← Quay lại trang sách

Phần II - Chương 8

Những bông tuyết ẩm ướt và nặng nề lặng lẽ rơi vào thứ Tư trước Lễ Tạ ơn ở New York. Ga Pennsylvania nhìn bẩn thỉu và đông đúc như một khu chăn thả gia súc, và chúng tôi, những vị khách vãng lai vội vã, như những con bò đứng trong những vũng sình, bị ép sát vào nhau trong sân ga chật cứng và nóng nực. Chúng tôi không thể cởi áo khoác, mũ và khăn quàng vì hai tay còn đầy nhóc va li, túi xách và những cuốn sách không ai muốn đặt xuống mặt sàn bẩn thỉu. Chúng tôi nhìn chằm chằm vào bảng khởi hành, đợi chờ hướng dẫn. Càng lên tàu sớm thì càng dễ kiếm được một chỗ ngồi tốt quay mặt về phía trước và không quá gần nhà vệ sinh. Một thằng nhỏ với chiếc ba lô nặng trịch cứ quay sang nói gì đó với bạn gái, thỉnh thoảng nó lại va cả cái ba lô nặng trịch đó vào mặt tôi.

Tôi muốn trở lại phòng ký túc ở Columbia.

Tôi muốn ngồi trên tàu.

Tôi muốn cởi áo khoác ra.

Tôi muốn nghiền ngẫm cách sắp xếp của bảng tuần hoàn.

Maeve có thể giúp tôi thoát khỏi mớ hỗn độn này nếu chị không gặp khó khăn trong việc đến New York. Giờ chị giám sát việc giao cả tấn rau củ đông lạnh đến các cửa hàng tạp hóa cho kỳ nghỉ lễ vì Công ty Otterson đóng cửa cho đến thứ Hai. Bạn cùng phòng của tôi đang tận hưởng Lễ Tạ ơn bên gia đình ở Greenwich, vì thế Maeve có thể ngủ trên giường của cậu ấy. Chúng tôi sẽ ăn đồ Trung Hoa và có thể cùng nhau xem một vở kịch. Nhưng Maeve sẽ chỉ đến New York trong hoàn cảnh bắt buộc - chẳng hạn như khi tôi bị viêm ruột thừa vào học kỳ đầu tiên của năm nhất. Giám thị hành lang hộ tống tôi lên xe cứu thương để chở đến Bệnh viện Columbia-Presbyterian. Sau cuộc tiểu phẫu, tôi tỉnh lại và thấy Maeve đang thiếp đi bên cạnh. Chiếc ghế chị ngồi kéo sát vào cạnh giường, đầu chị dựa vào đệm cạnh cánh tay tôi, mái tóc sẫm, rối bù của chị phủ khắp giường như thể tấm chăn thứ hai cho tôi. Tôi không gọi cho chị, nhưng chắc có ai đó đã làm vậy. Dù gì chị cũng là trường hợp liên lạc khẩn cấp của tôi, người thân của tôi. Tôi vẫn còn đang mơ màng do thuốc, ngắm nhìn chị đang thiêm thiếp ngủ và nghĩ: Maeve đến New York. Maeve ghét đến New York. Đến đây làm chị nhớ lại việc mình đã yêu Barnard nhiều thế nào và tiềm năng chị nhìn thấy ở bản thân khi đó. New York như khơi gợi những ký ức đáng hổ thẹn dù chị chẳng làm gì nên tội hay theo tôi nghĩ là vậy. Tôi thiếp đi và khi mở mắt ra, chị đã tỉnh, ngồi trên ghế và nắm lấy tay tôi.

“Em tỉnh rồi,” chị cười, nói. “Em thấy trong người thế nào?”

Phải nhiều năm sau đó tôi mới hiểu được mối nguy hiểm thực sự của những gì xảy ra với tôi. Vào lúc đó, tôi thấy cuộc phẫu thuật vừa phiền toái vừa xấu hổ. Tôi bắt đầu pha trò, nhưng thấy chị nhìn tôi với vẻ dịu dàng tôi dừng lại. “Em ổn mà,” tôi khẳng định. Miệng tôi dính và khô.

“Nghe này,” chị trầm giọng nói. “Chị nói trước, xong đến lượt em. Hiểu chứ?”

Tôi nở nụ cười ngu ngốc nhưng chị lắc đầu.

“Em trước.”

Những chữ cái trên bảng điện tử bắt đầu quay vòng vòng cho đến khi nó dừng lại ở dòng chữ HARRISBURG: 4:05, GA 15, ĐÚNG GIỜ. Bóng rổ đã dạy tôi cách di chuyển hiệu quả giữa đám đông. Hầu hết những chú bò tội nghiệp chỉ đến nhà ga Penn mỗi năm một lần và rất dễ bị nhầm đường. Trong cuộc hỗn loạn tập thể, rất ít người rẽ đúng hướng. Vào lúc họ phân vân không biết phải đi đường nào thì tôi đã ngự tọa trên tàu.

Về mặt tích cực, tôi sẽ dành hơn một tiếng ngồi tàu để học Hóa Hữu cơ, môn mà tôi đang yếu. Thầy của tôi, Tiến sĩ Able, đã gọi tôi đến văn phòng của ông vào đầu tháng Mười và nói tôi đang đi vào con đường thất bại. Đó là năm 1968, các cuộc biểu tình xảy ra hàng loạt ở các trường đại học tại Columbia. Sinh viên nổi loạn, diễu hành rồi dàn hàng la liệt. Trường chúng tôi là một mô hình thu nhỏ của một đất nước đang có chiến tranh, và mỗi ngày chúng tôi đều giơ cao tấm biển để cho tất cả thấy những gì mà chúng tôi đang phải trải qua. Việc một sinh viên năm nhất bị cảnh cáo về khả năng trượt môn Hóa đúng là vô lý, thế nhưng chính tôi lại là một ví dụ điển hình. Tôi cúp học vài tiết và tập bài kiểm tra xếp trước mặt Tiến sĩ Able càng củng cố rằng môn Hóa của tôi đang có vấn đề. Văn phòng ở tầng ba của Tiến sĩ Able chất đầy sách cùng một tấm bảng đen nhỏ viết hàng tá những công thức khó hiểu mà tôi sợ ông sẽ bắt tôi phải giải thích.

“Trò đang học ở lớp tiền y khoa, đúng không?” Ông lên tiếng, nhìn vào quyển sổ.

Tôi nói với ông rằng đúng vậy. “Vẫn đang ở đầu học kỳ. Em sẽ đưa mọi thứ trở về đúng quỹ đạo ạ.”

Ông gõ bút chì vào đống bài đáng thất vọng của tôi và nhắn nhủ: “Ở trường y rất coi trọng môn Hóa. Nếu không qua môn này, trò sẽ không được tiếp tục theo học đâu. Đấy là lý do hôm nay ta gọi trò tới đây. Nếu để trễ hơn nữa, e rằng trò sẽ không bắt kịp.”

Tôi gật đầu, cảm thấy quặn thắt ruột gan. Một trong những lý do khiến tôi luôn học hành chăm chỉ ở trường chính là để tránh những cuộc nói chuyện thế này.

Tiến sĩ Able nói ông dạy hóa nhiều năm rồi nên đã gặp nhiều chàng trai như tôi, vấn đề của tôi không phải do thiếu nắng lực mà là do dành thời gian cho những thứ không cần thiết. Tất nhiên là ông nói đúng, tôi đã bị phân tâm từ đầu học kỳ, nhưng ông cũng sai, vì tôi không nghĩ rằng ông đã gặp nhiều chàng trai như tôi. Ông có dáng người gầy gò với mái tóc màu nâu rối bù. Tôi không đoán được tuổi của ông, nhưng nhìn cà vạt và áo khoác, tôi nghĩ ông đã ngoài năm mươi.

Tiến sĩ Able chia sẻ: “Hóa học là một hệ thống đẹp đẽ mà mỗi phần đều được xây dựng từ nền móng trước đó. Nếu trò không hiểu chương 1 ắt sẽ chẳng hiểu nổi chương 2. Chương 1 cung cấp nền móng cho chương 2 cũng như chương 2 là chìa khóa để mở cửa chương 3. Chúng ta đang học chương 4. Không thể nào bắt đầu học từ chương 4 mà có thể bắt kịp các trò khác trong lớp. Trò bị mất gốc.”

Tôi nói chắc chắn là vậy rồi.

Tiến sĩ Able bảo tôi đọc lại từ chương đầu tiên trong sách giáo khoa, trả lời tất cả câu hỏi ở cuối chương, theo những gì tôi hiểu, sáng hôm sau thức dậy và trả lời lại. Chỉ khi nào cả hai lần đều trả lời đúng tất cả các câu hỏi thì mới được chuyển sang chương tiếp theo.

Tôi muốn hỏi ông xem ông có biết có sinh viên đang ngủ trên sàn phòng hiệu trưởng không. Nhưng cuối cùng tôi lại nói là: “Em vẫn đang theo kịp các môn khác,” khiến cuộc nói chuyện như biến thành một cuộc thương lượng về việc phân bổ thời gian học tập cho môn của ông. Cả lớp chẳng ai bị yêu cầu phải trả lời tất cả câu hỏi của chương hai lần cả.

Ông nhìn tôi. “Vậy năm nay trò định bỏ môn này sao?”

Tôi không thể trượt môn Hóa Hữu cơ, hay bất kỳ môn nào. Hiện tại tôi mới mười bảy, và nếu không tiếp tục đi học tôi sẽ chết gí trong một con mương ở Khe Sanh. Tuy nhiên, tôi sợ những gì Maeve sẽ làm khi tôi bị đá bay khỏi quỹ ủy thác hơn cả bất kỳ điều gì mà chính phủ có thể làm. Đây không phải trò đùa. Điều này như thể ngủ gật khi lái xe trong trận bão tuyết trên cao tốc New Jersey lúc nửa đêm. Tiến sĩ Able đã lay tôi đúng lúc khi thấy đèn pha chiếu thẳng vào kính chắn gió của tôi, và giờ tôi chỉ có một tích tắc để lùi xe vào đúng làn đường. Khoảng cách của tôi với cái chết quá đỗi mong manh.

Tôi chọn ngồi ghế cạnh lối đi trên tàu. Không có gì đáng nhìn trên khung đường giữa Manhattan và Philadelphia. Trong hoàn cảnh bình thường, tôi sẽ đặt túi xách ở ghế bên cạnh và hành xử trông có vẻ chín chắn, nhưng đây là tuần Lễ Tạ ơn và không ai được quyền chiếm hai ghế cả. Thay vào đó, tôi mở cuốn sách giáo khoa và mong thể hiện chính xác con người của mình: một sinh viên học hóa một cách nghiêm túc, không thể bị lôi vào một cuộc trò chuyện về thời tiết, Lễ Tạ ơn hay chiến tranh. Đàn bò đứng ở ga Penn muốn đến Harrisburg đã chen nhau đi qua cửa quay, xếp thành một hàng thẳng tiến đến sân ga và lên tàu. Hành lý của họ cứ va vào hết ghế này đến ghế nọ. Tôi dán mắt vào cuốn sách cho đến khi một người phụ nữ vỗ bàn tay lạnh cóng của bà vào cổ tôi. Không phải vai như người ta thường làm mà là cổ.

“Cháu trai,” bà nói rồi nhìn xuống va li dưới chân. Bà ấy đã già và chắc đang tự hỏi sao mình lại sống trong thế giới mà đàn ông để phụ nữ phải tự khiêng túi xách lên tàu với danh nghĩa bình đẳng thế này. Những con bò khác phía sau bà cứ liên tục đẩy, dường như không hiểu được tình trạng ùn ứ hiện thời. Họ quá lo sợ không lên kịp giờ tàu chạy. Tôi đứng dậy và nâng hành lý cho bà - một chiếc va li vải kẻ sọc nâu buồn tẻ được thắt lại ở giữa bằng một chiếc thắt lưng vì khóa kéo đã bị lỏng lẻo - rồi đặt lên kệ. Chỉ với hành động lịch sự này, tôi đã khiến mọi người biết đến như một người khuân vác. Những người phụ nữ khác bắt đầu gọi tôi. Một số người có túi hiệu Macy’s và Wanamaker’s chứa đầy quà Giáng sinh đặt cạnh va li và khiến tôi tự hỏi sẽ ra sao nếu gói quà Giáng sinh từ giờ. Hết túi này đến túi khác, tôi cố gắng nhồi nhét hành lý lên giá kim loại phía trên ghế ngồi tuy chúng đã chật ứ và chẳng nhét thêm được gì. Vũ trụ có thể giãn nở nhưng giá để hành lý thì không.

“Nhẹ thôi,” một người phụ nữ nói với tôi, đưa tay lên minh họa xem bà sẽ làm thế nào nếu mình cao thêm ba chục phân nữa.

Cuối cùng, sau khi nhìn về hai hướng và nhận thấy không cần làm gì thêm nữa, tôi quay về chỗ của mình. Ở đó, tôi thấy một cô gái với những lọn tóc vàng óng ả đang ngồi bên cửa sổ, đọc cuốn sách hóa học của tôi.

“Tôi giữ cho anh đấy,” cô nói khi đoàn tàu chầm chậm lăn bánh.

Tôi không biết cô muốn nói đến cuốn sách hay cái ghế nhưng tôi chẳng cần ai giữ cho mình bất kể cái nào. Tôi đang đọc đến chương 9, cuối cùng thì tôi cũng đã nắm được chìa khóa của môn Hóa học. Tôi ngồi trên chiếc áo khoác vì đã bỏ lỡ cơ hội để trùm nó lên đầu.

“Tôi học hóa hồi trung học,” cô gái tóc vàng nói, lật giở các trang. “Các cô gái khác chọn môn Đánh máy nhưng điểm A môn Hóa học thì còn hơn khối điểm A môn Đánh máy.”

“Hơn thế nào?” Hóa học đem đến cơ hội để tạo ra những đồ vật tốt hơn nhưng chắc chắn nhiều người muốn biết cách đánh máy hơn.

“Về điểm trung bình.”

Mặt mũi cô thật tròn trịa: mắt tròn, má phính, miệng tròn, mũi tròn và nhỏ. Tôi không có ý định nói chuyện với cô nhưng tôi không có sự lựa chọn nào khác vì cô đang cầm cuốn sách của tôi. Khi tôi hỏi cô có được điểm A trên lớp không, cô vẫn đọc tiếp. Cô tình cờ tìm ra một điểm thú vị và gật đầu qua loa để đáp lại câu hỏi của tôi. Cô nhận thấy môn Hóa hấp dẫn hơn việc mình đạt điểm A môn Hóa và điều đó, phải thừa nhận, đã làm tôi nhụt chí. Tôi đã đợi tận hai phút rồi mới dám mở lời rằng tôi cần lấy lại cuốn sách.

“Chắc chắn rồi,” cô ấy nói và đưa cuốn sách lại cho tôi, một ngón tay vẫn đánh dấu phần 2 chương 9. “Thật hài hước khi lại thấy môn này. Nó giống việc tình cờ gặp người mà ta đã từng dành rất nhiều thời gian cho họ vậy.”

“Tôi dành nhiều thời gian cho môn Hóa lắm.”

“Cũng có khiến mọi việc khác đi đâu,” cô đáp.

Tôi nhìn đăm đăm vào trang sách trong lúc cô lục tung túi xách, lấy ra một tập thơ mỏng của Adrienne Rich có tên Những thứ quan trọng trong đời[1]. Tôi tự hỏi không biết cô ấy đọc nó vì đó là tài liệu học trên lớp hay cô là một trong những cô gái thích đọc thơ trên tàu. Tôi không lên tiếng hỏi, vì thế chúng tôi ngồi im lặng trong suốt con đường đến Newark. Khi tàu dừng lại, mở cửa cho khách, cô bèn lấy một thanh kẹo cao su hương vị trái cây Juicy Fruit từ trong túi kẹp vào cuốn sách rồi nhìn tôi với vẻ nghiêm túc không chịu nổi.

“Chúng ta nên nói chuyện,” cô nói.

Bạn gái Susan của tôi đã nói Chúng ta nên nói chuyện vào cuối năm nhất trước khi nói với tôi là muốn chia tay. “Chúng ta nên nói chuyện sao?”

“Trừ khi anh muốn hạ hành lý cho tất cả phụ nữ xuống Newark rồi lại xếp hành lý cho tất cả phụ nữ lên tàu.”

Tất nhiên, cô nói đúng. Những người phụ nữ nhìn chằm chằm về phía tôi rồi nhìn chằm chằm vào túi xách của họ. Có những người đàn ông vạm vỡ khác trên tàu nhưng họ đã quen với việc nhờ tôi.

“Vậy là anh về nhà,” cô bạn ngồi cùng tôi nói, nghiêng người về phía trước và mỉm cười. Cô đã bôi thứ gì đó lên môi để khiến chúng trông thật rực rỡ. Nhìn từ xa, chúng tôi như một cặp đôi đã đính hôn đang chuyện trò tình tứ. Cô ghé sát tôi đến nỗi tôi còn ngửi thấy mùi dầu gội thoang thoảng của cô.

“Dịp Lễ Tạ ơn mà,” tôi đáp.

“Tuyệt.” Cô khẽ gật đầu và cứ nhìn tôi chằm chằm khiến tôi có thể nhìn thấy rõ mí mắt trái của cô hơi sụp xuống. Tôi sẽ chẳng nhận ra điều này nếu cô không nhìn tôi chăm chú như vậy. “Harrisburg?”

“Philadelphia,” tôi nói, và bởi chúng tôi đang ở rất gần đó nên tôi đã nói rõ thêm. “Elkins Park.” Trong một phút tôi đã quên mất rằng mình không còn sống ở Elkins Park nữa. Nếu nói đến nơi ở thì tôi đang sống ở Jenkintown. Maeve sống ở Jenkintown.

Khi tôi nhắc đến Elkins Park, mắt cô sáng rực. “Rydal này.” Cô đưa tay lên chiếc khăn len màu xanh choàng quanh cổ. Elkins Park cách Rydal một khu phố, cũng có nghĩa chúng tôi từng là hàng xóm của nhau. Một người phụ nữ nghiêng người về phía chúng tôi định nói gì đó nhưng cô bạn ngồi cùng tôi đã xua tay ra hiệu cô ấy đừng làm phiền.

“Cô quen Buzzy Carter chứ?” Tôi hỏi vì không ai ở Rydal là không biết Buzzy. Cậu ấy và tôi cùng đi học Hướng đạo sinh, sau đó đối đầu với nhau ở giải bóng rổ tổ chức thường niên tại khu vực. Cậu ấy sinh ra đã nổi tiếng rồi. Vào thời chúng tôi lên trung học cậu ấy là một đối tượng hoàn hảo khi luôn đạt điểm cao ở trường, có nụ cười tỏa nắng và thường ghi đến bốn mươi điểm một trận chưa kể các pha kiến tạo. Cậu được nhận học bổng toàn phần để chơi bóng ở trường Penn.

“Anh ấy học trước tôi một khóa,” cô nói với vẻ mặt thường thấy của các cô gái khi nghĩ về Buzz. “Chẳng hiểu sao anh ấy lại đưa em họ tôi đến buổi khiêu vũ năm nhất. Anh học ở Cheltenham sao?”

“Bishop McDevitt,” tôi nói, không muốn giãi bày quá nhiều, “nhưng hai năm qua tôi học ở trường nội trú.”

Cô cười khúc khích. “Cha mẹ không chịu nổi anh sao?”

Tôi thích cô gái này. Nói vậy chứng tỏ cô có một cuộc sống tốt. “Ừ, kiểu vậy,” tôi xác nhận.

Khi tàu lại rời ga, chúng tôi giữ lời hứa coi nhau như hai người lạ, cô chúi đầu vào tập thơ còn tôi nghiến ngấu cuốn sách hóa. Yên lặng ngồi với nhau, chúng tôi dường như quên bẵng không gian và thời gian.

Khi tàu vào ga đường 30, người phụ nữ với chiếc va li kẻ sọc, người khơi mào mọi chuyện đã lao thẳng đến chỗ tôi, kéo tôi đến chỗ bà để lấy túi giúp vì nó bị mắc kẹt giữa những chiếc túi khác. Ngay cả khi trèo lên chỗ để tay bà cũng không thể với tới nó. Sau đó, rất nhiều phụ nữ cần giúp đỡ, đến mức tôi lo lắng rằng cánh cửa tàu sắp đóng và tôi sẽ phải đi tàu đến ga Paoli rồi quay lại. Tôi thấy mái tóc vàng óng của cô bạn ngồi cùng đang tiến dần về phía cửa. Chắc cô đợi để xuống lúc đó cho vãn người hoặc chẳng vì lẽ gì cả. Tôi tự nhủ điều đó chẳng quan trọng. Tôi vội vàng kéo chiếc túi cuối cùng cho một phụ nữ, người mong tôi sẽ mang nó xuống sân ga cho bà, rồi túm lấy chiếc áo khoác và va li của mình cùng cuốn sách giáo khoa, lao xuống tàu ngay trước khi cánh cửa đóng lại.

Không khó để kiếm được chị gái tôi. Lý do thứ nhất, chị cao hơn hầu hết mọi người. Lý do thứ hai là chị luôn đến đúng giờ. Nếu tôi đi bằng tàu, Maeve sẽ là người đứng trước, ở vị trí trung tâm trong đám người đang đợi. Chị đã ở đó vào thứ Tư trước ngày Lễ Tạ ơn này với quần jeans và chiếc áo len màu đỏ tưởng chừng đã mất của tôi. Chị vẫy tôi nhưng khi tôi định đưa tay lên vẫy lại thì bạn đồng hành bất đắc đĩ đã nắm lấy cổ tay tôi.

“Tạm biệt nhé!” Cô gái tóc vàng nói, mỉm cười. “Chúc may mắn với môn Hóa.” Cô vác túi xách lên vai. Tôi đoán cô hạ túi xách xuống để đợi tôi.

“Cảm ơn nhé.” Tôi có một mong muốn kỳ quặc như thể muốn giấu cô ấy hoặc đuổi cô ấy đi nhưng Maeve đã sải bước về phía chúng tôi. Maeve ghì siết tôi trong vòng tay, nhấc bổng tôi lên khỏi mặt đất và lắc lắc. Lần đầu chị làm vậy là vào Lễ Phục sinh đầu tiên tôi từ Choate về nhà và chị vẫn tiếp tục làm vậy để chứng minh mình có thể làm được.

“Em quen ai trên tàu sao?” Maeve hỏi, nhìn thẳng vào tôi thay vì cô gái.

Tôi quay sang cô gái. Cô có dáng người hoàn hảo, mặc dù mọi người đều trông nhỏ bé khi đứng giữa tôi và Maeve. Lúc đó tôi mới chợt nhớ ra mình chưa hỏi tên cô.

“Celeste,” cô gái nói và chìa tay ra, vậy nên bọn tôi bắt tay nhau. “Maeve,” Maeve giới thiệu và tôi tiếp lời: “Dany,” chúng tôi chúc nhau một Lễ Tạ ơn an lành, tạm biệt rồi bước đi.

“Chị cắt tóc!” Tôi rú lên khi thoát khỏi chỗ đông người. Maeve đưa tay lên chạm vào cổ, ngay dưới mái tóc đen đã được cắt ngắn ngang vai. “Em thấy đẹp không? Chị nghĩ kiểu tóc này khiến mình trông chững chạc hơn.”

Tôi bật cười. “Em cứ nghĩ chị sẽ phát ốm nếu lúc nào trông cũng chững chạc.”

Chị quàng tay tôi, nghiêng đầu qua một bên để tựa vào vai tôi. Tóc chị đổ về phía trước che lấp khuôn mặt nên chị khẽ hất tóc ra sau. Giống như một thiếu nữ, tôi nghĩ, rồi chợt nhớ ra Maeve cũng là một thiếu nữ.

“Đây sẽ là bốn ngày tuyệt nhất trong năm,” chị nói. “Bốn ngày tuyệt nhất cho đến lúc em về đón Giáng sinh.”

“Hay Giáng sinh chị đến thăm em đi. Em thăm chị vào Lễ Phục sinh khi chị học đại học mà.”

“Chị không thích đi tàu,” Maeve nói như thể đó là dấu chấm hết cho việc đó.

“Chị có thể lái xe mà.”

“Đến Manhattan ư?” Chị nhìn chằm chằm về phía tôi để nhấn mạnh sự ngốc nghếch của lời đề nghị đó. “Bắt tàu dễ hơn nhiều.”

“Tàu hỏa đúng là ác mộng,” tôi nói.

“Thế cô bé có phải là ác mộng không?”

“Không, cô ấy khá ổn. Thật ra cô ấy cũng giúp nhiều.”

“Em thích cô bé sao?” Chúng tôi đã ra gần đến bãi đỗ xe. Maeve khăng khăng lái xe đến đón tôi.

“Em thích cô ấy cũng như chị thích người ngồi cùng băng ghế với mình trên tàu thôi.”

“Nhà con bé ở đâu?”

“Sao chị phải quan tâm việc đó chứ?”

“Vì con bé vẫn đứng đó chờ mà chẳng có ai đón. Nếu em thích con bé thì chúng ta có thể cho con bé đi nhờ.”

Tôi dừng lại, ghé mắt qua vai. Cô ấy không nhìn về phía chúng tôi mà đang ngó sang hướng khác. “Giờ chị còn có mắt ở sau gáy nữa cơ à?” Tôi luôn nghĩ điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Celeste, người tỏ vẻ giỏi xoay xở lúc trên tàu giờ trông như bị lạc ở nhà ga. Cô ấy đã cứu tôi khỏi một núi hành lý. “Cô ấy đến từ Rydal.”

“Chúng ta có thể dành thêm mười phút để lái xe đến Rydal.”

Maeve biết rõ nơi này hơn tôi. Chị cũng là người rất tử tế. Chị đứng chờ với đám hành lý để tôi lại hỏi xem Celeste có cần đi nhờ không. Sau khi dành vài phút để đi xung quanh nhà ga tìm người thân của cô, không rõ là ai ra đón Celeste, cô hỏi tôi xem có phiền không nếu cô đi nhờ. Tôi nói không có vấn đề gì. Cả ba chúng tôi đi cùng nhau đến bãi đỗ xe, Celeste thì luôn miệng xin lỗi. Cuối cùng, cô chui vào ghế sau chiếc Volkswagen của chị tôi và chúng tôi đưa cô về nhà.

*

“Em là người đề nghị chúng ta nên cho con bé đi nhờ,” Maeve khẳng định chắc nịch. “Chị nhớ rất rõ là thế. Chúng ta định đến nhà luật sư Gooch vào Lễ Tạ ơn và chị muốn về nhà làm bánh, em thì nói rằng em đã gặp cô gái này trên tàu và hứa sẽ đưa con bé về nhà.”

“Luyên thuyên. Chị chẳng làm được cái bánh nào trong đời sất.”

“Chị cần đến tiệm bánh để lấy chiếc bánh mà mình đã đặt.”

Tôi lắc đầu. “Em luôn đi chuyến 4:05. Lúc em tới nơi rất có thể tiệm bánh đã đóng cửa.”

“Em có thôi đi không! Ý chị là chị không chịu trách nhiệm về Celeste.”

Chúng tôi ở trong xe chị và cười lớn. Chị bán chiếc Volkswage nhiều năm trước, thay bằng một chiếc Volvo với hệ thống ghế sưởi. Con xe này hoạt động tốt ngay cả vào những ngày tuyết rơi.

Nhưng vào ngày đặc biệt này trời chỉ lạnh chứ không có tuyết. Ngôi nhà của Người Hà Lan đã sáng đèn - đây là truyền thống mới của nhiều năm sau đó: sau khi tôi và Celeste hẹn hò, chia tay rồi quay lại với nhau, sau khi chúng tôi kết hôn, sau cả khi May và Kevin ra đời, sau khi tôi trở thành bác sĩ và thôi làm bác sĩ, sau nhiều năm cố gắng để có Lễ Tạ ơn cùng nhau một cách văn minh rồi bỏ cuộc. Hằng năm, Celeste cùng tôi và lũ trẻ lái xe từ thành phố đến Rydal vào thứ Tư trước Lễ Tạ ơn. Tôi để ba người họ ở nhà ăn tối với bố mẹ cô ấy rồi đi ăn tối với chị gái tôi. Vào Lễ Tạ ơn, Maeve cùng một nhóm người ở nhà thờ phục vụ bữa trưa cho người vô gia cư, còn tôi thì quay lại ăn với đại gia đình ngày càng lớn dần của Celeste. Buổi tối, tôi và lũ trẻ sẽ trở lại Jenkintown gặp Maeve. Chúng tôi mang cho chị hàng đống thức ăn còn lại từ ban trưa và vài miếng bánh mẹ Celeste tự làm. Chúng tôi ăn đồ ăn đã nguội lạnh trong lúc chơi pocker trên bàn ăn. Con gái tôi, đứa trẻ sớm bộc lộ tính cách bẩm sinh trong việc trầm trọng hóa mọi thứ, nói rằng điều đó còn tồi tệ hơn cả việc có cha mẹ ly dị - việc đi đi lại lại đó. Tôi nói với con bé rằng con bé không hiểu mình đang nói gì đâu.

“Chị tự hỏi liệu Norma và Bright có còn về nhà trong Lễ Tạ ơn không,” Maeve nói. “Liệu chúng có lấy người mà Andrea ghét không.”

“Ôi, chúng phải về chứ,” tôi nói, và ngay lập tức thấy được mọi chuyện sẽ diễn ra như thế nào. Tôi cảm thấy tiếc nuối cho những người mà tôi chẳng bao giờ gặp. “Thật tội nghiệp cho kẻ khốn cùng nào được đưa đến Ngôi nhà của Người Hà Lan.”

Maeve lắc đầu. “Thật khó có thể tưởng tượng được ai sẽ là người đủ tốt với chúng.”

Tôi nhìn chằm chằm chị gái, nghĩ rằng chị sẽ hiểu câu nói đùa này nhưng có vẻ chị không hiểu.

“Sao thế?”

“Đấy là những gì Celeste luôn nói về chị,” tôi kể.

“Celeste luôn nói gì về chị cơ?”

“Rằng chị nghĩ không ai đủ tốt với em.”

“Chị chưa từng nói vậy. Chị chỉ nói rằng em có thể tìm được ai đó tốt hơn cô ả.”

“À,” tôi nói, thừa nhận. “Dễ mà.” Vợ tôi hay chê bai chị gái tôi và chị gái tôi thường chê bai vợ tôi, tôi phải đành nghe cả hai bọn họ nói xấu nhau vì chẳng còn cách nào khác. Trong nhiều năm tôi đã làm mọi cách để thay đổi thói quen đó nhằm bảo vệ người này trước người kia nhưng đều thất bại. Tuy nhiên họ đều biết giới hạn của mình.

Maeve nhìn qua cửa sổ ngôi nhà. “Celeste sinh ra những đứa trẻ xinh xắn,” Maeve nói.

“Cảm ơn chị.”

“Chẳng giống con bé tẹo nào.”

Ước gì chúng ta sống trong một thế giời mà đàn ông, phụ nữ và trẻ em đều được trang bị thiết bị ghi âm và ghi hình. Tôi rất muốn tung ra bằng chứng không thể chối cãi được từ ký ức của bản thân nhưng cả vợ và chị gái tôi đều không ủng hộ việc này: chính Maeve là người đã chọn Celeste, còn Celeste thì như tìm thấy tình yêu đích thực của đời mình. Đó là năm 1968, trên chuyến xe phủ đầy tuyết trắng đi từ ga đường 30 đến nhà cha mẹ Celeste ở Rydal. Maeve tử tế và ấm áp đến nỗi băng trên đường cũng muốn tan chảy vì chị. Celeste ngồi ghế sau, chen chúc giữa đống va li, đầu gối co lên vì chật chội. Maeve chăm chú nhìn vào gương chiếu hậu khi hỏi: “Em học trường nào?”

Celeste là sinh viên năm thứ hai Đại học Thomas More. “Em chỉ mong được học trường Fordham.”

“Đấy cũng là nơi chị định học đấy. Chị đã muốn học trường dòng.”

“Thế chị học ở đâu?” Celeste hỏi.

Maeve thở dài. “Barnard. Họ cấp học bổng cho chị.”

Theo như tôi được biết thì câu chuyên này không có vẻ gì là sự thật. Chắc chắn Maeve chưa bao giờ được nhận học bổng.

“Em đang học gì vậy?” Maeve hỏi.

“Em học chuyên ngành tiếng Anh ạ. Em sẽ phải học thơ ca Mỹ thế kỷ XX trong học kỳ này.” Celeste trả lời.

“Thơ ca là môn học yêu thích của chị đấy!” Lông mày Maeve nhướn lên đầy kinh ngạc. “Chỉ là chị không theo được nó ấy. Việc đó cũng ảnh hưởng đến việc tốt nghiệp. Không ai bắt nên cũng chắng dành nhiều thời gian để đọc ấy.”

“Chị từng học môn về thơ ca sao?” Tôi ngơ ngác hỏi chị.

“Ngôi nhà buồn lắm,” Maeve ngâm nga. “Vẫn đứng nguyên, chờ người đến rồi lại đi. Nhà chẳng biết làm gì, đành héo hon giúp người phòng trộm cắp.”

Khi chắc chắn Maeve đã ngừng lại, Celeste tiếp tục ngâm với giọng dịu dàng hơn. “Và khi nghĩ lại lúc ban đầu, mọi thứ từng vui vẻ từ lâu đã tan biến. Có thể nhìn ra tàn tích đó từ những bức tranh, những bộ dao thìa. Âm thanh phát ra từ những phím đàn. Bình hoa.”

“Larkin[2]!” Cả hai cùng reo lên. Ngay lúc đó họ nhận ra sự đồng điệu, Maeve và Celeste. Đó chính là thời khắc họ nghĩ mình là tri kỷ của nhau.

Tôi nhìn Maeve với ánh mắt kinh ngạc. “Sao chị biết?”

“Chị không kể rõ chương trình học với thằng bé.” Maeve bật cười, hất đầu về phía tôi, Celeste cũng khúc khích cười theo.

“Chuyên ngành của chị là gì vậy?” Celeste hỏi. Tôi quay lại nhìn cô, cảm giác thật khó hiểu. Cả hai bọn họ.

“Kế toán.” Maeve về số rồi nhẹ nhàng lái xe xuống ngọn đồi đầy tuyết. Qua sông và qua rừng. “Rất buồn tẻ nhưng thực tế. Chị cần kiếm sống.”

“Vâng, chắc chắn rồi,” Celeste gật đầu.

Nhưng Maeve không học chuyên ngành Kế toán. Trường Barnard không có chuyên ngành này. Chị học chuyên ngành Toán và luôn đứng đầu lớp. Kế toán là công việc chị làm, không phải chuyên ngành chị học. Chị có thể nhắm mắt mà vẫn làm kế toán được.

“Kia là một Giáo hội Giám nhiệm nhỏ xinh.” Maeve giảm tốc trên đường Homestead. “Chị đã từng dự đám cưới một lần. Khi chị còn nhỏ, các nữ tu sẽ nổi giận nếu họ nghe nói bọn chị từng bước chân vào một nhà thờ Tin Lành.”

Celeste gật đầu, không nhận ra rằng mình đang bị hỏi dò. Thomas More là trường dòng nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc cô gái ngồi sau xe này là người Công giáo. “Gia đình em đến Nhà nguyện Hilary.”

Cô ấy là người Công giáo.

Khi đến nơi, chúng tôi mới thấy ngôi nhà khiêm tốn hơn rất nhiều so với Ngôi nhà của Người Hà Lan nhưng đẹp hơn rất nhiều so với căn hộ mà Maeve đang ở. Ngôi nhà của Celeste được xây theo lối kiến trúc thuộc địa với màu vàng và đường viền trắng. Hai cây phong trơ trọi ở sân trước, một cây được mắc một bên xích đu. Đây là kiểu nhà khiến người nhìn liên tưởng đến một tuổi thơ đầm ấm, hạnh phúc và trong trường hợp của Celeste, mọi liên tưởng đó đều là sự thật.

“Chị thật tốt bụng,” Celeste nói.

Maeve ngắt lời cô: “Bọn chị sẽ đưa em vào.”

“Nhưng chị không...”

“Chị đã đi đến đây rồi,” Maeve tiến vào chỗ đỗ xe. “Việc đơn giản nhất bọn chị có thể làm được là tiễn em đến cửa.”

Đằng nào cũng phải xuống xe nên tôi dựng thẳng ghế rồi ngả người ra sau để giúp Celeste bước ra khỏi xe, sau đó giúp cô lấy hành lý. Cha cô hôm nay phải ở lại phòng khám nha khoa để làm việc muộn do phòng khám sẽ đóng cửa vào Lễ Tạ ơn và ngày sau đó. Mọi người sẽ về nhà trong kỳ nghỉ lễ với những chiếc răng sâu đã được trám kỹ lưỡng. Nhìn thấy Celeste, hai cậu em trai của cô hét toáng lên vui mừng, bỏ mặc lũ bạn đang xem ti vi, lao ra chỗ cô. Chú chó Lab màu đen tên Lumpy còn đón tiếp cô nồng nhiệt hơn. Celeste kể: “Khi còn nhỏ tên cậu chàng là Larry nhưng càng lớn thì da cậu chàng ngày càng sần sùi nên bọn tôi gọi là Lumpy[3].”

Mẹ của Celeste rất thân thiện và vui tính. Bà đang nấu bữa tối cho hai mươi hai người họ hàng sẽ đến vào chiều hôm sau. Thật ngạc nhiên khi bà quên mất việc đi đón đứa con thứ ba của mình ở ga tàu. (Gia đình Norcross có năm người con.) Giới thiệu xong xuôi, Maeve bảo Celeste viết số điện thoại của mình ra giấy rồi nói rằng chị thường xuyên lái xe vào thành phố nên nếu cô cần thì chị có thể cho đi nhờ, thậm chí lần sau cô ấy có thể ngồi ghế trước. Celeste rất biết ơn vì điều đấy, mẹ cô cũng vậy, bà đang khuấy nồi nam việt quất trên bếp.

“Hai đứa ở lại đây ăn tối đi. Ta biết ơn hai đứa lắm!” Mẹ của Celeste nói rồi chợt nhận ra mình đã nói hớ. “Ta đã nói gì chứ? Các cháu đang trên đường về nhà. Columbia! Chắc cha mẹ đang mong ngóng các cháu lắm.”

Maeve cảm ơn bà về lời mời, đón nhận cái ôm tạm biệt của Celeste. Cô nàng bắt tay tôi. Chị gái và tôi bước xuống lối đi đầy tuyết. Ánh sáng rực rỡ tỏa ra từ khắp các ngôi nhà hai bên đường. Mọi người ở Rydal đều về nhà vào Lễ Tạ ơn.

“Từ khi nào chị học môn về thơ ca vậy?” Tôi hỏi khi chúng tôi leo lên xe.

“Từ khi chị thấy con bé nhét một tập thơ trong cặp.” Maeve điều chỉnh máy sưởi trên xe trong vô vọng. “Thì sao?”

Maeve không bao giờ cố gây ấn tượng với bất kỳ ai, kể cả luật sư Gooch, người mà tôi nghĩ chị đang thầm yêu. “Sao chị lại muốn Celeste nghĩ chị thích đọc thơ chứ?”

“Vì sớm muộn gì em cũng yêu ai đó và chị thà thấy em yêu một cô gái Công giáo ở Rydal còn hơn một cô theo đạo Phật, chị không biết nữa, đến từ Marocco chẳng hạn.”

“Chị nghiêm túc đấy chứ? Chị đang cố tìm bạn gái cho em sao?”

“Chị chỉ đang bảo vệ quyền lợi của chính mình thôi. Đừng nghĩ nhiều.”

Tôi đã làm thế.

Chú thích:

[1] Adrienne Rich (1929-2012): nữ thi sĩ, một trong những nhà thơ được đọc nhiều nhất. Bà được ghi nhận là người ủng hộ nữ quyền. Tên tác phẩm trong nguyên tác là Necessities of Life.

[2] Philip Arthur Larkin (1922-1985): nhà thơ, tiểu thuyết gia người Anh.

[3] Lumpy có nghĩa là sần sùi.