← Quay lại trang sách

Chương 5

Maeve về nhà thêm lần nữa vào Giáng sinh năm đó nhưng chị chỉ ở lại có vài ngày. Chị được mời đến nhà một người bạn ở New Hampshire để trượt tuyết và cưỡi ngựa với một cô gái cùng trường khác sống tại Philadelphia. Bọn họ đều là con nhà giàu - những cô gái thông minh, nổi tiếng vừa biết cách tính độ dốc vừa đọc Đỏ và đen nguyên bản bằng tiếng Pháp. Khi biết ký túc xá không đóng cửa vào Lễ Phục sinh, Maeve quyết định ở lại trường. Rất nhiều bạn bè của chị sống trong thành phố, đồng nghĩa với việc chị cũng có rất nhiều lời mời tham dự bữa tối. Ngoài ra, chị còn phải đi làm. Chị có thể tham dự Thánh Lễ Phục sinh tại nhà thờ Thánh Patrick và đi bộ xuống Đại lộ Năm cùng các cô bạn, hằng năm họ thường làm vậy. Không ai có thể trách Maeve về điều đó nhưng tôi thì không. Sao tôi có thể trải qua một Lễ Phục sinh mà không có chị đây?

“Bắt tàu vào thành phố,” chị gợi ý qua điện thoại. “Chị sẽ đón em. Chị sẽ gọi đến công ty cho cha và lên lịch trước. Em có thể tự đi tàu.”

Tôi cảm thấy mình già hơn những người bạn cùng lứa, những đứa có đủ cả cha lẫn mẹ và ở trong ngôi nhà có kích cỡ trung bình. Trông tôi cũng già dặn hơn. Giờ tôi là đứa cao nhất lớp. “Những cậu bé có chị gái cao thì lớn lên cũng sẽ cao,” Maeve nói vậy và chị đã đúng. Tuy nhiên, tôi không chắc là cha sẽ cho tôi đến New York một mình. Ngay cả khi tôi cao lớn và là một học sinh gương mẫu, ngay cả khi tôi phải tự lo cho mình mỗi ngày, tôi vẫn chỉ là một đứa trẻ mười hai tuổi.

Nhưng cha đã khiến tôi ngạc nhiên khi nói rằng ông sẽ chở tôi đến New York và để tôi tự về bằng tàu. Trường Barnard cách nhà khoảng hai tiếng rưỡi lái xe. Cha nói chúng tôi sẽ đón Maeve rồi ba chúng tôi sẽ đi ăn trưa, sau đó ông sẽ một mình lái xe về Elkins Park. Nghe ông nói vậy mới bồi hồi làm sao, ba chúng tôi, như thể chúng tôi luôn là một gia đình chứ không phải chỉ mỗi lúc này.

Andrea nghe được kế hoạch và tuyên bố trong lúc ăn tối rằng dì ta sẽ đi cùng. Dì ta cần rất nhiều thứ trong thành phố. Nhưng suy nghĩ kỹ hơn, dì ta nói rằng nên để lũ trẻ đi cùng, sau khi họ đưa tôi đến ký túc chỗ Maeve, cha có thể dẫn họ đi thăm thú đó đây. “Lũ trẻ chưa được đến New York bao giờ, mà anh thì từng sống ở đó!” Andrea nói như thể cha cố giấu họ chuyện về New York. “Chúng ta sẽ đi thuyền ra ngắm tượng Nữ thần Tự do. Đó chẳng phải là điều đáng nhớ sao?” Dì ta hỏi lũ trẻ.

Tôi cũng chưa từng đến New York nhưng cũng chẳng có ý định kể điều đó ở đây vì sợ sẽ bị lầm tưởng rằng tôi muốn đi cùng họ. Lúc Sandy bưng món tráng miệng ra, Andrea nói về việc đặt chỗ ở khách sạn và lên lịch xem một buổi biểu diên. Liệu cha có biết ai có thể kiếm vé xem vở kịch Giai điệu hạnh phúc[1] không?

“Sao anh luôn đợi đến phút chót rồi mới lên kế hoạch vậy?” Dì ta trách cứ cha, sau đó tiếp tục thao thao bất tuyệt về việc phỏng vấn vài họa sĩ vẽ chân dung. “Hai cô gái nhỏ nhà này cần được khắc họa chân dung.”

Tôi ngồi nhìn chằm chằm miếng tráng miệng còn sót lại trên đĩa. Chẳng sao hết. Tôi chỉ tiếc bữa trưa đó, cái ý niệm nực cười về bữa trưa của ba chúng tôi. Tôi vẫn được đưa đến thăm Maeve, đó là tất cả những gì tôi muốn. Có thêm ai ở trên xe nữa cũng chẳng quan trọng. Thất vọng bắt nguồn từ kỳ vọng, những ngày đó, tôi không dám kỳ vọng Andrea sẽ không được đáp ứng những đòi hỏi.

Nhưng sáng hôm đó, cha đẩy cửa xoay nhà bếp bước vào trong lúc tôi còn đang ăn sáng. Ông gõ nhẹ hai ngón tay xuống bàn ngay trước bát ngũ cốc của tôi. “Đến giờ đi rồi,” ông hối. “Ngay bây giờ.” Không thấy bóng dáng của Andrea. Lũ trẻ vẫn ở trong phòng của Maeve (hai đứa ngủ cùng nhau, thể theo nguyện vọng của Bright), Sandy và Jocelyn thì chưa đến. Tôi không hỏi ông đã xảy ra chuyện gì hay nhắc ông rằng đáng lẽ vợ của ông và con dì ta phải đi cùng. Tôi cũng không đi lấy cuốn sách dự định đọc trên tàu lúc về hay nói với cha rằng hai tiếng nữa mới đến giờ khởi hành. Tôi để bát ngũ cốc ăn dở trên bàn để Sandy thấy rồi theo cha ra cửa. Chúng tôi bỏ lại Andrea. Năm đó, Lễ Phục sinh diễn ra muộn. Sáng hôm đó, mặt trời rực rỡ, hoa dạ lan hương tỏa hương ngọt ngào. Cha đi rất nhanh, sải chân của ông dài đến nỗi dù đầu gối ông bị đau, tôi phải chạy mới theo kịp. Chúng tôi đi bên dưới dàn tử đằng chưa đơm hoa, và đến tận ga ra, tôi vẫn nghĩ: Tẩu thoát, tẩu thoát, tẩu thoát. Chúng tôi đánh cược qua mỗi bước đi.

Thật khó tưởng tượng được việc phải dũng cảm nói cho Andrea biết rằng dì ta không được đi cùng chúng tôi, và nếu có, dì ta cũng sẽ đưa ra hàng loạt các lý lẽ mà cha không thể bác bỏ. Tất cả những gì cha có thể làm là trốn khỏi nhà trước khi dì ta kịp đi xuống và nêu ý tưởng khác, và chúng tôi đã chạy trốn để tránh tình huống đó. Chúng tôi lên xe sớm hơn nhiều so với dự tính.

Nếu tôi hỏi cha trong lúc ông im lặng, cha sẽ nói rằng ông đang tập trung suy nghĩ và tôi đừng nên xen vào. Tôi hiểu rằng giờ ông đang như vậy, vì thế tôi nhìn ra cửa sổ, ngắm bình minh rực rỡ, nghĩ đến Manhattan, nghĩ đến Maeve và những thời khắc hạnh phúc mà chúng tôi sẽ trải qua. Tôi sẽ chẳng đòi Maeve đưa tôi đi ngắm tượng Nữ thần Tự do vì tôi biết chị bị say sóng, nhưng tôi cũng tự hỏi liệu mình có nên rủ chị đi ngắm tòa nhà Empire State hay không.

“Con biết đấy, ta từng sống ở New York,” cha nói khi chúng tôi đang ở trên cao tốc Pennsylvania.

Tôi nói mình biết dù không muốn nhắc lại rằng chính Andrea đã kể việc đó vào bữa tối hôm trước.

Rồi ông bật xi nhan để rẽ xuống phía lối ra. “Chúng ta có nhiều thời gian mà. Để ta chỉ cho con xem.”

Phần lớn những gì tôi biết về cha đều là những gì tôi nhìn thấy ở ông: cha cao gầy với làn da nhuốm màu thời gian và mái tóc màu nâu đỏ, màu tóc được truyền lại sang tôi. Cả ba chúng tôi đều có đôi mắt màu xanh dương. Gối trái của ông cử động rất chậm, tình trạng còn tồi tệ hơn nhiều vào mùa đông và những ngày mưa. Ông chưa bao giờ phàn nàn về điều này nhưng rất dễ nhận thấy khi nào đầu gối làm ông khó chịu. Ông hút thuốc hiệu Pall Mall, dùng cà phê sữa, giải ô chữ trước khi đọc báo. Ông yêu các tòa nhà như cách các cậu nhỏ yêu chó vậy. Khi tôi tám tuổi, tôi hỏi cha trong bữa tối rằng ông sẽ bỏ phiếu cho Eisenhower hay Stevenson. Eisenhower đang chạy cho nhiệm kỳ thứ hai và tất cả đám con trai ở trường đều ủng hộ ông ta. Cha gí mũi dao xuống đĩa như muốn nói với tôi rằng không bao giờ được hỏi một câu như thế, không phải hỏi ông hay bất cứ ai. “Con có thể hỏi một câu như vậy với những cậu trai tầm tuổi con vì con chưa đến tuổi bỏ phiếu. Còn hỏi người lớn là vi phạm quyền riêng tư của mỗi con người,” ông giáo huấn. Khi nghĩ lại, tôi tưởng tượng rằng cha đã rất kinh hoàng khi tôi có thể nghĩ ông có khả năng, dù là nhỏ nhất, bỏ phiếu cho Stevenson, nhưng lúc đó tôi không nhận ra điều này. Điều tôi nhận ra là không nên đùa với lửa. Dưới đây là những chủ đề tôi thường nói chuyện với cha khi tôi còn là một đứa trẻ: Bóng chày - ông thích đội Phillies. Cây cối - ông biết tên từng loại cây, nhưng ông sẽ phạt nếu như tôi hỏi tên loại cây nào quá một lần. Chim chóc - tương tự như vậy. Ông cho chúng ăn ở sân sau và dễ dàng phân biệt những vị khách của mình. Các tòa nhà - có thể về độ chắc chắn của cấu trúc, các chi tiết về kiến trúc, giá trị của bất động sản, thuế đất, bạn có thể liệt kê thêm - cha thích nói về các tòa nhà. Những điều tôi chẳng bao giờ hỏi cha nhiều như sao trên trời, nhưng tôi có thể liệt kê một điều tiêu biểu: Tôi chưa từng hỏi cha về phụ nữ. Không phải về phụ nữ nói chung và nên làm gì với họ, càng không phải là một người phụ nữ cụ thể: mẹ tôi, chị tôi hay Andrea.

Tại sao hôm nay lại thay đổi, tôi cũng không biết nữa, mặc dù chắc chắn cuộc chiến với Andrea có liên quan. Có lẽ điều đó cùng với việc ông được quay trở lại New York, nơi cha mẹ tôi từng sống, cộng với việc lần đầu ông gặp Maeve đã khơi dậy làn sóng hoài niệm trong ông. Hoặc có thể chẳng có gì hơn những gì ông nói với tôi: chúng tôi có thêm thời gian.

“Đường phố ở đây rất khác,” ông nói với tôi khi lái xe qua các con đường ở Brooklyn. Brooklyn không quá khác biệt so với khu dân cư tôi biết ở Philadelphia, những khu phố mà chúng tôi thu tiền nhà vào mỗi thứ Bảy. Chỉ là mọi thứ nhiều hơn, cảm giác mọi con đường đều chật ních. Ông cho xe chạy chầm chậm, chỉ trỏ. “Con thấy những tòa nhà đó không? Khi ta sống ở khu này, khu đó vẫn còn là rừng. Họ đã chặt những cây to đi, hoặc đã có một vụ cháy. Cả tòa nhà. Tiệm cà phê ở đó đó,” ông chỉ vào tiệm Cốc và tách nhà Bob. Những người ngồi cạnh cửa sổ đang hoàn tất bữa sáng muộn, nhiều người trong số họ đang đọc báo, những người còn lại đang thả hồn ra ngoài đường phố. “Họ tự làm bánh vòng xoắn. Ta chưa bao giờ tìm được món bánh ở đâu như vậy. Chủ nhật, sau khi đi lễ nhà thờ, sẽ có một đoàn người xếp hàng dài dọc khu nhà để thưởng thức món bánh đó. Nhìn thấy tiệm giày kia không? Tiệm sửa giày Trung Tín[2]. Nó ở đó trước giờ rồi.” Ông lại chỉ một cửa hàng với cửa sổ to hơn cả cửa chính. “Ta học cùng trường với con ông chủ nhà này. Ta cá là nếu cha con mình bước vào sẽ gặp ông ấy đang ngồi sửa giày cho coi. Cuộc sống mà.”

“Chắc vậy ạ,” tôi đáp. Nghe như một thằng ngốc nhưng tôi chẳng biết đáp lại tất cả những thông tin đó ra sao.

Ông rẽ vào góc cua và một lần nữa chỗ đèn xanh đèn đỏ, rồi chúng tôi đến Đại lộ Mười bốn. “Ngay kia,” ông nói, chỉ vào tầng ba một tòa nhà như bao tòa nhà khác chúng tôi vừa đi qua. “Ta đã sống ở đó, còn mẹ con thì sống cách đây một đoạn.” Ông chỉ vòng ra sau vai.

“Đâu cơ ạ?”

“Ngay sau cha con mình.”

Tôi quỳ xuống ghế, nhìn qua kính sau ô tô, tim thắt lại. Mẹ tôi ư? “Con muốn xem qua chỗ đó,” tôi nói.

“Cũng giống như những chỗ khác thôi.”

“Vẫn còn sớm mà cha.” Hôm đấy là ngày thứ Năm Tuần Thánh và những người đi dự Thánh lễ hoặc đã đi từ sớm, hoặc đi muộn sau giờ làm việc. Những người tản bộ lúc này là những người phụ nữ đang đi mua sắm. Xe của chúng tôi đang đỗ xe cạnh một chiếc xe khác và ngay khi cha định nói “không” với tôi thì chiếc xe đó phóng vèo đi như thể gửi một lời mời.

“Chà, ta biết nói gì khác đây?” Cha nói rồi quành xe vào chỗ trống.

Ngày hôm đó, trời bỗng u ám kể từ lúc chúng tôi rời Pennsylvania nhưng không mưa. Chúng tôi đi bộ trở lại con phố cách đó một dãy nhà, chân cha hơi khập khiễng dưới cái lạnh. “Ngay đó. Tầng trệt.” Tòa nhà trông giống hệt những tòa nhà khác nhưng ý nghĩ mẹ đã từng ở đây khiến tôi cảm thấy sung sướng như đang trên mây. Tôi vươn tay chạm vào những chấn song cửa sổ.

“Chúng giúp bảo vệ ngôi nhà khỏi mấy gã ngu đần,” cha kể. “Ông con hay nói vậy. Ông làm chúng đấy.”

Tôi nhìn cha. “Ông con ạ?”

“Ông ngoại con. Ông là lính cứu hỏa. Ông hay phải trực đêm ở trạm cứu hỏa nên lắp thêm song sắt ở cửa sổ. Ta cũng chẳng biết là ông có thực sự cần làm vậy không nữa, thời đó đâu có đảo điên như bây giờ.”

Các ngón tay tôi bám chặt chấn song. “Ông còn sống ở đây chứ ạ?”

“Ai cơ?”

“Ông con ấy.” Tôi chưa bao giờ nói từ đó trước đây.

“À, không.” Cha lắc đầu, kỷ niệm ùa về. “Già Jack đã chết rồi. Có vấn đề về phổi. Ta cũng không rõ lắm. Nhiều đám cháy quá mà.”

“Thế còn bà ngoại ạ?” Một lần nữa, tôi ngạc nhiên trước câu hỏi của chính mình.

Nhìn vẻ mặt cha tôi có thể nhận ra ông đã không chuẩn bị cho trường hợp này. Ông chỉ muốn lái xe đi qua Brooklyn, chỉ cho tôi những nơi ông biết, tòa nhà ông từng sống. “Viêm phổi. Mất không lâu sau ngày già Jack qua đời.”

Tôi hỏi cha về những người thân khác.

“Con không biết gì sao?”

Tôi lắc đầu. Ông tách ngón tay tôi ra khỏi chấn song một cách khéo léo, kéo tôi đi về hướng đậu xe trong lúc kể chuyện. “Bác Buddy và bác Tom chết do cúm, còn bác Loretta chết trong lúc sinh nở. Bác Doreen chuyển đến Canada cùng với mấy người bạn sau khi kết hôn. Còn bác James, bác ấy từng là bạn của ta, thì hy sinh trong chiến tranh. Mẹ con là con út trong gia đình và bà sống lâu hơn tất cả, à chắc ngoại trừ bác Doreen. Ta nghĩ bác ấy vẫn còn sống ở Canada.”

Tôi lặng người nhìn vào bên trong mình để tìm kiếm thứ gì đó tôi cũng không chắc lắm, một phần trong tôi giống chị gái mình. “Sao bà lại bỏ đi ạ?”

“Chồng bác ấy muốn chuyển đi,” ông nói, dường như không hiểu ý tôi. “Bác trai đến từ Canada hay có công việc ở đó. Ta cũng chẳng nhớ rõ nữa.”

Tôi dừng bước. Tôi thậm chí không buồn lắc đầu mà chỉ hỏi lại. Đó là câu hỏi quan trọng nhất cuộc đời tôi mà trước đó tôi chưa từng hỏi: “Sao mẹ con lại bỏ đi?”

Cha thở dài, thọc tay vào túi rồi ngước nhìn những đám mây. Cuối cùng, ông nói với tôi rằng bà bị điên. Ý chính là vậy.

“Điên sao ạ?”

“Đại loại như chuyện bà ấy cởi áo khoác rồi đưa cho một người trên phố mà người đó chẳng hề hỏi xin. Như kiểu cởi áo khoác của con và cũng đem cho người khác.”

“Nhưng chẳng phải chúng ta nên làm thế sao?” Ý tôi là chúng tôi đã không làm thế, nhưng đó chẳng phải việc tốt hay sao?

Cha lắc đầu. “Không. Chúng ta không nên làm vậy. Nghe này, con không nên nghĩ nhiều về chuyện của mẹ. Ai cũng có nốt trầm trong cuộc đời và đấy là nốt trầm của con. Mẹ đã đi rồi. Con phải chấp nhận sống tiếp với điều đó.”

Cuộc nói chuyện của chúng tôi dừng lại cho đến lúc lên xe. Trên đường đến Manhattan, chúng tôi như hai người xa lạ. Chúng tôi đến Barnard và đón Maeve vừa đúng giờ hẹn. Chị mặc chiếc áo khoác mùa đông màu đỏ và mái tóc đen dày tết lại vắt qua vai, đang đợi trước khu ký túc xá. Sandy luôn bảo Maeve rằng chị trông xinh hơn khi tết tóc nhưng ở nhà chị chẳng bao giờ tết tóc.

Trong đầu tôi ngập tràn khát khao được nói chuyện riêng với chị gái nhưng bất lực. Nếu mọi thứ phụ thuộc vào quyết định của tôi, chúng tôi đã ngay lập tức chào tạm biệt cha tại đó và tiễn ông về nhà, nhưng kế hoạch là ba chúng tôi sẽ đi ăn trưa cùng nhau. Chúng tôi đến một nhà hàng Ý Maeve biết ngay gần khuôn viên trường, nơi tôi được phục vụ một bát mì Ý khổng lô với xốt bò bằm, món mà Jocelyn nghĩ là không thể làm nổi vào bữa trưa. Cha hỏi Maeve chuyện trường lớp và chị, đắm mình trong sự quan tâm hiếm hoi này, đã kể tuốt tuồn tuột. Chị đang học Giải tích II và Kinh tế, cả Lịch sử châu Âu và học phần về tiểu thuyết Nhật Bản. Cha lắc đầu, tỏ vẻ khó tin với phần tiểu thuyết nhưng không buông lời chỉ trích. Có thể ông thấy vui khi gặp chị, hoặc cũng có thể ông thấy mừng khi không phải đứng ở góc phố Brooklyn nói chuyện với tôi, nhưng ít nhất một lần trong đời, ông dành sự quan tâm trọn vẹn cho con gái mình. Maeve đang học kỳ hai nhưng ông không biết chị đang học những gì, còn tôi biết tất cả mọi thứ: Cuốn Chị em nhà Makioka là phần thưởng chị có được sau khi hoàn thành cuốn Chuyện của Genji[3]; giáo sư môn Kinh tế của chị là người biên soạn cuốn giáo trình bọn chị dùng trên lớp; chị thấy Giải tích II dễ hơn Giải tích I. Tôi liên tục đưa mì lên miệng để tránh đổi chủ đề câu chuyện.

Sau bữa trưa, thực tế là nó kết thúc sớm vì cha không chịu nổi không khí nhà hàng thêm một phút nào nữa, chúng tôi đưa ông trở lại xe. Tôi không biết mình nên về nhà vào đêm nay hay ngày hôm sau nữa. Chúng tôi chưa bàn về việc này, tôi cũng chẳng mang theo bất cứ thứ gì, nhưng chẳng ai đề cập việc về nhà của tôi. Tôi lại được giao cho Maeve lo liệu và mọi việc dừng ở đó. Ông tặng chị một cái ôm chóng vánh rồi bỏ một ít tiền vào túi áo khoác của chị, sau đó tôi và Maeve đứng cạnh nhau vẫy tay tạm biệt khi ông rời đi. Lúc ăn trưa trời mưa lạnh nhưng không nặng hạt. Maeve nói chúng tôi nên đi tàu đến Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan để xem triển lãm về người Ai Cập vì mưa thế này chẳng ướt được. Tàu điện ngầm là thứ tôi mong được thấy nhất chỉ sau Tòa nhà Empire State, vậy mà giờ tôi hầu như chẳng để ý gì khi bước xuống ga.

Maeve bỗng dừng lại, trao cho tôi ánh mắt khó coi ngay trước khi chúng tôi đến cửa xoay. Chắc chị nghĩ là tôi sắp nôn, đó cũng không hẳn là dự đoán tồi. “Em ăn nhiều quá à?”

Tôi lắc đầu. “Cha và em đã đến Brooklyn.” Chắc hẳn phải có cách nào khác để nói với chị điều này nhưng những gì xảy ra trong buổi sáng vượt quá khả năng ngôn ngữ của tôi.

“Hôm nay sao?”

Trước mặt chúng tôi là cánh cổng kim loại màu đen dẫn đến sân ga tàu. Tàu vào ga, dòng người lũ lượt lên xuống, còn tôi và Maeve chỉ đứng lặng ở đó. Dòng người vội vã lướt qua, cố gắng phóng qua cửa quay cho kịp giờ tàu chạy. “Cha và em rời nhà rất sớm. Em nghĩ là giữa cha và Andrea đã xảy ra cãi vã vì dì ta định đi cùng, Andrea và hai đứa con gái, rồi cha xuống lầu một mình, vội vàng rời đi.” Tôi bắt đầu khóc dù chẳng có lý do gì để mà khóc cả. Dù sao thì tôi cũng đã qua cái tuổi khóc nhè lâu rồi. Maeve đưa tôi đến băng ghế chờ, chúng tôi ngồi đó cùng nhau, chị lấy khăn giấy ra khỏi túi xách, đưa cho tôi. Chị đặt tay lên đầu gối tôi.

Khi kể toàn bộ câu chuyện cho chị nghe, tôi thấy thực ra cũng chẳng có gì to tát, nhưng tôi không thể ngừng nghĩ rằng mọi người sống trong căn hộ đó đã chết, ngoại trừ người chị gái của mẹ đã đi sang Canada và mẹ, rất có thể họ đã qua đời.

Maeve ghé sát mặt vào tôi. Chị đã ăn chiếc kẹo bạc hà đựng trong khay đặt bên cửa trước khi ra khỏi nhà hàng. Tôi cũng vậy. Mắt chị không xanh như mắt tôi. Chúng sậm hơn, gần như màu xanh than. “Em còn nhớ đường không?”

“Ở Đại lộ Mười bốn, nhưng em không rõ làm thế nào để đến được đấy.”

“Nhưng em nhớ tiệm cà phê và tiệm sửa giày, vậy là chúng ta có thể tìm thấy chỗ đó.” Maeve đến chỗ người đàn ông trong quầy bán thẻ từ rồi quay lại với tấm bản đồ. Chị tìm thấy Đại lộ Mười bốn và tìm ra tàu nào đến đấy, rồi chị gấp tấm bản đồ lại, đưa tôi tấm thẻ từ.

Brooklyn là một thành phố lớn, lớn hơn Manhattan và chẳng người nào có thể nghĩ rằng một thằng bé mười hai tuổi chưa từng đến nơi này lại có thể tìm đường trở lại tòa chung cư mà cậu chỉ ghé thăm có năm phút, nhưng tôi có Maeve đi cùng. Chúng tôi xuống tàu, chị hỏi đường đến tiệm Cốc và tách nhà Bob và khi chúng tôi đến đó, tôi nhớ đường để tìm lại tòa nhà: rẽ ở góc đường rồi rẽ ở góc có cột đèn giao thông. Tôi chỉ cho chị những chấn song mà ông đã lắp trên cửa nhằm đề phòng những tên ngu đần. Chúng tôi đứng lặng ở đó, dựa lưng vào tường. Chị bảo tôi kể tên các bác. Tôi chỉ nhớ được ba cái tên Loretta, Buddy và James, không nhớ nổi hai người còn lại. Chị bảo không sao đâu. Mưa bắt đầu nặng hạt, chúng tôi đi bộ đến quán nhà Bob. Nhân viên phục vụ cười lớn khi tôi gọi một bánh vòng xoắn. Cô nói rằng họ hết bánh vòng từ tám giờ sáng mỗi ngày. Cũng chẳng sao, chúng tôi cũng không đói. Maeve gọi một cốc cà phê, còn tôi gọi một cốc ca cao nóng. Chúng tôi ngồi đó cho đến lúc cảm thấy ấm và gần khô ráo.

“Chị không ngờ là cha lại chỉ cho em nhà cũ của mẹ đấy,” Maeve nói nhỏ. “Trong suốt những năm chị hỏi cha về mẹ, về nhà ngoại, về những nơi bà đã đi qua, ông chẳng nói với chị bất cứ điều gì.”

“Vì cha nghĩ điều đó sẽ giết chết chị.” Tôi không muốn bảo vệ cha trước mặt chị gái mình nhưng đây là trường hợp ngoại lệ. Việc mẹ ra đi khiến Maeve bị ốm.

“Nực cười. Chẳng ai chết vì chút thông tin cả. Chỉ là ông ấy không muốn nói với chị mà thôi. Một lần, thời học trung học, chị nói với ông rằng chị sẽ đến Ấn Độ để tìm mẹ. Em biết ông nói sao không?”

Tôi lắc đầu, choáng váng trước ý nghĩ khủng khiếp rằng Maeve sẽ đến Ấn Độ, rằng cả hai người phụ nữ quan trọng của cuộc đời tôi đều biến mất.

“Ông nói với chị rằng phải nghĩ như thể mẹ đã chết, rằng rất có thể bà đã chết rồi.”

Tôi hiểu điều đó, dù vẫn đang choáng váng trước thông tin này. “Cha chỉ không muốn chị đi thôi mà.”

“Ông bảo chị là: ‘Dân số Ấn Độ nay là bốn trăm năm mươi triệu người. Chúc may mắn.’”

Phục vụ quay lại định rót thêm cà phê cho Maeve nhưng chị từ chối.

Tôi nghĩ về những chấn song trên cửa sổ nhà ngoại. Tôi nghĩ đến tất cả những tên đầu trộm đuôi cướp trên trái đất.

“Chị có biết sao mẹ lại bỏ đi không?”

Maeve đã uống hết cốc cà phê. “Tất cả những gì chị biết là một trong những lý do khiến mẹ bỏ đi chính là bà ghét ngôi nhà.”

“Ngôi nhà của Người Hà Lan ư?”

“Mẹ không chịu nổi nó.”

“Mẹ đâu có nói vậy.”

“Ồ, có đấy. Mẹ nhắc đến việc đó mỗi ngày. Căn phòng duy nhất mẹ ngồi trong ngôi nhà là phòng bếp. Bất kể Flufty hỏi gì, bà đều trả lời: ‘Hãy làm bất cứ điều gì em muốn, cô gái. Đây là nhà em mà.’ Mẹ luôn nói đây là nhà của Fluffy. Chị nhớ điều đấy làm cha phát bực. Có lần bà nói với chị, nếu được chọn, bà sẽ giao phắt chỗ này cho các nữ tu để họ biến nó thành trại trẻ mồ côi hoặc trại dưỡng lão. Sau đấy, bà lại nói nếu nữ tu, trẻ mồ côi, người già ở đây thì chắc họ sẽ xấu hổ lắm.”

Tôi cố gắng tưởng tượng điều đó. Chán ghét trần nhà phòng ăn thì chắc chắn rồi nhưng toàn bộ ngôi nhà ư? Làm gì có ngôi nhà nào đẹp hơn vậy. “Có khi chị hiểu nhầm ý mẹ cũng nên.”

“Mẹ nói điều đó hơn một lần.”

“Rồi mẹ phát điên,” tôi nói, dù ngay khi buột miệng nói ra câu đó, tôi đã rất hối hận.

Maeve lắc đầu. “Bà ấy không điên.”

Khi chúng tôi trở lại Manhattan, Maeve đưa tôi đến một cửa hàng quần áo nam và mua cho tôi đồ lót, một chiếc sơ mi và một bộ đồ ngủ, rồi chị mua thêm bàn chải đánh răng ở hiệu thuốc bên cạnh. Đêm đó chúng tôi đến Nhà hát Paris để xem Mon Óncle. Maeve nói với tôi rằng chị mê đắm Jacques Tati[4]. Tôi hơi lo về việc phải xem phim có phụ đề nhưng hóa ra diễn viên chẳng ai nói với ai câu nào. Xem xong, chúng tôi dừng lại để ăn kem rồi quay trở lại Barnard. Tất cả các cậu trai bị cấm lên ký túc xá nữ, nhưng Maeve đã giải thích cho cô gái trực ở bàn lễ tân, một người bạn khác của chị, rồi đưa tôi lên lầu. Leslie, bạn cùng phòng của chị, đã về nhà trong kỳ nghỉ Lễ Phục sinh, vì thế tôi được sử dụng giường của chị ấy. Căn phòng nhỏ đến mức chúng tôi có thể vươn tay ra và chạm vào nhau. Tôi ngủ ở phòng Maeve suốt thời thơ ấu, và tôi đã quên cái cảm giác tuyệt vời khi thức giấc giữa đêm mà vẫn thấy tiếng thở đều đều của chị.

Tôi ở lại New York trọn vẹn ngày thứ Sáu và gần hết thứ Bảy, nếu Maeve có gọi về nhà để thông báo cho ai đó về kế hoạch của hai chị em thì cũng không làm trước mặt tôi. Chị bảo trong suốt thời gian ở đây, chị đã cắm đầu vào học mà không được đi thăm thú đó đây như chị mong muốn, vì thế chúng tôi đã đến thăm Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, ghé qua sở thú tại Công viên Trung tâm. Chúng tôi lên nóc tòa nhà Empire State bất chấp mưa gió và tất cả những gì chúng tôi thấy được là những đám mây nặng trịch, ẩm ướt bao quanh. Chị dẫn tôi đi quanh khuôn viên Đại học Columbia và thủ thỉ với tôi rằng đây là trường mà tôi nên theo học. Chúng tôi tham dự Thánh lễ thứ Sáu Tuần Thánh tại Nhà thờ Đức Bà và vẻ đẹp của tòa nhà níu giữ tâm hồn tôi dù quá nửa thời gian người phục vụ nhà thờ làm tôi phân tâm. Cuối cùng, Maeve phải xin phép ra phía hông nhà thờ để tiêm cho mình một ống insulin. Chị đùa rằng tí nữa có khi người ta lại tưởng chị là con nghiện trong bộ quần áo chỉn chu. Vào cuối ngày thứ Bảy Tuần Thánh, chị đưa tôi đến nhà ga Penn. Chị nói rằng cha sẽ muốn tôi có mặt ở nhà vào Lễ Phục sinh, dù sao đi nữa thì chúng tôi cũng sẽ phải trở lại trường vào thứ Hai. Chị mua cho tôi vé về, hứa rằng sẽ gọi về nhà và nhờ Sandy ra đón tôi, bắt tôi hứa sẽ gọi cho chị ngay khi đặt chân đến nhà. Maeve đã biếu người khuân vác ít tiền để anh ta xếp sắp cho tôi ngồi cạnh người trông có vẻ an toàn nhất trên tàu, nhưng hóa ra cũng chỉ có vài người đến Philadelphia vào chiều muộn ngày thứ Bảy Tuần Thánh nên tôi được xếp ngồi một mình một hàng. Maeve mua cho tôi cuốn sách về Julius Caesar mà tôi đã nài nỉ chị mua cho khi ở Brentano’s[5], nhưng trong suốt chuyến tàu tôi cứ ôm khư khư nó và nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Tàu chạy qua Newark trước khi tôi nhận ra mình đã quên chỉ cho chị khu chung cư nơi cha từng sống và chị cũng quên hỏi tôi.

Tôi đã không nghĩ gì đến Andrea trên đường đi thăm Maeve, nhưng giờ tôi tự hỏi không biết liệu có xảy ra cuộc chiến kinh khủng nào không. Rồi tôi lại nghĩ đến lời khuyên của cha rằng cái gì mà không xử lý được thì tốt nhất nên bỏ ra khỏi đầu. Tôi thử và điều đó dễ hơn tưởng tượng. Tất cả những gì tôi làm là nhìn thế giới lướt qua cửa sổ toa tàu: thị trấn, nhà cửa rồi cây cối, rồi bò, rồi lại đến cây cối, nhà cửa, thành phố, như một vòng tuần hoàn lặp đi lặp lại lướt qua.

Sandy đón tôi ở ga tàu như Maeve hứa, tôi đã kể cho cô nghe về chuyến đi khi ở trên xe. Sandy muốn biết Maeve sống thế nào, phòng ký túc của chị ra sao, những điều mà tôi kể cho cô nghe rất nhỏ. Cô hỏi tôi liệu Maeve đi học xa có thiếu thốn gì không, có đủ ăn không. “Hồi Giáng sinh cô ấy về trông gầy nhẳng ra.”

“Thì cô nghĩ sao?” Tôi đáp. Dường như cô cũng nghĩ giống tôi.

Khi chúng tôi về đến nhà, mọi người đang ngồi ăn tối. Thấy chúng tôi, cha nói: “Xem ai về kìa.”

Bầu không khí ở ngôi nhà thân quen giờ có chút căng thẳng.

“Em sẽ hóa thân thành thỏ trong ngày Lễ Phục sinh đấy,” Bright khoe với tôi.

“Không hề,” Norma cự.

“Đợi mai rồi tính tiếp,” Andrea nói, không buồn ngước lên nhìn tôi. “Ăn tối đi.”

Jocelyn xuất hiện, nháy mắt và mang cho tôi một phần ăn. Cô đến giúp vì Sandy phải đến đón tôi ở ga tàu.

“Ở New York có thỏ không anh?” Bright hỏi. Buồn cười ở chỗ lũ trẻ đối xử với tôi như thể tôi tầm tuổi cha và Andrea hơn là tầm tuổi chúng.

“Nhiều lắm,” tôi kể.

“Anh nhìn thấy chúng chứ?”

Thật ra tôi cũng nhìn thấy vài con thỏ dành cho Lễ Phục sinh được trưng bày ở Saks Fifth Avenue[6]. Tôi kể cho con bé nghe cách bọn thỏ nhảy nhót quanh đống ma nơ canh trong những bộ váy lộng lẫy, rồi việc tôi và Maeve đã nổi bật thế nào trên phố khiến đám đông phải đứng lại nhìn cả mười phút.

“Anh được xem vở kịch chứ ạ?” Câu hỏi của Norma làm Andrea đã phải ngước lên nhìn. Tôi biết dì ta sẽ đau khổ lắm khi thấy tôi và Maeve làm được những điều mà dì ta muốn.

Tôi gật đầu: “Hát hơi nhiều nhưng nó hay hơn anh nghĩ.”

“Bằng cách thần sầu nào mà con kiếm được vé vậy?” Cha hỏi.

“Nhờ một người bạn của Maeve ở trường, cha của chị ấy làm việc trong nhà hát ạ.” Lúc đó tôi không có thói quen nói dối nhưng mọi thứ cứ trơn tru tuôn ra từ miệng tôi. Không ai ngồi bên bàn ăn có thể kiểm tra tính xác thực trong câu chuyện của tôi, và ngay cả nếu có, Maeve cũng sẽ ủng hộ tôi mà chẳng phải mảy may nghĩ gì.

Sau câu trả lời đó, chẳng ai hỏi thêm gì nữa, vì thế tôi cất giữ những kỷ niệm về sở thú ở Công viên Trung tâm, hóa thạch khủng long ở Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, Mon Óncle, rồi phòng ký túc xá và những thứ khác cho riêng mình. Tôi tính kể cho bạn tôi, Matthew, nghe mọi chuyện khi đến trường vào thứ Hai. Cậu ấy phát cuồng với ý tưởng được thấy Manhattan. Andrea bắt đầu than phiền về bữa trưa Lễ Phục sinh ngày mai, rằng dì ta sẽ bận rộn như thế nào, dù Sandy kể với tôi khi ở trong xe là mọi thứ đã được chuẩn bị xong xuôi. Tôi cứ đợi cha để mắt đến mình, cho tôi một tín hiệu dù là nhỏ nhất rằng mọi chuyện giữa chúng tôi đã thay đổi, nhưng chẳng có gì cả. Ông không bao giờ hỏi tôi về khoảng thời gian tôi ở cùng Maeve hay vở kịch mà tôi và Maeve đã xem, chúng tôi cũng không bao giờ nói chuyện về Brooklyn nữa.

*

“Chị không thấy lạ khi mình chẳng bao giờ gặp mặt dì ta sao?” Tôi hỏi Maeve. Khi đó tôi gần ba mươi. Tôi nghĩ kiểu gì chúng tôi cũng phải giáp mặt dì ta một, hai lần.

“Sao phải gặp bà ta?”

“Thì mình đỗ trước cửa nhà dì ta. Cũng có lúc phải chạm mặt nhau chứ.” Thỉnh thoảng, chúng tôi bắt gặp Norma và Bright tản bộ ngoài sân trong bộ đồ bơi nhưng chỉ có vậy, chuyện đó cũng phải cách đây vài năm rồi.

“Mình đâu có theo dõi bà ta. Đâu phải mình cứ ở lì đây đâu. Mãy tháng mình mới ghé một lần, mỗi lần chỉ tầm mười lăm phút thôi mà.”

“Hơn mười lăm phút,” tôi phản bác và có thể lâu hơn chu kỳ vài tháng một lần.

“Sao cũng được. Thì chúng ta gặp hên.”

“Chị có bao giờ nghĩ về dì ta không?” Tôi không hay nghĩ đến Andrea, nhưng những lúc chúng tôi đỗ xe trước Ngôi nhà của Người Hà Lan thì dì ta luôn hiển hiện như thể đang ở trong xe cùng bọn tôi.

“Đôi khi chị tự hỏi liệu có phải bà ta đang chết dần chết mòn không,” Maeve nói. “Chị tự hỏi khi nào bà ta chết. Tất cả chỉ có thế.”

Tôi bật cười, khá chắc rằng chị không đùa: “Em nghĩ nhiều hơn thế, kiểu như không biết dì ta có hạnh phúc không, hay dì ta có gặp gỡ ai không.”

“Không. Chị chẳng bao giờ tự vấn mấy câu như thế.”

“Dì ta cũng đâu đã quá già. Dì ta có thể gặp gỡ ai đó chứ.”

“Bà ta sẽ chẳng cho ai khác bước chân vào ngôi nhà đâu.”

“Nghe này,” tôi nói, “có thể sau này dì ta đối xử rất tệ với chúng ta, em công nhận điều đó, nhưng đôi khi em tự hỏi liệu có phải do dì ta không biết làm cách nào tốt hơn không. Có thể dì ta cũng quá trẻ để đối mặt với mọi chuyện, hoặc đó là biểu hiện của sự đau buồn. Hay những điều diễn ra trong cuộc sống riêng của dì ta chẳng liên quan gì đến chúng ta cả. Ý em là chúng ta đâu thực sự biết gì về Andrea, em có rất nhiều kỷ niệm về Andrea để thấy rằng dì ta là người cầu toàn, vậy mà em chỉ nhớ đến những ký ức mà dì ta không hề như vậy.”

“Sao em cứ phải nói tốt cho bà ta? Chị không hiểu nổi,” Maeve hỏi.

“Vấn đề là sự thật là vậy. Giờ em chẳng còn ghét dì ta nữa, vậy tại sao em phải xóa hết những ký ức tốt đẹp về dì ta và chỉ cố hướng đến những ký ức tồi tệ chứ?” Vấn đề tôi muốn nói là chúng tôi không nên lái xe đến Ngôi nhà của Người Hà Lan nữa. Càng nuôi dưỡng sự căm ghét, chúng tôi càng như tự nhốt mình vào con xe đậu trước đường VanHoebeek.

“Em yêu bà ta sao?”

Tôi tức tối nói: “Không, em không yêu dì ta! Em chỉ có thể lựa chọn hoặc ghét dì ta, không thì phải yêu dì ta sao?”

Chị nói: “Chà, thì chỉ là chị thấy em nói em không ghét bà ta, thế nên chị chỉ muốn biết em cảm thấy như thế nào về bà ta thôi. Chị nghĩ rằng cuộc trò chuyện đã nực cười ngay từ ban đầu, nếu em hỏi ý chị. Giả sử có một đứa trẻ sống cạnh nhà mình, hai đứa không thân cũng chẳng thù. Bỗng một ngày nọ, thằng bé bước vào nhà và giết chết chị gái em bằng chiếc gậy bóng chày.”

“Lạy Chúa, Maeve!”

Chị giơ tay ra hiệu tôi im lặng. “Nghe chị nói đã. Liệu rằng thực tại đó có xóa nhòa được quá khứ không? Có thể không nếu như em yêu quý đứa trẻ đó. Cũng có thể nếu em yêu quý nó, em sẽ đào sâu về nó, dành thời gian tìm hiểu xem tại sao nó lại làm vậy, nhìn từ quan điểm của nó, tự hỏi không biết cha mẹ đứa trẻ đã đối xử với nó ra sao, liệu có sự mất cân bằng chuyển hóa nào đó trong nó không. Em thậm chí còn nghĩ rằng chị gái mình có thể đóng vai trò nào đó gây ra mọi chuyện: Liệu chị ấy có hành hạ cậu bé không? Chị ấy có độc ác với nó không? Nhưng em sẽ chỉ băn khoăn như vậy nếu em quý đứa trẻ; nếu nó không là gì hơn một đứa hàng xóm bình thường, chị nghĩ không có lẽ gì phải tìm kiếm kỷ niệm đẹp với nó cả. Nó vào tù và em sẽ không phải gặp thằng khốn nạn đó thêm lần nào nữa.”

Tôi đang theo học nội trú tại Đại học Y khoa Einstein ở Bronx, cứ hai đến ba tuần tôi lại bắt tàu về Philadelphia. Chẳng bao giờ tôi có đủ thời gian để ở lại qua đêm nhưng chưa bao giờ cả tháng trời mà không về. Maeve luôn nói chị nghĩ sẽ được gặp tôi nhiều hơn sau khi tôi hoàn thành khóa học ở trường y nhưng không phải vậy. Tôi không có nhiều thời gian và không muốn dành chút thời gian ít ỏi của mình để bám lấy ngôi nhà chết tiệt, nhưng đấy là nơi chúng tôi đoàn tụ: giống như những con én hay cá hồi, chúng tôi là những kẻ bị giam cầm bất lực bởi vấn đề di cư. Chúng tôi vờ rằng những gì chúng tôi mất là ngôi nhà chứ không phải cha mẹ chúng tôi. Chúng tôi vờ rằng chúng tôi bị những người sống trong căn nhà cướp đi những gì mà chúng tôi có. Trời trở lạnh, hàng cây đoạn lá bạc đã bắt đầu rụng lá.

“Được rồi. Em sẽ không quan tâm đến nó nữa!” Tôi chấp nhận.

Maeve quay lưng về phía tôi, nhìn về phía hàng cây. “Cảm ơn em.”

Thế nên chỉ có mình tôi cố ghi nhớ những điều tốt đẹp mà Andrea đã từng làm: Andrea cười với Norma và Bright; Andrea đến xem tình hình của tôi lúc nửa đêm khi tôi mọc răng khôn. Lần đó, dì ta đã đứng trước cửa phòng tôi và hỏi xem tôi có sao không. Một vài khoảnh khắc dì ta mang lại bình yên cho cha tôi, và trong phút chốc, ông đặt tay lên tấm lưng mảnh dẻ của dì ta. Đó là những điều nhỏ thôi, nhưng cũng khiến tôi mệt mỏi khi nghĩ đến. Vì thế tôi dành tâm trí trở lại bệnh viện, kiểm tra những bệnh nhân cần gặp tối nay, chuẩn bị lời để nói với họ. Tôi sẽ gọi cho họ lúc bảy giờ.

Chú thích:

[1] Tên trong nguyên tác là The Sound of Music.

[2] Trong nguyên tác là “Honest Shoe Repair”.

[3] Trong nguyên tác là The Makioka Sisters (tiểu thuyết của nhà văn nổi tiếng thời kỳ cận - hiện đại Nhật Bản Tanizaki Jun’ichirō và The Tale of Genji (tác phẩm của nữ văn sĩ Murasaki Shikibu thế kỷ 11 của Nhật Bản).

[4] Jacques Tati (1907-1982): diễn viên kịch câm, nhà sản xuất phim, nhà biên kịch người Pháp.

[5] Brentano’s: Chuỗi cửa hàng sách ở Mỹ.

[6] Saks Fith Avenue: Chuỗi cửa hàng bách hóa cao cấp nổi tiếng ở New York.