← Quay lại trang sách

Chương 6

Maeve trở về nhà sau khi tốt nghiệp nhưng chẳng có động tĩnh nào về việc quay về nhà sống. Chị rất hiếm khi về nhà kể từ khi bị chuyển lên tầng ba. Chị thuê một căn hộ nhỏ ở Jenkintown, rẻ hơn đáng kể so với Elkins Park và không quá xa nhà thờ mà chúng tôi hay tới. Chị nhận việc ở một công ty mới chuyên vận chuyển rau củ đông lạnh. Kế hoạch của chị là nghỉ ngơi một, hai năm trước khi đi học thạc sĩ Kinh tế hoặc Luật, nhưng tôi biết chị luôn dõi theo tôi suốt mấy năm thời trung học. Điều đó cho tôi một chỗ dựa tinh thần.

Công ty Rau củ đông lạnh Otterson không biết đấy sẽ là một cú hích đối với họ. Sau hai tháng làm việc ở bộ phận kế toán thanh toán, Maeve đã đưa ra một hệ thống hóa đơn mới và một phương pháp mới để theo dõi hàng tồn kho. Chẳng bao lâu, chị kiêm luôn cả bộ phận thuế cho công ty và thuế cá nhân cho ngài Otterson. Công việc đối với chị dễ dàng một cách kỳ lạ và chị nói rằng đấy là điều chị muốn: một kỳ nghỉ. Những người bạn của Maeve ở Barnard cũng có một khoảng thời gian nghỉ ngơi, dành một năm ở Paris hoặc kết hôn hay thực tập không lương tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại trong lúc cha họ đang tính mua cho họ một căn hộ tại Manhattan. Maeve luôn có định nghĩa của riêng mình về việc nghỉ ngơi.

Trong những ngày đó, dường như hòa bình được lập lại. Tôi chơi cho đội bóng rổ của trường từ năm thứ hai, nói đúng hơn là tôi ở vị trí dự bị trong đội bóng của trường, nhưng tôi rất hài lòng với việc đó - đặt nền móng cho vị trí của mình trong tương lai. Tôi có rất nhiều bạn, đồng nghĩa với việc tôi có thể đến rất nhiều nơi sau giờ học, trong đó có cả căn hộ của Maeve. Tôi không trốn tránh việc về nhà nhưng như những cậu bé mười lăm tuổi khác, tôi có rất ít lý do để về nhà. Andrea và lũ trẻ dường như chỉ tồn tại song song trong vũ trụ riêng của họ, đi học lớp múa ba lê và đi mua sắm. Quỹ đạo của họ quá cách xa tôi đến nỗi hầu như tôi chẳng nghĩ về họ. Đôi khi, tôi thấy tiếng Norma và Bright ở trong phòng Maeve khi tôi đang học. Hai đứa cười đùa, tranh giành lược chải tóc hoặc chạy qua chạy lại đuổi bắt nhau trên cầu thang, nhưng đối với tôi đó chỉ là những âm thanh thoáng qua. Chúng chẳng có bạn tới chơi, như tôi và Maeve chẳng bao giờ có bạn ghé qua nhà, hoặc chúng không có bạn. Tôi nghĩ về chúng như một khối duy nhất: Norma và Bright, giống như một công ty hai thành viên. Khi cảm thấy mệt mỏi vì phải nghe thấy tiếng chúng, tôi bật đài và đóng cửa phòng.

Thêm vào đó, cha không hay có mặt tại nhà, việc vắng mặt của tôi vì thế càng khiến những người còn lại trong ngôi nhà thoải mái hơn. Ông nói rằng bất động sản ở ngoại ô đang bùng nổ nên ông có dự định mở rộng gấp đôi việc kinh doanh, điều đó hoàn toàn đúng nhưng một điều cũng có vẻ khá rõ ràng, đó là ông đã cưới lầm người. Nếu chúng tôi đều chọn một góc cho riêng mình thì mọi chuyện dễ dàng hơn rất nhiều. Không chỉ dễ dàng hơn mà còn hạnh phúc hơn, ngôi nhà đã cho chúng tôi nhiều không gian riêng để khỏi chạm mặt nhau. Sandy phục vụ bữa tối sớm cho Andrea và lũ trẻ trong phòng ăn, còn Jocelyn luôn phần cho tôi một đĩa. Trở về nhà sau buổi tập bóng rổ, tôi sẽ ăn hết, kể cả khi tôi đã ăn pizza với bạn. Đôi khi, tôi đạp xe trong đêm tối để mang bánh mì đến văn phòng cho cha và ăn luôn ở đó cùng ông. Ông sẽ tháo những cuộn bản vẽ kiến trúc khổng lồ và cho tôi xem những gì có thể xảy ra trong tương lai. Mọi tòa nhà thương mại từ Jenkintown đến Glenside đều mang tên CONROY trên tấm biển lớn bằng gỗ trước công trường. Ba ngày thứ Bảy mỗi tháng, ông sẽ cử tôi đến bất cứ nơi nào cần - cầm gỗ và búa đóng đinh hay quét dọn những căn phòng mới xây. Đổ móng rồi đến làm khung. Tôi học cách đi trên rầm như những công nhân ở đó nhưng họ - những người lao động bình thường, những người không sống trong những dinh thự ở khu vực Elkins Park - đã kéo tôi xuống. “Cẩn thận kẻo ngã, cậu Danny!” Họ gọi với, nhưng một khi tôi học được cách nhảy từ thanh này qua thanh khác như họ làm, một khi tôi nói về hệ thống dẫn điện và đường ống nước, họ sẽ để tôi yên. Tôi làm phào chỉ trần nhà bằng khuôn. Hơn cả trường học, sân bóng rổ, hay Ngôi nhà của Người Hà Lan, tôi cảm thấy khu đất này như ngôi nhà của mình. Bất cứ khi nào có thể, tôi sẽ qua đó làm sau giờ học, không phải vì tiền - cha tôi trả tôi rất ít - mà vì tôi thích mùi và âm thanh ở nơi này. Tôi thích được đóng góp một phần công sức cho tòa nhà đang dang dở. Vào ngày thứ Bảy đầu tiên của tháng, cha và tôi vẫn đi quanh các khu trọ để thu tiền nhà, nhưng giờ chủ đề mà chúng tôi thảo luận là xếp lịch cho xe bồn chở xi măng làm một dự án trong lúc đợi một dự án khác. Không bao giờ có đủ xe, đủ nhân lực, đủ thời gian để hoàn thành các công việc mà chúng tôi đề ra. Chúng tôi sẽ bàn chuyện dự án này đã triển khai đến đâu, những dự án khác sẽ khởi công như thế nào để kịp tiến độ.

“Ngày con được nhận bằng lái xe chắc sẽ là ngày hạnh phúc nhất đời ta,” cha nói.

“Cha chán cầm lái rồi sao? Cha có thể dạy con mà.”

Ông lắc đầu, tựa khuỷu tay vào cửa sổ đang mở. “Chỉ là ta thấy phí thời gian thôi, cả hai chúng ta đều phải ra ngoài. Khi con đủ mười sáu tuổi, con có thể tự đi thu tiền nhà.”

Mọi việc sẽ xảy ra như vậy, tôi nghĩ, tự ngưỡng mộ sự trưởng thành của chính mình. Tôi thích đi chung với cha vào ngày thứ Bảy đầu tiên của tháng hơn nhưng tôi sẽ không phụ niềm tin của ông. Điều đó có nghĩa là tôi đã trưởng thành.

Nhưng không, hóa ra chẳng có gì cả. Ông mất khi tôi mới mười lăm tuổi.

Thật tiếc khi phải nói rằng tôi đã nghĩ cha tôi sẽ chết lúc tuổi già. Cuối cùng, ông chết năm năm mươi ba tuổi. Khi đó, ông đang leo năm nhịp cầu thang của tòa nhà văn phòng sắp hoàn thiện để kiểm tra tấm bệ cửa sổ và trần tầng trên cùng vì bên nhà thầu báo với ông là bị dột. Ngày mùng Mười tháng Chín, trời nóng hầm hập. Phải một tháng nữa tòa nhà mới được lắp điện, nghĩa là không có thang máy hay điều hòa. Đèn cầu thang chạy bằng máy phát điện khiến cho tòa nhà càng nóng hơn. Ông Brennan, quản lý dự án, cho rằng hôm đó phải gần bốn mươi độ. Cha phàn nàn rằng ông không được khỏe khi họ đi đến tầng hai nhưng không nói thêm gì nữa. Ông không bao giờ đi nhanh do đầu gối cử động không được tốt, nhưng hôm đó, ông đi chậm gấp đôi bình thường. Mồ hôi ông đổ ròng ròng, thấm ướt cả chiếc áo vét. Chỉ còn sáu bậc nữa là đến nơi, nhưng ông ngồi bệt xuống, không nói lời nào, nôn mửa, rồi ngã xuống, đầu đập vào bậc cầu thang bê tông, người đổ nhào theo. Ông Brennan không đỡ kịp nhưng cũng đã dùng hết sức kéo ông để ông khỏi lăn xuống cầu thang rồi băng qua đường, đến một hiệu thuốc, nhờ mấy cô dược sĩ gọi cứu thương, sau đó nhờ bốn công nhân ở công trường khiêng cha xuống cầu thang. Ông Brennan nói chưa nhìn thấy ai trắng bệch đến vậy dù từng ra chiến trận.

Ông Brennan đi cùng xe cứu thương, và khi họ đến bệnh viện, ông gọi cho bà Kennedy, trợ lý của cha. Bà Kennedy gọi cho Maeve. Vài đứa đến lớp toán hình của tôi, đưa giấy báo cho giáo viên; đọc xong giáo viên bảo tôi thu dọn đồ rồi đến phòng hiệu trưởng. Chẳng ai xen giữa buổi toán hình và bảo bạn dọn đồ vì bạn chuẩn bị thi đấu chính cho trận đấu bóng rổ tiếp theo cả. Khi xuống hành lang, tôi chỉ nghĩ đến Maeve. Tôi sợ hãi đến mức không bước nổi. Chị hết insulin hay cơ thể chị không còn đáp ứng insulin nữa. Việc quá nhiều hoặc không đủ insulin đã giết chết chị. Cho đến lúc đó, tôi không nhận ra rằng mình mang nỗi lo đó đến mọi nơi, mọi phút trong cuộc đời. Tôi cao nhất lớp, cũng rất đô do chơi bóng rổ và lao động ở công trường. Văn phòng hiệu trưởng có bức tường kính hướng ra hành lang và khi nhìn thấy Maeve đứng bên bàn làm việc, quay lưng lại phía tôi, mái tóc thắt bím không lẫn vào đâu được đổ xuống lưng chị, tôi đã thét lên, tiếng thét chói tai như thoát ra từ tận sâu thẳm trong tôi. Chị quay lại, tất cả mọi người đều quay lại nhìn tôi nhưng tôi chẳng buồn quan tâm. Tôi đã cầu xin Chúa một điều và Chúa đã ban điều đó cho tôi - chị tôi không chết. Maeve khóc, vòng tay ôm tôi nhưng tôi chẳng hỏi lý do. Nhìn vẻ mặt của tôi, chị nghĩ là tôi biết, nhưng thực ra tôi chẳng biết gì cả, cho đến khi chúng tôi lên xe và chị thông báo rằng chúng tôi sẽ đến bệnh viện vì cha đã qua đời.

Chúng tôi đã mắc một sai lầm khủng khiếp nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn không rõ lỗi do ai. Ông Brennan? Bà Kennedy? Maeve hay tôi? Bà Kennedy đã đến bệnh viện trước chúng tôi và đang đợi ông Brennan đưa chúng tôi đến. Ông Brennan kể cho chúng tôi nghe chuyện diễn ra. Ông ấy nói ông ấy không biết hồi sức tim phổi. Thời đó chẳng mấy ai biết hồi sức tim phổi. Vợ ông - vốn là một y tá - đã nói với ông rằng ông nên học đi nhưng ông không học. Thấy vẻ mặt đau đớn của ông, Maeve ôm chầm lấy ông và để ông dựa vào vai chị mà khóc.

Họ giữ cha trong một căn phòng nhỏ cạnh phòng cấp cứu để chúng tôi không phải đến nhà xác. Ông nằm trên chiếc giường bệnh, cà vạt và áo khoác đã không còn, cúc áo ở cổ được tháo bung ra, chiếc áo màu xanh bê bết máu. Miệng ông mở ra, không khép lại được. Đôi chân trắng bệch thò ra khỏi tấm khăn trải giường. Không biết giày và tất đã biến đâu mất. Lâu lắm rồi tôi mới nhìn thấy bàn chân của cha mình, kể từ ngày tôi và ông cùng nhau đến hồ. Trên trán ông có một vết cắt khủng khiếp, không dính máu, được khâu lại một cách sơ sài. Tôi không chạm vào ông, nhưng Maeve nghiêng đầu rồi hôn tới tấp lên trán ông, chỗ ngay cạnh vết thương. Bím tóc của chị trĩu xuống, vắt ngăng cổ cha. Dường như chị không bận tâm việc miệng ông không khép lại được nhưng tôi sợ phát khiếp lên được. Chị rất dịu dàng với ông khiến tôi nghĩ rằng, khi ông tỉnh lại, tôi sẽ kể cho ông rằng chị yêu ông biết nhường nào. Hoặc tôi sẽ kể lại cho ông khi tôi tỉnh lại. Biết đâu mọi thứ chỉ là một giấc mơ.

Cô y tá để chúng tôi được ở lại với ông khá lâu, sau đó bác sĩ bước vào và cho chúng tôi biết nguyên nhân tử vong. Ông nói rằng cha chết vì cơn đau tim, mọi thứ diễn ra quá nhanh, không ai có thể làm gì khác. “Rất có thể ông ấy đã qua đời trước cả khi ngã xuống. Kể cả khi mọi việc diễn ra ngay tại bệnh viện thì bác sĩ cũng không làm gì được,” bác sĩ an ủi. Hồi đó, tôi chưa biết bác sĩ có thể nói dối để an ủi người nhà bệnh nhân. Không khám nghiệm tử thi thì không thể chắc được chuyện gì đã xảy ra, nhưng chúng tôi vội bám vào lời giải thích đó mà không buồn thắc mắc. Maeve có nhiệm vụ ký giấy báo tử. Xong việc, chị nhận lại áo vét, cà vạt trong một chiếc túi và một chiếc túi khác đựng ví, đồng hồ, nhẫn cưới.

Chúng tôi còn rất trẻ vậy mà cha đã không còn. Cho đến nay, tôi vẫn không nghĩ mình từng xuất hiện trong ngày cha qua đời. Chúng tôi đi vào nhà và thông báo tin buồn cho Sandy và Jocelyn khiến họ òa lên nức nở. Lúc đó tôi mới chợt nhận ra mình phải làm gì. Sandy định vòng tay quàng lấy người tôi nhưng tôi đã né ra. Tôi phải tìm Andrea. Tôi phải đi tìm Andrea vì dì ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy chúng tôi. Tôi vừa nghĩ vậy thì dì ta xuất hiện, bước vào vòng xoáy đau đớn của riêng chúng tôi. Dì ta đã nghe thấy tiếng gào khóc. Jocelyn quàng tay ôm lấy bà chủ của mình, việc trước đó hay mãi mãi về sau này không xảy ra thêm một lần nào nữa. “Ôi, bà Smith ơi!” Cô thốt lên.

Vẻ mặt kinh hoàng của Andrea lúc đó khiến tôi chẳng thể nào quên được. Ngay cả khi quên đi dáng hình của cha nằm trên giường bệnh, tôi vẫn không sao quên được vẻ mặt của dì ta. Dì ta lùi lại một bước.

“Con ta đâu?” Dì ta thì thầm.

Maeve khẽ lắc đầu, chị hiểu điều đó. “Chúng ổn cả,” chị nói, tiếng chị như dính chặt vào vòm họng. “Đó là cha. Chúng ta mất ông rồi.”

Chiếc túi nhựa đựng quần áo trên bàn như bằng chứng chống lại chúng tôi. Về sau, chúng tôi tự thuyết phục mình rằng chắc bà Kennedy đã gọi cho dì ta dù chẳng có lý gì khiến chúng tôi nghĩ vậy. Sự thật là chuyện đã đến nước này nhưng chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ đến Andrea. Sự tàn ác của chúng tôi đã trở thành một câu chuyện: không phải do cha mất mà do chúng tôi đã không báo cho dì ta biết điều đó.

Nếu chúng tôi lo liệu mọi chuyện tốt hơn thì kết quả có khác không? Nếu ông Brennan gọi cho Andrea chứ không phải bà Kennedy (ông ấy chưa bao giờ gặp Andrea dù đã làm việc với bà Kennedy gần hai mươi năm), hay bà Kennedy gọi cho Andrea chứ không phải Maeve (Andrea luôn cư xử thô lỗ với bà Kennedy khi gọi tới công ty cha, dì ta không bao giờ nói câu nào khác ngoài: “Cho tôi gặp chồng tôi.” Bà Kennedy sẽ không bao giờ gọi cho Andrea. Bà đã nhắc đi nhắc lại điều đó với tôi trong đám tang). Nếu Maeve rời Otterson và chạy đến Ngôi nhà của Người Hà Lan để báo với Andrea trước thay vì đến trường đón tôi, hoặc nếu chúng tôi rời trường rồi rẽ qua đón dì ta thì giờ mọi chuyện sẽ như thế nào?

“Sẽ chẳng có gì thay đổi cả,” Maeve luôn nói chắc nịch. “Chúng ta không khiến bà ta trở nên như vậy. Bản chất của bà ta là thế.”

Nhưng tôi không chắc lắm.

Sự tổn thương của Andrea chính là giải thưởng của dì ta, và những gì tôi cảm thấy trong những ngày mịt mờ sau khi cha qua đời là sự xấu hổ về những gì tôi đã làm chứ không phải nỗi đau dành cho người đã khuất. Norma và Bright đều cố tỏ ra đau buồn nhưng chúng còn quá nhỏ. Nỗi buồn không thể kìm chân chúng. Andrea không cho chúng đến trường sau hôm ông mất nhưng đến hôm sau nữa, chúng cầu xin được đi học. Ở nhà quá buồn. Tôi cũng đi học lại vì không muốn ở nhà để phải đối mặt với dì ta. Dì ta mua hai mảnh đất cạnh nhau tại nghĩa trang của người theo đạo Tin Lành và nói rõ rằng sẽ chôn ông ở đó, sau này dì sẽ được chôn ngay cạnh. Ngay lập tức Maeve gọi cho cha Brewer. Andrea và vị linh mục vào trong thư viện, bàn luận đến hai lăm phút, và khi họ trở ra, quyền lợi của cha đã được khôi phục. Andrea đồng ý để cho cha được chôn cất tại nghĩa trang của người Công giáo. Điều đó càng khiến dì ta căm ghét chúng tôi.

“Giờ ông ấy sẽ cô đơn nằm đó,” dì ta nói khi đi ngang qua tôi ở sảnh. Không lời mào đầu. “Theo cách chúng bay muốn. Chà, tốt thôi. Tao sẽ bị nguyền rủa nếu bị chôn vĩnh viễn với đám Công giáo.”

Một ngày sau khi họ kết hôn, Maeve, cha và tôi đến dự Thánh lễ. Andrea ngồi một mình trong phòng ăn, và để cố tỏ ra thân thiện, tôi hỏi mẹ kế xem dì ta cùng lũ trẻ có muốn đi với chúng tôi không.

“Ta không muốn chết gí ở nơi đó đâu,” dì ta nói trong lúc ăn sáng với những quả trứng lòng đào làm tôi nhớ đến việc phải cầm ô.

“Nếu dì ta ghét người Công giáo đến vậy thì cha phải đặt câu hỏi tại sao dì ta lại lấy cha chứ,” Maeve nói khi chúng tôi lên xe.

Cha cười lớn, một nụ cười ấm áp hiếm thấy ở ông. “Dì ấy muốn ngôi nhà của người Công giáo,” ông nói.

Trái với những gì Maeve nghĩ, tôi rất hiếm khi nghĩ về mẹ khi còn nhỏ. Tôi chẳng biết gì về bà, thật khó khi nhớ về một người hoặc một khoảnh khắc mà tôi không nhớ nổi. Gia đình mà bà để lại cho tôi bao gồm một đầu bếp, một quản gia, một chị gái giàu tình cảm và một người cha lạnh lùng - kể ra cũng có lợi cho tôi. Ngay cả khi xem một vài bức ảnh chụp bà được giấu kỹ, một phụ nữ cao gầy, lộ rõ cả xương hàm với mái tóc đen quá giống Maeve, tôi cũng không có cảm giác thiếu vắng điều gì đó. Nhưng trong đám tang cha, tất cả những gì tôi nghĩ đến là mẹ. Tôi khao khát vòng tay an ủi của bà để xoa dịu nỗi đau mà tôi không thể tưởng tượng được này.

Ngôi nhà ngập vòng hoa. Andrea không nghĩ là sẽ nhiều hoa nên đã đặt cả tá. Nếu thông minh hơn một chút, dì ta đã đặt kèm theo thiệp. Andrea chưa bao giờ hiểu vị trí của cha trong cộng đồng; hoa được gửi đến từ khắp mọi nơi, từ những người ở nhà thờ cho đến những công nhân tại công trường, rồi những nhân viên trong văn phòng của ông, nhân viên ngân hàng. Cảnh sát, chủ nhà hàng, giáo viên, những người cha đã dành sự ưu ái thầm lặng nhiều năm qua, cũng gửi hoa viếng. Những bông hoa đến từ người thuê nhà, những người đóng đủ tiền hằng tháng và cả những người được ông giúp trong những lúc khó khăn. Phần lớn trong số đó là những người tôi biết, nhưng cũng có những bông hoa được gửi từ những người đã khá giả hơn trước khi tôi đi cùng cha, những người đã chuyên đi hoặc mua được nhà riêng. Một vài cái tên tôi nhận ra trong sổ cái của cha. Hoa trải dài như một tấm chăn phủ trên bàn, qua những phím đàn, đứng vững trên những giá đỡ. Ngôi nhà như một khu vườn với các vòng hoa đủ màu sắc, kích thước khác nhau. Chẳng còn chỗ nào trống trải để đầu óc ta có dịp nghĩ về chuyện buồn vừa xảy ra. Andrea nhấn mạnh rằng đã chuẩn bị mọi thứ và chuyển đến Thánh đường Nhà nguyện để hoàn tất tang lễ, dì ta lái xe về nhà trong khi tôi vẫn đang đứng cạnh mộ xem những người đàn ông khỏe mạnh hạ huyệt. Khi chúng tôi về nhà, hoa trải dọc từ thềm đi vào trong nhà, cửa ra vào mở toang. Andrea đã đưa việc này vào bản cáo phó: một buổi cảm ơn sau tang lễ tại tư gia mà quên mất rằng những người như dì ta sẽ đến và trố mắt vì ngôi nhà, ngay cả trong lúc tang gia bối rối như thế này. Sandy và Jocelyn đang làm bánh mì kẹp nhỏ trong bếp, chúng được bưng bê khắp nhà bởi những cô giúp việc trong bộ váy đen và tạp dề trắng được thuê theo ngày. Sandy và Jocelyn bị tổn thương vì họ không được phép tham gia buổi lễ hay có mặt ở phòng khách phục vụ buổi cảm ơn. “Chắc ai phải xinh đẹp hơn mình thì mới biết rót rượu,” Sandy lầm bầm. Maeve quay vào bếp với họ, phết kem phô mai lên những lát bánh trắng mềm, khăn lau đĩa buộc quanh thắt lưng chiếc váy màu xanh biển đẹp nhất của chị, trong khi tôi ở bên ngoài để chăm sóc Andrea và lũ trẻ. Tôi thường ít kiên nhẫn với chúng mỗi khi chúng lẽo đẽo theo tôi nhưng giờ tôi để chúng lại gần. Nếu cha không còn ở đó để dạy tôi trở thành người thế nào thì tôi vẫn biết ông kỳ vọng gì ở tôi. Lũ trẻ lướt ngón tay trên những vòng hoa, úp mặt để hít hà mùi thơm. Chúng nói là đang xem mình thích hoa nào vì mẹ chúng cho phép mang một bình hoa lên phòng ngủ, phòng của Maeve.

“Anh thích bông nào?” Norma hỏi. Con bé đang mặc chiếc váy cotton đen được thêu dún phía trước ngực. Con bé mười hai tuổi, còn Bright mới lên mười. “Em cá là mẹ sẽ cho anh một lọ.”

Với tinh thần đó, tôi đã lựa được một bình hoa nhỏ với vài bông hoa màu cam trông là lạ như thể mọc dưới đáy biển. Tôi không biết đó là hoa gì nhưng chúng thu hút bởi màu cam rực rỡ trong ngày tang tóc này.

Nghe thì có vẻ buồn cười khi nhớ lại lúc đó tôi đã lo lắng cho Andrea như thế nào. Dì ta khóc lóc bốn ngày trời. Dì ta khóc suốt đám tang. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi từ khi cha qua đời, dì ta gầy rộc đi, hai mắt sưng mọng. Những người làm việc cùng cha lần lượt tới cầm tay dì ta, khẽ bày tỏ sự kính trọng của họ. Những người hàng xóm chưa từng được mời đến nhà giờ hiện diện khắp nhà. Tôi nhận ra họ và họ hỏi thăm tôi một cách nồng hậu trong lúc cố tiếp nhận cú sốc này. Có một người đàn ông Thụy Điển trầm lặng cúi đầu ngỏ ý chia buồn. Ông khiến tôi nhớ đến chị gái mình. Hóa ra đó là ông Otterson. Khi tôi báo ông đợi giây lát để tôi tìm Maeve thì ông dứt khoát không đồng ý. “Xin cậu đừng làm phiền cô ấy,” ông nói như thể chị đang khóc lóc trên tầng ba thay vì xếp bánh mì vào khay ở trong bếp. Cha Brewer bị giữ rịt ở đại sảnh bởi hai người phụ nữ sắp lễ trong nhà thờ. Khi thấy Maeve lấy trà mời Cha, tôi đã nói với chị rằng ông Otterson đã đến chia buồn. Tôi vừa gặp ông ấy một phút trước mà giờ chẳng thấy ông ấy đâu.

Giữa đám người tới nhà, đi đến đâu tôi cũng được ôm ấp hay vỗ về. Cả ngày hôm đó như một giấc mơ, như họ nói mọi chuyện như một giấc mơ vậy. Cha mẹ đã rời bỏ tôi như thế nào? Tôi đã sống rất tốt khi có một trong hai người nhưng giờ tôi mới nhận ra, nếu chỉ còn một người thì tương lai thật bấp bênh. Maeve sẽ sớm đi học cao học, vậy tôi sẽ sống với Andrea, lũ trẻ, Sandy và Jocelyn sao? Xung quanh tôi chỉ toàn là phụ nữ sao? Điều đó thật khác thường và nhất định không phải điều mà cha mong muốn. Cha và tôi, tôi nghĩ thầm, nhưng không nói với ai. Đó là những từ miêu tả chính xác quãng đời trước đó của tôi, cha và tôi.

Mùi hương hoa nồng nặc bao phủ căn phòng đông đúc. Tôi tự hỏi liệu cha Brewer có ý nán lại bên ngoài để dễ thở hơn không. Từ xa tôi đã thấy huấn luyện viên Martin bước vào hành lang cùng các cầu thủ đội bóng rổ, tất cả mọi người. Họ đã đến dự đám tang nhưng tôi không nghĩ họ sẽ xuất hiện ở buổi cảm ơn. Trước đây, họ chưa bao giờ đến nhà tôi. Tôi lấy một ly rượu trên khay của một người phụ nữ mặc đồng phục hầu gái. Khi cô ấy không quá chú ý đến, tôi vào phòng tắm và nốc cạn.

Ngôi nhà của Người Hà lân là nơi bất khả xâm phạm. Tôi chưa bao giờ có ý nghĩ đó. Khi Maeve kể với tôi rằng mẹ từng rất ghét ngôi nhà, tôi đã không hiểu chị đang nói gì. Những bức tường phòng vệ sinh nữ là những bức phù điêu hình chim én được chạm trổ bằng gỗ óc chó. Những con én nhào lộn trên những cành hoa, phóng lên tới cung trăng. Những tấm phù điêu này đã được chạm khắc ở Ý vào đầu những năm 1920, vận chuyển trong các thùng container để lắp đặt cho phòng vệ sinh nữ ở tầng dưới nhà VanHoebeek. Phải mất bao nhiêu năm trong đời một con người ở một đất nước xa lạ để có thể chạm khắc những bức họa như vậy? Tôi với tay để ngón tay mặc sức tìm chú én nhỏ. Đấy là ý mẹ sao? Tôi cảm thấy ngôi nhà như thể vỏ ốc mà tôi sẽ phải gánh suốt quãng đời còn lại. Tất nhiên, mọi chuyện không diễn ra theo cách như vậy, nhưng vào tang lễ của cha, tôi nghĩ rằng tôi có thể thấy được cảnh tượng tương lai của mình.

Nhắc đến tương lai, những phát súng đầu tiên đã nhanh chóng được khai hỏa. Maeve trở về nhà vào ngày hôm sau để thông báo với Andrea rằng chị sẽ không làm cho công ty của ông Otterson nữa mà về làm việc ở Conroy. Andrea chưa bao giờ quan tâm đến công việc kinh doanh, thậm chí dì ta còn chẳng hiểu hết công việc mà cha làm. Kể cả trong lúc đầu óc sáng suốt nhất dì ta cũng sẽ chẳng điều hành nổi công ty huống hồ là hiện tại.

“Cháu có thể đảm bảo rằng tất cả những dự án đã lên lịch đều sẽ được hoàn thiện,” Maeve quả quyết. “Ngoài ra, cháu có thể lo phần lương và thuế. Tạm thời là vậy, cho đến khi chúng ta đưa ra quyết định sẽ làm gì với công ty.” Tất cả chúng tôi đang ngồi trong phòng khách, Bright gục đầu vào lòng Maeve, để Maeve luồn những ngón tay nhè nhẹ vuốt ve mái tóc vàng của con bé, Norma ngồi trên ghế bành cạnh đó.

“Không,” Andrea đáp.

Lúc đầu, Maeve nghĩ Andrea nghi ngờ khả năng của chị hoặc nghi ngờ liệu đó có phải điều tốt nhất cho công ty hay không, hoặc có Chúa mới biết liệu đó có phải điều tốt nhất cho Maeve hay không. “’Cháu làm được,” chị quả quyết. “Cháu từng làm việc tại văn phòng các đợt hè trước khi vào đại học. Cháu biết về sổ sách. Cháu biết nhân viên làm việc tại đó. Điều này cũng không khác mấy so với công việc hiện tại của cháu ở Otterson.”

Chúng tôi đợi. Ngay cả Bright cũng đợi lời giải thích từ mẹ nhưng không một lời nào được đưa ra.

Cuối cùng, Maeve hỏi: “Dì có kế hoạch nào không?”

Andrea chậm rãi lắc đầu: “Norma, vào bảo Sandy mang cho mẹ một tách cà phê.”

Norma thấp thỏm muốn thoát khỏi cuộc trò chuyện nhàm chán và căng thẳng đã nhanh chóng đứng dậy rồi biến mất.

“Không được chạy đâu!” Andrea nói với theo con bé.

“Cháu không nói về việc tiếp quản,” Maeve nói như thể dì ta lo việc đó quá sức chị. “Chỉ là tạm thời thôi.”

“Chắc mẹ cháu sẽ bắt cháu cắt phéng mái tóc đó đi,” Andrea mở miệng.

“Gì cơ ạ?”

“Ta đã nói điều đó với cha cháu cả trăm lần: bắt con bé cắt tóc đi. Nhưng ông ấy không làm. Ông ấy chẳng buồn quan tâm. Ta luôn muốn nói với cháu, để tốt cho cháu thôi - cái thứ trên đầu cháu thật kinh khủng - nhưng ông ấy không cho phép ta. Ông ấy luôn nói rằng đấy là tóc của cháu.”

Bright chớp chớp mắt nhìn chị.

Lời nhận xét kỳ lạ đến mức không ai biết mình nên cảm thấy thế nào. Buồn ư? Hay ngạc nhiên? Sao Andrea có thể quan tâm đến mái tóc của Maeve đến mức ấy chứ! Hoa viếng ở khắp nơi. Tôi không ngừng nghĩ về việc sẽ thảm khốc như thế nào khi tất cả họ đều đã chết. Tôi tự hỏi cuộc chuyện trò của chúng tôi có nên bắt đầu bằng một thứ gì đó nhỏ hơn không - một lời đề nghị về việc đổ những lọ hoa đã héo, hay viết những tấm thiệp cảm ơn. “Cháu có thể đi thu tiền thuê nhà vào thứ Bảy,” tôi nói, hy vọng có thể đổi chủ đề. “Maeve có thể lái xe đưa cháu đi. Cháu biết đường.”

“Không cần thiết.”

Điều này chẳng có lý gì cả. “Cháu luôn là người đi thu tiền nhà.”

“Cha cháu là người đi thu tiền nhà,” Andrea đáp trả. “Cháu chỉ đi cùng.”

Sự im lặng bao trùm căn phòng mà không ai trong số chúng tôi biết cách thoát ra. Tôi cảm thấy ánh mắt của ông bà VanHoebeek đang chiếu thẳng vào tâm trí. Tôi luôn thấy vậy.

“Chúng cháu đang cố để trở nên có ích,” Maeve lên tiếng.

“Ta biết,” Andrea nói, nghiêng đầu sang một bên và cười với cô con gái nhỏ đang nằm trong lòng chị tôi. “Con cũng biết chị có ý vậy mà.” Rồi dì ta lại ngước nhìn chúng tôi. “Không hiểu sao mang một tách cà phê lên đây thôi mà cũng lâu đến vậy. Các cháu biết là họ có một bình đựng cà phê ở trong bếp mà. Chắc họ lại tưởng đó là cà phê của họ.” Andrea gõ tay lên đùi, thái độ thiếu kiên nhẫn, rồi đứng dậy. “Có vẻ như ta sẽ phải tự đi lấy thôi. Các cháu biết người ta có câu gì mà: ‘Tự làm nếu muốn mọi việc theo ý bạn.’”

Dì ta rời khỏi phòng. Chúng tôi đợi một lúc khá lâu, Bright, Maeve và tôi. Sau đó chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân lên lầu. Dì ta đã bước lên lầu với tách cà phê. Cuộc trò chuyện đã chấm dứt.

Trong hai tuần ngắn ngủi sau khi cha qua đời, tôi đau buồn trước sự mất mát quá lớn cũng như thất vọng vì mọi dự định trong tương lai đều bị hoãn lại. Nếu được lựa chọn, tôi đã bỏ học năm mười lăm tuổi và điều hành công việc kinh doanh của Conroy cùng Maeve. Công việc kinh doanh là tất cả những gì tôi muốn, những gì tôi mong đợi và những gì cha đã lên kế hoạch cho tôi. Nếu nó đến trước khi tôi sẵn sàng thì cũng đồng nghĩa với việc tôi phải học cách sẵn sàng nhanh hơn. Tôi không tin rằng mình biết làm mọi thứ, nhưng tôi biết những người có thể giúp đỡ tôi. Những người đó rất quý tôi. Họ đã dõi theo tôi suốt nhiều năm.

Vấn đề còn lại là về cuộc hôn nhân bất hạnh của cha làm tôi không thoải mái trong chính ngôi nhà của mình. Andrea tránh mặt tôi trong khi lũ trẻ lại muốn làm thân. Hầu như đêm nào Norma hoặc Bright cũng vào phòng tôi để đánh thức tôi vì những giấc mơ của chúng. Hoặc chúng chẳng đánh thức tôi thì lúc thức dậy, tôi cũng thấy một trong hai đứa ngủ trên ghế dài trong phòng mình. Tôi đoán là cái chết của cha tôi cũng khiến chúng có cảm giác mất mát, dù hầu như ông chẳng nói gì với chúng cả.

Một chiều, tan học về nhà, tôi chào Sandy và Jocelyn rồi tự làm chiếc bánh mì kẹp thịt nguội trong bếp. Hai mươi phút sau, Maeve xông xộc tiến vào từ cửa sau. Có vẻ như chị đã chạy suốt quãng đường từ Otterson về nhà, mặt đỏ phừng phừng. Tôi đang đọc một quyển sách, chẳng thể nhớ nổi tên.

“Sao vậy? Sao chị không đi làm?” Thường thì chị tan làm lúc sáu giờ.

“Em không sao chứ?”

Tôi nhìn xuống áo xem có vết máu nào không. “Sao em lại không ổn chứ?”

“Andrea gọi bảo chị qua đón em. Bà ta bảo phải qua ngay.”

“Đón em làm gì ạ?”

Chị lấy tay áo thấm mồ hôi trên trán, sau đó đặt chìa khóa lên túi xách. Tôi không biết Sandy và Jocelyn đã đi đâu, lúc đó chỉ có mình tôi và chị trong bếp.

“Bà ta làm chị sợ chết khiếp lên được. Chị cứ tưởng...”

“Em không sao mà.”

“Để chị hỏi xem sao,” chị nói. Tôi đứng dậy đi theo chị, xem lý do vì đâu mà tôi lại được đón đi.

Chúng tôi bước đến tiền sảnh rồi nhìn quanh. Tôi không nhìn thấy bọn trẻ từ lúc về nhà nhưng điều đấy cũng chẳng có gì bất thường. Chúng luôn bận luyện tập thứ này, thứ khác. Maeve gọi Andrea.

“Ta đang trong phòng khách,” dì ta lên tiếng. “Cháu không cần hét lên.”

Dì ta đang đứng trước lò sưởi, dưới bức tranh khổng lồ vẽ ông bà VanHoebeek, ngay nơi chúng tôi gặp dì ta lần đầu nhiều năm trước.

“Cháu vừa từ chỗ làm về,” Maeve nói.

“Cháu cần đưa Danny đi ngay.” Andrea nhìn chị chằm chằm.

“Đưa em ấy đi đâu?”

“Đến nhà cháu, hoặc đến nhà bạn nó.” Dì ta hất đầu.

“Tùy cháu.”

“Có chuyện gì vậy?” Maeve là người hỏi điều mà cả hai chúng tôi cùng đang nghĩ.

“Có chuyện gì vậy sao?” Andrea lặp lại. “Chà, để coi, cha các cháu đã chết. Chúng ta có thể bắt đầu từ đó.” Trông Andrea thật xinh đẹp. Tóc búi gọn. Dì ta mặc chiếc vày xòe kẻ sọc màu đỏ trăng mà tôi không nhớ rõ lắm, màu son đỏ rực rỡ. Tôi tự hỏi không biết có phải dì ta đang chuẩn bị đi dự tiệc không, một bữa tiệc trưa. Tôi không nhận ra dì ta mặc đẹp để đón tiếp chúng tôi.

“Dì Andrea?” Maeve nói.

“Nó không phải con ta,” dì ta nói, giọng vỡ òa. “Cháu không thể mong chờ ta nuôi dạy nó được. Đấy không phải trách nhiệm của ta. Cha cháu chưa bao giờ bảo ta phải nuôi dạy con trai ông ấy.”

“Không ai bắt dì...” Tôi mở miệng, nhưng dì ta đã giơ tay ngăn lại.

“Đây là nhà ta,” dì tuyên bố. “Ta xứng đáng có được cảm giác an toàn trong ngôi nhà của mình. Cả hai đứa đều đối xử tệ với ta. Cháu chưa bao giờ thích ta. Cháu chưa bao giờ đứng về phía ta. Ta cho là khi cha cháu còn sống, ta có nghĩa vụ phải chấp nhận cháu...”

“Đây là nhà dì ạ?” Maeve hỏi.

“Khi cha cháu mất, đấy chính là lúc cháu thể hiện bản chất của mình. Cả hai đứa. Ông ấy để lại căn nhà cho ta. Ông ấy muốn ta được hạnh phúc ở đây, ta và các con ta. Ta cần cháu đưa em cháu đi... Lên lầu lấy đồ của nó rồi ra khỏi nhà ngay. Nói ra điều này với ta cũng chẳng dễ dàng gì.”

“Sao đây lại là nhà của dì được cơ chứ?” Maeve lại hỏi.

Tôi có thể nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trên mắt dì ta, rằng chúng tôi cao ra sao, trẻ khỏe như thế nào nhờ bóng rổ và những công việc ở công trường. Tôi đã cao hơn Maeve, như những gì chị cam đoan với tôi khi bé. Tôi vẫn đang mặc quần áo của buổi tập, áo phông và quần thể thao.

“Cháu có thể nói chuyện với luật sư,” Andrea thản nhiên đáp. “Nhưng mọi thứ đã được thông qua, từ những điều nhỏ nhất. Ông ấy có tất cả giấy tờ. Cháu có thể nói chuyện với ông ấy bao lâu tùy thích nhưng giờ cháu phải dọn đi ngay.”

“Bọn trẻ đâu rồi?” Maeve hỏi.

“Không phải việc của cháu.” Khuôn mặt dì ta toát lên sự thù hận, cảm giác giúp dì ta thuyết phục bản thân mình rằng mọi điều không hay trong đời dì ta đều là do chúng tôi mà ra.

Thời điểm đó, tôi chưa hiểu điều gì đang diễn ra. Việc đó thật nực cười vì Andrea thể hiện ý định của dì ta rất rõ ràng. Còn Maeve thì hiểu rất rõ, chị đã đứng lên như Thánh Joan lúc đứng trước giàn thiêu. “Chúng sẽ căm ghét bà,” chị nói chắc nịch. “Bà sẽ nghĩ ra một tá lời nói dối để bao biện cho chuyện ở đây ngày hôm nay nhưng những lời lẽ đó sẽ chẳng che giấu được sự thật đâu. Chúng là những đứa trẻ thông minh. Chúng biết chúng tôi sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi chúng. Khi ngẫm lại những lời bà nói, chúng sẽ nhận ra việc bà làm. Không phải từ chúng tôi, nhưng chúng sẽ nghe được về việc đó. Lũ trẻ sẽ căm ghét bà hơn cả chúng tôi nữa cơ. Chúng sẽ còn căm hận bà dù chúng tôi đã quên đi sự hiện diện của bà.”

Tôi đứng đó, vẫn nghĩ rằng mình có thể làm gì đó để giải quyết ổn thỏa mọi chuyện, rằng có thể trong tương lai, tôi và Andrea sẽ tìm được cách nói chuyện với nhau và dì ta sẽ thấy tôi không phải kẻ thù, nhưng Maeve đã đóng cánh cửa đó lại và đóng đinh thật chặt. Chị không viết nên tương lai của Andrea - dì ta tự mình làm điều đó - nhưng những gì Maeve nói, cách mà chị nói như thể đó là một lời nguyền.

Maeve và tôi lên phòng, chất đầy quần áo vào chiếc va li duy nhất của mình, sau đó đi xuống bếp để lấy một ít túi đựng đồ rồi trở lại với Sandy và Jocelyn. Cả hai đang khóc nức nở.

“Thôi nào,” tôi an ủi, “đừng làm vậy. Chúng ta sẽ tìm được cách giải quyết việc này.” Tôi không có ý rằng bằng cách nào đó tôi sẽ giải quyết êm đẹp vấn đề hiện tại, nhưng có thể tôi và Maeve sẽ được công bố là người thừa kế hợp pháp của ngôi nhà, kẻ gian sẽ bị đánh bại. Tôi là Bá tước Monte Cristo. Tôi từng mong mỏi để được trở về nhà.

“Đúng là một cơn ác mộng,” Jocelyn nức nở, lắc đầu. “Người cha tội nghiệp của cô cậu.”

Sandy đang dọn tủ quần áo của tôi vào chiếc túi đựng đồ, từng ngăn một thì Andrea đến và đứng ở ngưỡng cửa để xem chúng tôi mang những gì đi. “Cháu phải đi trước khi lũ trẻ về nhà.”

Jocelyn thoăn thoắt dọn đồ trước mắt dì ta. “Tôi phải làm xong bữa tối đã.”

“Không phải làm bữa tối nữa,” dì ta nói. “Cút hết ra khỏi đây, cả bốn người. Các người luôn kết bè kết phái với nhau. Ta không cần gián điệp ở lại trong ngôi nhà này.”

“Ôi, vì Chúa!” Lần đầu tiên Maeve lên tiếng bất bình. “Bà không thể đuổi họ. Họ đã làm gì bà chứ?”

“Các người cùng một giuộc cả,” Andrea cười như thể dì ta đang nói điều gì vui lắm. Dì ta không có ý định đuổi Sandy và Jocelyn. Đó chỉ là suy nghĩ ngay tức thời, nhưng một khi đã được nói ra thì nó sẽ như một mũi tên bắn ra không thể rút lại. “Không thể tách rời.”

“Dì Andrea,” tôi nói, tiến một bước về phía dì ta, tôi cũng không biết vì sao. Tôi muốn ngăn dì ta lại, bằng cách nào đó, khiến dì ta trở về bản chất của mình. Dì ta không phải người tôi quý nhưng cũng không tệ đến mức này.

Dì ta lùi lại một bước.

“Tôi sẽ cho cô cậu biết những gì chúng tôi đã làm với bà ta,” Jocelyn nói, như thể Andrea không có mặt ở đó. “Chúng tôi biết mẹ cô cậu, như thế đấy. Mẹ cô cậu thuê chúng tôi, đầu tiên là Sandy, rồi đến tôi. Sandy nói với mẹ cô cậu rằng chị có một người em gái cần việc làm và Elna đã nói: ‘Bảo em gái cô mai qua đây.’ Mẹ cô cậu là như thế đấy, bà chào đón tất cả mọi người. Người ta đến đây suốt và bà thường cho họ ăn, rồi còn cho họ một công việc. Bà yêu quý chúng tôi và chúng tôi cũng yêu quý bà, ai cũng biết điều này.” Cô khẽ hất đầu về phía sau để xác nhận với người phụ nữ đứng sau lưng mình.

Andrea tròn mắt ngờ vực: “Người đàn bà đó bỏ rơi những đứa con của mình! Bà ta bỏ chồng, bỏ con. Tôi sẽ không đứng đây và nghe cô nói...”

“Không người phụ nữ nào tốt đẹp hơn mẹ cô cậu.” Jocelyn tiếp tục như thể không có ai ngắt lời. Cô thu áo len của tôi rồi thả chúng vào chiếc túi đã mở sẵn. “Bà có một vẻ đẹp thực sự, vẻ đẹp từ tận tâm hồn. Mọi người gặp bà đều cảm nhận được điều đó và đều yêu mến bà. Bà là người phụng sự, cô cậu hiểu tôi nói gì chứ?” Cô nhìn thẳng vào mắt tôi. “Giống như Chúa nói với chúng ta. Tất cả của cải là của bà nhưng bà chẳng màng lấy một xu. Tất cả những gì bà nghĩ đến là có thể làm gì cho cô cậu, có thể giúp gì mọi người.”

Sandy và Jocelyn chưa bao giờ kể về mẹ. Chưa bao giờ. Họ để dành quả bom đó để phát nổ vào đúng dịp này. Andrea víu vào khung cửa để trấn tĩnh. “Dừng ở đây,” dì ta nói, lặng như tờ. “Ta sẽ xuống dưới tầng.”

Jocelyn nhìn người phụ nữ từng là bà chủ của mình. “Mỗi ngày bà ở trong căn nhà này chúng tôi đều tự hỏi: ‘Không biết ông Conroy nghĩ gì?’”

“Jocelyn!” Sandy cảnh cáo. Nhưng Jocelyn lắc đầu. “Bà ta nghe thấy đấy.”

Andrea khẽ mở miệng nhưng không phát ra lời nào. Dì ta đang mất kiểm soát, mọi người đều thấy điều đó. Dì ta nín chịu để mặc chúng tôi.

Tôi đã nghĩ gì vào ngày hôm đó, vào lúc đó? Không phải là về căn phòng mà tôi đã ở rất nhiều đêm trong cuộc đời. Maeve nói rằng cũi của tôi từng được đặt ở nơi giờ đặt chiếc ghế dài, rằng Fluffy ngủ trong phòng với tôi những ngày đầu để mẹ có thể nghỉ ngơi, dưỡng sức. Tôi không nghĩ đến ánh sáng tràn ngập căn phòng hay lúc cây sồi đổ ập vào cửa sổ phòng tôi lúc trời dông bão. Cây sồi của tôi. Cửa sổ của tôi. Tôi đang nghĩ đến việc biến khỏi cái địa ngục đó và tránh xa Andrea càng sớm càng tốt.

Chúng tôi đi xuống cầu thang rộng lớn, bốn người bốn túi chất lên xe của Maeve. Ngôi nhà thật tráng lệ khi chúng tôi rời đi: ba tầng với những cửa sổ cao chót vót nhìn xuống bãi cỏ trước nhà. Lớp vữa màu vàng nhạt, tựa trắng, như màu của những đám mây lúc xế chiều. Hiên rộng, nơi Andrea mặc đồ màu sâm panh, ném bó hoa cưới qua vai, cũng chính là nơi mọi người xếp hàng để bày tỏ lòng kính trọng với người vợ góa của cha bốn năm sau. Tôi lấy chiếc xe đạp của mình, nhét nó vào cốp xe, trên những chiếc túi, chỉ vì tôi đã để nó trên bãi cỏ khiến mọi người vấp phải. Andrea luôn nói với cha hãy bảo tôi cất chiếc xe đi. Dì ta luôn nói với cha sau khi họ về phòng cùng nhau: “Cyril, anh không thể bảo Danny giữ gìn cẩn thận đồ đạc anh mua cho thằng bé sao?”

Chúng tôi hôn tạm biệt Sandy và Jocelyn, hứa rằng khi mọi chuyện được giải quyết ổn thỏa, chúng tôi sẽ lại về một nhà. Không ai trong số chúng tôi cho rằng việc rời khỏi Ngôi nhà của Người Hà Lan là việc tốt. Khi chúng tôi lên xe, tay Maeve run lên bần bật. Chị lật chiếc túi xách trên ghế trước rồi mở chiếc hộp màu vàng nơi chị cất vài dụng cụ cần thiết. Chị cần kiểm tra đường huyết. “Chúng ta phải rời khỏi đây,” chị nói. Chị bắt đầu vã mồ hôi.

Tôi ra khỏi xe, đi vòng sang phía bên kia. Tất cả những điều quan trọng với tôi đều ở đây: Maeve. Sandy và Jocelyn đã rời đi trên chiếc xe của Sandy. Không có ai quan sát chúng tôi. Tôi bảo Maeve xích sang bên cạnh. Chị đang chuẩn bị một mũi tiêm. Chị không la rằng tôi không biết lái xe. Chị biết ít nhất tôi có thể đưa hai đứa đến Jenkintown.

Việc chúng tôi chọn đồ gì mang đi và để lại đúng là một sự ngu ngốc. Chúng tôi mang đi quần áo, giày dép mà tôi sẽ sớm mặc chật trong vòng sáu tháng và bỏ lại chiếc chăn dưới chân giường mà mẹ đã ghép từ những mảnh vải váy của bà. Chúng tôi mang theo sách vở nhưng bỏ lại khay đựng bơ bằng thủy tinh, thứ duy nhất theo tôi được biết là được mang từ căn hộ ở Brooklyn về cùng mẹ. Tôi đã không mang đi bất kỳ kỷ vật nào của cha, dù sau này tôi nghĩ ra hàng trăm thứ mà tôi ước mình cầm đi: chiếc đồng hồ mà ông luôn đeo cùng với chiếc ví và chiếc nhẫn của ông. Nó đã nằm trong tay tôi suốt quãng đường từ viện về nhà vậy mà tôi đã đưa nó cho Andrea.

Hầu hết đồ đạc của Maeve được sắp xếp và bỏ vào thùng khi căn phòng được chuyển giao cho Norma. Nhiều thùng đồ được mang đến căn hộ của chị sau khi chị học xong đại học, như Andrea từng nói, giờ Maeve đã trưởng thành nên chị sẽ có trách nhiệm tự quản lý tài sản của mình (nguyên văn lời dì ta). Tuy nhiên, chiếc áo khoác lông xịn của Maeve vẫn nằm trong tủ quần áo vì mùa hè trước đó căn phòng của chị bị lũ ngài xâm chiếm, còn một vài thứ khác - cuốn kỷ yếu, vài cuốn tiểu thuyết mà chị đã đọc qua, mấy con búp bê mà chị định để lại cho con gái chị, đứa mà chị sẽ có trong tương lai, tất cả đều được để trên phòng gác mái, sau cánh cửa nhỏ phía sau tủ quần áo ở phòng ngủ tầng ba. Liệu Andrea có biết đến sự tồn tại của nơi đó không? Maeve đã chỉ cho lũ trẻ vào đêm chúng tham quan ngôi nhà, nhưng liệu chúng có nhớ hay có bao giờ nghĩ sẽ ghé qua đó thêm lần nào nữa không? Hay giờ đây chiếc hộp sẽ vĩnh viễn thuộc về ngôi nhà, được ghim vào tường như một vật lưu niệm thời thơ ấu của chị? Maeve tuyên bố rằng chị chẳng quan tâm. Chị đã có các album ảnh. Chị đã mang chúng theo đến trường đại học. Bức ảnh duy nhất còn sót lại là tấm ảnh của cha khi ông còn là một đứa trẻ, ôm chú thỏ trong lòng. Bức ảnh đó được đặt trong phòng của Norma. Về sau, khi chúng tôi bình tâm nghĩ lại mọi chuyện, Maeve điên tiết vì đánh mất chứng chỉ Hướng đạo sinh ngu ngốc được đóng khung treo trên tường của tôi với một vài chiếc cúp giải bóng rổ, cái chăn của mẹ, khay đựng bơ và bức ảnh của cha.

Nhưng điều tôi không thể không nghĩ đến là bức chân dung của Maeve được treo ở phòng khách. Sao chúng tôi có thể quên được chứ? Maeve mười tuổi trong chiếc áo khoác đỏ, đôi mắt sáng và chính trực, mái tóc đen xõa ngang vai. Bức tranh đẹp như những bức họa của nhà VanHoebeek, nhưng là vẽ Maeve, Andrea sẽ làm gì với nó chứ? Giấu nó dưới tầng hầm ẩm mốc? Hay vứt nó đi? Ngay cả khi chị đang đứng trước mặt, tôi vẫn cảm thấy tôi đã vứt bỏ chị ở ngôi nhà đó một mình theo một cách nào đó, nơi mà chị không được an toàn.

Maeve đã cảm thấy khá hơn nhưng tôi bảo chị hãy lên lầu đến căn hộ của chị. Căn hộ chỉ có một phòng ngủ. Chị bảo tôi nghỉ trước trong lúc tôi kéo đồ đạc lên ba chặng cầu thang để dùng nó nhưng tôi từ chối.

“Em sẽ ngủ trên giường vì em quá dài so với chiếc ghế, còn chị thì không. Chị ngủ ở ghế quen rồi,” chị kiên quyết.

Tôi nhìn quanh căn hộ bé tí của chị. Tôi đã ở đây rất nhiều lần nhưng khi biết mình sắp sống ở đây, mọi thứ như thay đổi hẳn. Căn phòng rất nhỏ và sơ sài, đột nhiên tôi thấy tệ cho chị, nghĩ rằng thật sai trái khi chị phải chui rúc ở đây trong khi tôi được sống ở trên đường VanHoebeek, trong một phút giây ngắn ngủi tôi đã quên rằng mình không còn được ở đó nữa. “Sao chị lại phải ngủ trên ghế chứ?”

“Chị xem ti vi và ngủ quên,” chị phân trần rồi ngồi xuống ghế và nhắm mắt lại. Tôi sợ rằng chị sẽ khóc nhưng chị không làm vậy. Maeve không phải là người mau nước mắt. Chị gạt mái tóc đen dày cài vào hai bên mang tai và nhìn tôi. “Chị rất vui khi em ở đây.”

Tôi gật đầu. Trong một giây, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì nếu không có Maeve. Về nhà cùng Sandy và Jocelyn? Gọi huấn luyện viên Martin xem ông có thể cho tôi ở nhờ không? Tôi không bao giờ phải trải qua điều đó.

Đêm đó, khi nằm trên giường của chị, tôi nhìn chằm chằm lên trần nhà và thực sự cảm nhận được nỗi đau của việc mất cha. Không phải tiền hay nhà của ông mà là người đàn ông tôi ngồi cạnh trên xe. Ông đã bảo vệ tôi hoàn toàn khỏi thế giới này đến nỗi tôi không biết thế giới có những gì. Tôi chưa bao giờ nghĩ về ông khi tôi còn nhỏ. Tôi chưa bao giờ hỏi ông về cuộc chiến ông đã tham gia. Tôi chỉ xem ông như cha tôi, và trên cương vị đó, tôi đã đánh giá ông quá khắt khe. Giờ tôi chẳng thể làm gì khác ngoài việc thêm nó vào danh sách những sai lầm của cuộc đời.