bất an khác vì ai cũng đều biết rằng, mẹ sẽ lại rời đi.”

Cuối cùng, khi bà lại biến mất, Maeve hỏi cha rằng khi nào bà sẽ quay về. Cha nhìn chị rất lâu. Ông không biết nên nói bao nhiêu phần sự thật cho cô con gái mười tuổi bé nhỏ và rồi ông quyết định kể cho chị sự thật. Ông nói với Maeve là mẹ sẽ không quay lại nữa. Bà đã đi Ấn Độ và sẽ không quay về.

Maeve không biết đâu là phần tồi tệ nhất trong câu chuyện này: rằng mẹ mình sẽ không quay trở lại hay Ấn Độ cách nơi này nửa vòng trái đất nữa. “Không ai đến Ấn Độ cả!”

“Maeve,” cha trấn tĩnh.

“Có khi mẹ chưa đi đâu!” Chị không tin những điều cha vừa nói một chút nào, nhưng câu chuyện nào rồi cũng phải có hồi kết. Cha lắc đầu nhưng không phản ứng lại trước thái độ của chị. Thật kỳ lạ, với tính cách của cha.

Đấy là cái kết cho câu chuyện mẹ tôi đã bỏ lại chúng tôi như thế nào. Đáng lẽ phải có những câu hỏi và lời giải thích. Nếu mẹ ở Ấn Độ, đáng lẽ cha phải đi tìm và đưa mẹ về nhưng chuyện này không xảy ra vì Maeve không còn muốn ra khỏi giường vào buổi sáng. Chị không muốn đến trường. Sandy bê ngũ cốc đến tận giường, ngồi bên mép giường, thuyết phục chị ăn vài miếng nhưng Maeve rất ít khi chịu nghe. Mọi người đều thấy đó là căn bệnh thường gặp của một cô bé thiếu hơi mẹ. Họ cũng từng trải qua những câu chuyện tương tự nên họ cho phép chị được đắm chìm trong nỗi buồn mà không để ý rằng chị vẫn uống nước cam, uống nước trắng và uống cả một ấm trà hoa cúc. Chị mang cốc vào phòng tắm, uống nhiều cốc đầy, cho đến khi chị chúc đầu xuống bồn rửa và uống thẳng từ vòi. Fluffy thường bồng tôi sang phòng Maeve, đặt tôi xuống giường chị để chị kể tôi nghe một câu chuyện trước khi đi ngủ. Chưa đầy một tuần sau khi mẹ bỏ đi, vào một buổi chiều, Maeve không tỉnh dậy. Fluffy lay lay Maeve rồi bế thốc chị lên chạy ra xe.

Khi đó mọi người ở đâu? Cha đâu, Sandy và Jocelyn đâu? Tôi đang ở đâu? Sandy nói lại rằng cô chẳng nhớ rõ nữa. “Đúng là quãng thời gian tồi tệ,” cô nói, lắc đầu chán ngán. Những gì cô biết là Fluffy đã chở Maeve đến bệnh viện và bế chị đến hành lang bệnh viện, ở đó các y tá đang bế những đứa trẻ say ngủ trên tay. Chị phải lưu lại bệnh viện hai tuần. Bác sĩ nói bệnh tình của chị có thể là do chấn thương tinh thần hoặc một loại virus nào đó. Cơ thể có cách chống lại các tác nhân gây nguy hiểm cho bản thân mà nhiều lúc y học cũng chưa lý giải nổi. Trong viện, Maeve hôn mê với hàng đống dây dợ xung quanh để ổn định đường máu và duy trì sự sống. Những gì xảy ra trong tâm trí chị lúc đó mờ ảo như một giấc mơ. Chị tự nhủ rằng mẹ sẽ không được phép đến thăm như một hình phạt cho cả hai vì điều gì đó mẹ làm mà chị không nhớ nổi. Các Dì Phước[1], tất cả bạn bè của mẹ đến thăm chị. Hai cô gái trong lớp Thánh Tâm[2] đến và mang cho chị một tấm thiệp có chữ ký của cả lớp[3] nhưng họ không được phép lưu lại. Cha đến vào buổi tối, thường nói rất ít. Ông sẽ nắm lấy chân Maeve qua tấm chăn trắng và nói với chị rằng chị phải khỏe lại ngay, không ai nằm mãi như thế này cả. Jocelyn, Sandy và Fluffy thay phiên nhau túc trực trong phòng bệnh. Sandy nói: “Một người chăm sóc cô, một người trông em trai cô và một người phục vụ cha cô. Mọi người đều bận cả,” Sandy nói khi muốn khóc, cô sẽ đợi cho đến khi Maeve ngủ say, rồi ra ngoài hành lang khóc.

Sau khi Maeve từ viện về, mọi thứ trở nên tồi tệ hơn. Giả thuyết rằng sự vắng mặt của mẹ khiến chị ốm, vì thế kết luận rằng những câu chuyện về mẹ sẽ giết chết cô gái nhỏ. Ngôi nhà của Người Hà Lan trở nên yên ắng lạ thường. Sandy, Jocelyn và Fluffy dành hết tâm sức cho chị gái tôi, những mũi kim, rồi insulin. Họ khiếp hãi việc mỗi mũi tiêm biến chị thành con người khác. Cha chẳng làm gì để xử lý việc này. Trong những ngày đó, Fluffy ngủ cùng để trông chừng Maeve, để rồi lần nữa bồng chị đến viện lúc nửa đêm. Một lần nữa họ lại giúp chị khỏe lại, một lần nữa họ lại đưa chị về nhà. Maeve sẽ khóc hoài khóc mãi cho đến khi cha vào phòng và bảo chị dừng lại. Tất cả như diễn viên trong phân đoạn tồi tệ nhất của một câu chuyện cổ tích. Trông cha như già đi đến cả trăm tuổi. “Thôi ngay,” khó khăn lắm cha mới có thể nói thành lời. “Con phải thôi ngay đi.”

Cuối cùng, chị cũng vượt qua được.

Chú thích: [1] Nữ tu sĩ dòng Kitô giáo. [2] Là một truyền thống thực hành tôn giáo phổ biền trong Giáo hội Công giáo Roma.

[3] Maeve học ở trường dòng với các nữ tu.