← Quay lại trang sách

Chương 9

Nếu bạn sống ở Jenkintown vào năm 1968 hoặc học ở Choate, rất có thể bạn sẽ đi qua đường và bắt gặp hầu hết mọi người, ngay cả chỉ để gật đầu và chào nhau một tiếng nhưng New York là một nơi khác hẳn. Hàng loạt các khả năng đều có thể xảy ra mỗi giờ và việc chọn đi bộ xuống một con phố thay vì một con phố khác có khả năng thay đổi mọi thứ như bạn sẽ gặp ai, bạn sẽ thấy gì hoặc bắt gặp những thứ bạn muốn tránh xa. Trong những ngày đầu mới yêu, Celeste rất thích kể lại câu chuyện lần đầu gặp gỡ của bọn tôi cho bạn bè, cho những người xa lạ, hoặc đôi khi là cho chính tôi khi chúng tôi ở riêng với nhau. Em kể mình định đi chuyến tàu 1:30 từ ga Penn vào ngày hôm đó nhưng bạn cùng phòng muốn cùng nhau đi tàu điện ngầm đến tận Grand Central. Do cô bạn cùng phòng thu xếp đồ đạc quá lâu nên họ bỏ lỡ chuyến tàu.

“Em có thể đã lên một chuyến tàu vào khung giờ khác,” em nói, gục đầu vào ngực tôi. “Hoặc em có thể bắt chuyến 4:05 nhưng một con tàu khác khác. Hoặc cũng chuyến tàu đó nhưng ngồi ghế khác. Chúng ta có thể đã bỏ lỡ nhau.”

“Có thể lỡ nhau hôm đó,” tôi nói, lướt các đầu ngón tay dọc theo những lọn tóc vàng rực rỡ của em. “Nhưng rồi anh cũng sẽ tìm thấy em.” Tôi nói vì biết Celeste luôn muốn nghe điều này. Em là cô gái ấm áp đang nằm gọn trong vòng tay tôi, người toát ra mùi xà phòng Ivory. Nhưng một phần tôi cũng tin vào điều đó, nếu không phải vì lãng mạn thì ít nhất cũng là bởi xác suất: hai đứa trẻ đến từ Jenkintown và Rydal cùng học đại học ở New York sẽ gặp nhau ở đâu đó trên đường.

“Lý do duy nhất em chọn chỗ đó là do em nhìn thấy cuốn sách hóa học. Thậm chí lúc đó anh còn chẳng ngồi đó.”

“Đúng vậy,” tôi nói.

Celeste mỉm cười. “Em luôn thích môn Hóa.”

Celeste rất hạnh phúc trong những ngày đó, mặc dù nhìn lại thì em là nạn nhân bất đắc dĩ của việc sai thời điểm. Em nghĩ rằng vì mình học giỏi hóa nên em nên kết hôn với một bác sĩ thay vì trở thành bác sĩ. Nếu em sinh trễ chỉ vài năm thôi, em sẽ hoàn toàn thoát khỏi cái bẫy đó.

Cuốn sách hóa học đã tạo ra cơ hội giữa em và tôi. Nếu tôi để ý vào việc học từ đầu học kỳ, Tiến sĩ Able sẽ chẳng có lý do gì để nhắc nhở tôi về việc tôi có thể trượt môn Hóa và tôi cũng sẽ không cầm cuốn Hóa Hữu cơ trong tay. Ai mà biết được một cuốn sách hóa học lại có thể là miếng mồi đối với những cô nàng xinh đẹp chứ?

Nếu không suýt trượt, tôi đã không đọc sách hóa trên tàu. Nếu không đọc sách hóa trên tau, tôi đã không gặp Celeste và cuộc sống của tôi như đã biết, sẽ chẳng bao giờ đi theo hướng đó.

Nhưng nếu chỉ kể câu chuyện này trên phương diện sách và xe lửa, hóa học và em là tôi đã bỏ lỡ lý do việc mình thiếu chút nữa là trượt môn Hóa từ bước đầu.

Maeve đã thiêu rụi toàn bộ hy vọng của tôi về việc đầu quân cho đội bóng rổ Columbia. Chị nói rằng điều đó sẽ làm tôi phân tâm, ảnh hưởng đến bài tập trên lớp, làm hỏng bảng điểm và mất đi cơ hội tiêu hết quỹ ủy thác trước khi Norma và Bright có thể chạm vào chúng. Tôi và bọn chúng không phải là một đội. Kết quả là tôi chơi bóng khi thấy bất kỳ trận đấu nào. Vào một sáng thứ Bảy đầy nắng đầu năm nhất, tôi đã gặp năm chàng trai từ Columbia đến công viên Mount Morris trong một trận bóng. Nhóm chúng tôi gầy, tóc tai lòa xòa, râu ria xồm xoàm, đeo kính và có đứa còn chẳng buồn đi dép. Ari, người ra khỏi ký túc xá với đôi chân trần, nói với chúng tôi rằng cậu ấy nghe nói luôn có những kẻ muốn được thua ở Mount Morris. Sự ra oai của cậu đã gây ấn tượng mạnh cho chúng tôi dù giờ nhớ lại, tôi khá chắc rằng cậu ta không biết mình đang nói cái gì. Những cậu trai Harlem là những tên máu chiến. Trong khi Thị trưởng Lindsay muốn cải cách thì học sinh Columbia vẫn có xu hướng giậm chân tại chỗ. Mọi chuyện đã khác vào năm 1959 khi Maeve đến Barnard. Những cô gái và bạn hẹn của họ vẫn diện đồ đẹp để đến Apollo thưởng thức đêm huyền thoại cho những kẻ chẳng biết thế nào là hẹn hò. Nhưng đến năm 1968, niềm hy vọng của nước nhà đã sụp đổ. Những cậu trai Columbia vẫn đến trường, còn học sinh Harlem thì tham gia chiến đấu, mặc dù sự thật này không cản được những trận đấu giao hữu của hai bên vào thứ Bảy.

Sáu người chúng tôi nhận được thông điệp khi đang trên đường đến công viên. Chúng tôi luôn để ý xung quanh, do đó nhìn thấy ánh mắt của mọi người đi ngang chúng tôi - những đứa trẻ nằm ngoài bậc cửa, những người đàn ông tụ tập trong góc phòng và những người phụ nữ dựa vào cửa sổ đang hé mở - mọi người đều để ý chúng tôi. Những người phụ nữ và thiếu nữ đi ngang mong chúng tôi nên về nhà và chết quách ở đó cho rồi. Những túi rác chất đống dọc lề đường bục ra, rác rưởi tràn hết ra phố. Một người đàn ông mặc áo ba lỗ trắng với lấy một chiếc đĩa có kích cỡ bằng đĩa ăn cơm nhét vào sau lưng rồi dựa lưng vào cửa ô tô đang mở, bật đài to lên. Một tòa nhà xây bằng đá kết nâu với cửa sổ bị niêm phong, mất cửa chính. Trên đó treo một tấm biển: Tịch thu tài sản để nộp thuế. Bán đấu giá công khai. Tôi có thể hình dung cha sẽ viết thời gian đấu giá trong cuốn sổ nhỏ ông để trong túi ngực.

“Tấm biển như vậy,” một lần cha nói với tôi khi tôi còn nhỏ, chúng tôi đang đứng trước tòa nhà chung cư ở phía Bắc Philadelphia, “có nghĩa là Hãy đến và lấy nó.”

Lúc đó tôi nói rằng tôi không hiểu.

“Người chủ đã bỏ cuộc, ngân hàng đã bỏ cuộc. Cục thuế là bên duy nhất không từ bỏ vì họ không bao giờ từ bỏ. Tất cả những gì con phải làm để sở hữu ngôi nhà là trả thuế.”

“Conroy!” Một đứa trong lớp hóa tên Wallace cất giọng gọi tồi. “Nhanh chân lên.” Chúng đã đi qua khu nhà và còn một mình chàng trai da trắng là tôi đứng như phỗng ở đó, tay cầm trái bóng rổ.

“Conroy! Nhấc cái mông lên!” Một trong ba đứa đang ngồi ở bậc thềm của tòa nhà kế hét lên. Còn đứa khác thì hét: “Conroy! Làm cho tao một cái bánh sandwich!”

Khoảnh khắc trên đường 120 đó đánh thức linh hồn tôi.

Tôi chỉ vào tòa nhà dán thông báo bán đấu giá. “Ai sống ở đây?” Tôi hỏi đứa yêu cầu tôi làm sandwich cho cậu ta.

“Làm thế đ* nào mà tao biết được?” Cậu ta nói với giọng điệu của đứa con nít mười tuổi.

“Nó là cớm đấy,” đứa thứ hai nói.

“Cớm không cầm bóng,” đứa thứ ba nói khiến cả ba bối rối.

Đội tôi đang đứng đợi và giờ họ quay trở lại nhanh hơn một chút. “Đi thôi anh bạn,” Ari nói.

“Hắn ta là cớm,” cậu ta nói lần nữa rồi chĩa ngón tay ra như một khẩu súng. “Tụi mày là cớm hết.”

Tôi ném một đường chuyền ngang ngực đứa mặc áo phông đỏ và nó ném lại về phía tôi. Một lần, rồi hai lần.

“Ném qua đây coi,” đứa ngồi cạnh nói.

“Đưa bọn này đến công viên,” tôi nói với đội của mình. “Tôi sẽ qua ngay.” Chẳng ai trong số họ nghĩ đấy là ý kiến hay - đồng đội của tôi và lũ trẻ ngồi trên bậc cửa, nhưng tôi đã quay lại quầy rượu ở góc đường để hỏi xem liệu tôi có thể mượn một cây bút hay không. Mọi thứ tôi cần biết được ghi gọn trong lòng bàn tay.

Trên đường đấu giao hữu ở Mount Morris, tôi trở thành người thừa hưởng những tài sản quý giá của cha, thứ còn quý giá hơn cả doanh nghiệp hay ngôi nhà của ông ấy. Toàn bộ cuộc sống của tôi lúc đó trở nên rõ ràng hơn như thể một thước phim màu: Tôi cần một tòa nhà, cụ thể là tòa nhà trên đường 120 gần Lenox để trở lại với con người thật của mình. Tôi sẽ tự lắp cửa sổ và thay cửa ra vào. Tôi sẽ sửa lại bức tường bong tróc, chà nhám sàn nhà và một ngày nào đó, tôi sẽ thu tiền thuê nhà vào các thứ Bảy. Maeve tin rằng trường y là định mệnh của tôi. Còn Celeste thì tin rằng cô ấy là định mệnh của tôi. Nhưng cả hai đều sai. Vào thứ Hai, tôi đã gọi cho luật sư Gooch và giải thích hoàn cảnh của mình: Cha tôi để lại quỹ chi trả cho việc học của tôi, vâng, nhưng nếu tôi sử dụng số tiền đó để mua một tòa nhà và theo nghề mà ông định hướng cho tôi thì chẳng phải là thỏa mong ước của ông và tốt hơn sao? Hãy nhìn quanh mà xem, toàn là bạo lực, rác rưởi và những món hời không thể với đến, Manhattan vẫn còn là một hòn đảo hoang nằm kề khu dân cư đang ngày càng mở rộng. Liệu có thể chuyển tiền từ quỹ ủy thác để làm những việc mà tôi muốn không? Luật sư Gooch đã kiên nhẫn lắng nghe trước khi giải thích rằng mong muốn và logic không thể áp dụng cho các quỹ ủy thác. Cha đã tạo ra nó để dành cho việc học chứ không phải sự nghiệp bất động sản của tôi. Hai tuần sau, tôi tham dự buổi đấu giá công khai tòa nhà làm thay đổi cuộc đời tôi. Nó được bán với giá một ngàn tám trăm đô. Tôi không có kế hoạch mua lại nó.

Nhưng như thường lệ, tôi đã nhầm. Tôi lui tới rất nhiều tòa nhà lân cận nhưng không thể nào tìm được một tòa nhà nào khác có tình trạng như vậy: đầy nhóc những cư dân bất hợp pháp và đã được lên lịch để bán đấu giá. Tôi dành nhiều thời gian ở Harlem đến mức tôi cảm thấy nghi ngờ cả bản thân mình. Người da trắng là những người luôn có nhu cầu muốn mua, bán, hoặc muốn phá rối việc mua bán của người khác. Tôi nằm trong số đó, dù tôi có ý định mua một thứ gì đó to lớn hơn một túi cỏ, và tôi thực sự muốn vậy. Trong khi hầu hết sinh viên Columbia chưa từng đến Harlem, tôi đã đi nhiều vòng quanh khu này. Tôi miệt mài tìm kiếm trong thư viện và phòng hồ sơ để tìm các loại thuế bất động sản và giá nhà trong vòng bán kính mười tòa nhà quanh đó. Tôi đặt lịch hẹn để xem các tòa nhà được rao bán và theo dõi các vụ tịch thu nhà trên báo. Điều duy nhất tôi bỏ quên là hóa học, rồi sau đó tôi bắt đầu bỏ bê cả tiếng La tinh, sinh lý học và lịch sử châu Âu. Cha dạy tôi cách kiểm tra những cái rầm dưới hiên nhà xem nó có bị hư không, cách nói chuyện với một người thuê nhà đang tức giận và cách đặt một lỗ thông khí nhưng tôi chưa bao giờ thấy ông mua thứ gì lớn hơn một cái sandwich. Tôi nhận ra mình chỉ biết hai chuyện về cuộc đời cha: khi ông sống nghèo khổ ở Brooklyn và khi ông sở hữu điều hành một công ty xây dựng rồi trở nên giàu có. Những gì tôi thiếu là cầu nối giữa hai câu chuyện. Tôi không biết làm thế nào mà ông từ nghèo khó chuyển sang giàu có.

“Bất động sản,” Maeve nói.

Tôi gọi cho chị vào thứ Bảy lúc chị đang ở nhà, ngốn hết một bao đồng xu hai mươi lắm cent tôi đã dành dụm được vào chiếc điện thoại công cộng ở ký túc xá. “Em biết là bất động sản nhưng bằng cách nào chứ? Cha mua những gì? Ai cho ông ấy vay khi ông ấy nghèo như ông vẫn thường nói?”

Đầu dây bên kia im lặng mất một phút. “Em đang làm gì đấy?”

“Em đang cố tìm hiểu chuyện gì xảy ra trong cuộc sống của chúng ta. Em đang làm công việc mà chị luôn làm, đó là giải mã quá khứ!”

“Vào sáng thứ Bảy,” chị hỏi lại, “qua điện thoại?”

Maeve chắc chắn là người tôi nên nói chuyện cùng vì chị ấy là chị tôi và chị có sở trường về tiền bạc. Nếu ai đó có thể giúp tôi giải quyết vấn đề thì đó chính là chị ấy. Nhưng Maeve không lắng nghe bất cứ thứ gì có thể khiến tôi rời giấc mơ trường y của chị. Ngay cả khi có thể nói chuyện với chị, tôi sẽ nói gì? Tôi đã tìm thấy một tòa nhà khác ở Harlem đang được bán đấu giá sao? Một căn nhà cho thuê có phòng tắm ở mỗi tầng? “Em chỉ đang cố tìm hiểu xem việc gì đã xảy ra,” tôi nói và sự thật là thế. Tôi đã dành vô số thời gian ở công ty của cha và không bao giờ hỏi ông ấy điều gì. Nhân viên tổng đài tiếp tục nói rằng tôi cần nạp bảy mươi lăm xu nữa trong vòng ba phút tới. Tôi quyết định bỏ thêm tiền thì đường dây đã ngắt.

Chỉ mình Tiến sĩ Able nhìn thấy tôi trượt dài, và chính ông đã gọi tôi vào văn phòng để đưa tôi quay trở về con đường hóa học chân chính. Ông nói tôi gặp thư ký để sắp xếp lịch gặp ông mỗi tuần một lần trong giờ hành chính. Ông ấy nói tôi không được vắng mặt buổi nào nữa và từ đó trở đi, tôi sẽ phải có mặt trong lớp dù sức khỏe có ra sao. Trong khi những sinh viên còn lại sẽ được giao bốn đến năm câu hỏi ở cuối mỗi chương, tôi phải trả lời tất cả các câu hỏi và đến văn phòng ông để kiểm tra các câu trả lời. Tôi không chắc rằng mình có bị phạt hay không nhưng dù cách nào đi chăng nữa, tôi nghĩ mình không đáng bị vậy.

“Gọi phụ huynh của trò qua đây,” ông nói với tôi vài ngày trước khi phụ huynh được đến thăm vào cuối tuần. “Ta sẽ nói cho họ biết trò đang làm tốt thế nào và giải tỏa tâm trạng lo lắng của họ.”

Tôi đứng trước cửa văn phòng Tiến sĩ Able và mất một nhịp để quyết định có nên nói cho ông ấy biết sự thật hay chỉ nói lời cảm ơn rồi để đó. Tôi quý người đàn ông đang tra tấn tôi này, nhưng câu chuyện của tôi rất phức tạp và có xu hướng khiến người khác thương hại, và tôi thì không chịu đựng nổi điều đó.

“Sao?” Ông hỏi lại, đợi câu trả lời của tôi. “Trò không có cha mẹ sao?”

Ông có ý đùa nên tôi cười. “Em không còn cha mẹ thầy ạ.”

“Chà, thứ Bảy ta sẽ ở văn phòng như một phần của buổi lễ nếu trò và người giám hộ hợp pháp của trò muốn đến.”

“Vâng,” tôi nói, cảm ơn ông rồi rời khỏi phòng.

Tôi xâu chuỗi câu chuyện một cách dễ dàng, và vài năm sau, Maurice Able, người được gọi với cái tên Morey, đã xác nhận nghi ngờ của tôi: ông đã đến văn phòng đăng ký để xem hồ sơ của tôi. Ông không nhắc về bố mẹ trước mặt tôi thêm lần nào nữa nhưng ông bắt đầu đề nghị chúng tôi tổ chức các cuộc họp hằng tuần vào buổi trưa tại cửa hàng bánh Hungary. Ông mời tôi đến dự những bữa ăn tối do vợ ông tổ chức cho sinh viên đã tốt nghiệp khoa Hóa. Ông để ý xem tôi học các môn khác thế nào và báo cho các giảng viên khác biết về hoàn cảnh của tôi. Morey Able đã thương hại tôi và trở thành cố vấn của tôi, nghĩ rằng chính tình trạng mồ côi đã khiến tôi lơ là trong học tập, nhưng thực ra đó là vì cha tôi. Học được nửa chừng đại học, tôi nhận ra mình rất giống cha.

Định luật Archimedes cho rằng một vật bị ngập hoàn toàn hoặc một phần trong một chất lỏng đều bị tác động bằng lực đẩy có độ lớn bằng trọng lượng của phần chất lỏng mà vật đó chiếm chỗ. Hay nói cách khác, bạn có thể giữ một quả bóng hơi ở dưới nước nhưng khi bạn thả nó ra, nó sẽ nổi lên. Trong suốt quá trình học tập dài vô tận, tôi đã kìm nén bản chất thật của mình. Tôi làm mọi thứ được yêu cầu nhưng vẫn giữ một danh sách bí mật gồm các tòa nhà được rao bán mà tôi đi qua: giá rao bán, giá bán thật, số tuần nó tồn tại trên thị trường. Tôi theo dõi các cuộc đấu giá tài sản tịch biên một cách thầm lặng như một thói quen khó bỏ. Giống như Celeste, tôi cũng đạt điểm A môn Hóa Hữu cơ. Sau đó, tôi tiếp tục học kỳ hai chuyên ngành Hóa sinh và năm tiếp nữa là Vật lý với hàng loạt các thí nghiệm ở năm thứ hai. Tiến sĩ Able, người bắt gặp tôi khi tôi đang vẫy vùng giữa vũng lầy, không khi nào rời mắt khỏi tôi nữa. Ngoại trừ nửa học kỳ đầu thì tôi luôn là sinh viên giỏi, nhưng ngay cả khi tôi quay lại đúng vị trí của mình, ông vẫn luôn nghĩ rằng tôi có thể làm tốt hơn. Ông dạy tôi cách học rồi học lại, học cho đến khi câu trả lời cho mỗi câu hỏi tôi đều nắm lòng. Tôi đã nói với ông rằng tôi muốn trở thành bác sĩ và ông tin tôi. Đến thời điểm nộp đơn ứng tuyển, ông không chỉ viết thư giới thiệu cho tôi mà còn đem đơn của tôi đi qua hai mươi lốc nhà và đưa tận tay cho lãnh đạo ban tuyển sinh ở trường Y Columbia.

Thực ra chẳng ai quan tâm đến chuyện tôi chưa bao giờ muốn trở thành bác sĩ. Bạn sẽ không thể tưởng tượng được một người có thể thành công trong lĩnh vực khó như y học lại không muốn làm nghề đó. Tôi là một nạn nhân của truyền thống tự khuất phục lâu đời. Tôi đoán ít nhất phân nửa số sinh viên lớp tôi không muốn học y. Chúng tôi chỉ cố hoàn thành những kỳ vọng được đặt ra cho chính chúng tôi: những đứa con trai bác sĩ được kỳ vọng sẽ nối nghiệp cha trở thành bác sĩ; những cậu con trai người nhập cư được kỳ vọng sẽ trở thành bác sĩ để giúp gia đình thoát nghèo, thoát khổ; những cậu con trai bị áp lực trở thành người chăm chỉ và thông minh nhất để một ngày có thể trở thành bác sĩ vì thời đó trường y là trường dành cho những đứa trẻ thông minh.

Phụ nữ đã được phép nhập học tại Columbia với tư cách là sinh viên nhưng chỉ có vài người học tại trường y. Ai mà biết được, có thể họ chính là những người duy nhất thực sự muốn học ngành này. Vào những năm 1970, không ai kỳ vọng con gái mình sẽ trở thành bác sĩ cả, vậy nên các cô gái phải đấu tranh cho điều đó. Tại trường P&S, viết tắt của của Trường Đại học Y học và Giải phẫu, có một đội kịch gồm các diễn viên là những bác sĩ tương lai, và xem các chương trình mà Câu lạc bộ P&S tổ chức - các bác sĩ X-quang và tiết niệu với khuôn mặt tô tô vẽ vẽ để khiến sân khấu sinh động hơn - chính là xem những ước mơ của họ nếu họ được là chính mình.

Ngày định hướng nghề nghiệp đầu tiên diễn ra trong một giảng đường có ghế ngồi như ở sân vận động. Nhiều khoa đưa ra những ca khó nhằn và nói với chúng tôi rằng có thể quay lại và thảo luận các ca này vào cuối năm sau khi đã nắm vững kiến thức nền. Trưởng khoa Phẫu thuật tim lên ca tụng những thành quả tuyệt vời của chương trình phẫu thuật tim, những đứa nói với gia đình muốn trở thành bác sĩ phẫu thuật tim sẽ huýt sáo và vỗ tay, chúng đều nghĩ rằng đấy chính là thành quả của mình vào một ngày không xa. Sau đó, một nhà thần kinh học bước ra, khán giả lại cổ vũ. Từng khoa đều có khoảnh khắc tỏa sáng: Thận! Phổi! Ôi, họ mới rạng rỡ làm sao! Chúng tôi là những kẻ thông minh nhất giữa những đám ngốc nghếch xung quanh.

Khi học trường y, tôi được lắp điện thoại bàn trong phòng như những sinh viên trường y khác. Ngay năm nhất, chúng tôi đã được báo rằng bệnh viện có thể gọi mình bất cứ lúc nào. Điện thoại của tôi đổ chuông khi tôi bước vào phòng ngay tuần thứ hai nhập học.

“Chị có tin cực vui cho em đây,” Maeve nói. Cước gọi đường dài sẽ giảm vào lúc sáu giờ và mười giờ. Giờ mới là năm giờ mười.

“Em nghe đây.”

“Hôm nay chị vừa ăn trưa với luật sư Gooch, giao lưu một chút. Ông ấy nghĩ giờ ông ấy như cha chị vậy. Giữa buổi, ông ấy có kể rằng Andrea đã liên lạc với ông.”

Đã có lúc tin tức này khiến tôi phấn khích phát điên nhưng giờ tôi đã quá mệt mỏi để quan tâm đến điều đó. Nếu bây giờ tôi bắt đầu làm bài tập luôn, tôi có thể ngủ lúc hai giờ sáng. “Rồi sao?”

“Con mụ đó gọi cho luật sư Gooch để nói rằng bà ta nghĩ việc em đi học ở trường y là quá đáng. Bà ta nói bà ta tin rằng quỹ ủy thác chỉ dành cho các trường đại học bình thường.”

“Ai khiến bà ta tin vào điều đó vậy?”

“Chẳng ai cả. Bà ta chỉ đang bịa ra mà thôi. Con mụ đó nói rằng mình không phàn nàn về chuyện học ở Choate vì em vừa mất cha nhưng vào thời điểm này, bà ta cảm thấy chúng ta đang bòn rút quỹ ủy thác.”

“Thì đúng là chúng ta đang bòn rút quỹ ủy thác.” Tôi ngồi xuống chiếc ghế đơn đặt ở bếp, dựa vào chiếc bàn nhỏ. Điện thoại được lắp ở trên tủ tường, trong bếp. Một con gián len lén bò trên mặt tủ tường kim loại rồi chui xuống dưới cánh cửa ngay trước mắt tôi.

“Ông ấy nói với chị rằng bà ta đã tra cứu học phí của trường Columbia và thấy rằng đây là trường y khoa đắt đỏ nhất trong nước. Em biết không? Đắt đỏ nhất! Con quỷ đó nói rằng đó là bằng chứng chỉ ra rằng mọi chuyện đều là âm mưu chống lại bà ta. Em có thể đến học ở Penn với mức học phí bằng một nửa Columbia và để lại một ít tiền cho lũ trẻ con bà ta. Bà ta nói với luật sư Gooch rằng bà ta sẽ không trả tiền cho việc học ở Columbia nữa.”

“Nhưng bà ta đâu có trả. Quỹ ủy thác trả mà.”

“Bà ta tự nhận mình đứng tên quỹ ủy thác.”

Tôi dụi mắt và gật đầu. “Vậy luật sư Gooch nói gì? Bà ta có quyền đó không?”

“Không!” Giọng hân hoan của Maeve vang lên bên tai tôi. “Ông ấy nói rằng em có thể ở lại trường trong suốt phần đời còn lại.”

“Điều đó sẽ chẳng xảy ra đâu.”

“Sao em biết được! Có rất nhiều điều thú vị để chúng ta theo đuổi. Em có thể học ở đó cho đến lúc chết.”

Tôi nghĩ đến mê cung vô tận của Trung tâm Nghiên cứu Bệnh viện Columbia, nơi các giáo sư trong chiếc áo khoác trắng phóng như bay tựa những vị thần. “Em không muốn trở thành bác sĩ. Chị biết mà, đúng không?”

Maeve nói luôn: “Em không phải trở thành bác sĩ, em chỉ cần phải học để trở thành bác sĩ. Sau khi hoàn tất việc học, em có thể đóng vai bác sĩ trên truyền hình, đó là tất cả những gì chị muốn. Em có thể làm gì em muốn, miễn là phải học.”

“Thôi dành thời gian cho những người khốn khổ đi,” tôi nói. Maeve dạy một lớp buổi tối về cách gây quỹ cho Tổ chức Từ thiện Công giáo và vào tối thứ Ba, chị thức khuya để chữa sổ và sửa những lỗi tính toán cho họ. “Em phải học đây.”

“Chị mong là em hạnh phúc với việc này,” chị nói. “Nhưng sự thật là gì không quan trọng. Chị hạnh phúc đủ cho cả hai chúng ta.”

Hạnh phúc chưa đến với tôi trong một thời gian nữa. Tôi học Mô - Phôi, Giải phẫu. Tôi hiểu rất nhanh những bài giảng hóa học mà Tiến sĩ Able đứng lớp: tôi trả lời được mọi câu hỏi ở cuối mỗi chương và trả lời lại vào sáng hôm sau. Chúng tôi được xếp thành các nhóm bốn người, mỗi nhóm được phân công khám nghiệm cho một cái xác với dụng cụ là một cái cưa và một con dao giải phẫu. Người chết duy nhất mà tôi nhìn thấy trước giờ là cha và tôi có thể dễ dàng hình dung một nhóm sinh viên trường y đang vây quanh giường ông như những con kền kền vây quanh con mồi, chờ được khám nghiệm. Mở ra, khâu lại. Tử thi mà chúng tôi nhận được già hơn cha tôi, nhỏ con hơn, da nâu. Miệng ông ta cũng mở toang hoác như thể đó là hành động cố gắng hớp chút không khí cuối cùng nhưng thất bại. Tôi đã nghĩ rằng để mổ và tìm căn nguyên cái chết của một người đàn ông như vậy tôi sẽ cần cẩn thận ở một mức nào đó nhưng sự thật thì không phải thế. Tôi làm điều đó để hoàn thành bài tập lớn. Một số bạn lớp tôi đã nôn mửa trong phòng thí nghiệm vào ngày đầu tiên, những người khác nôn ở phía ngoài hành lang hay phòng tắm, nhưng sự kinh khủng của công việc không ảnh hưởng đến tôi cho đến khi tôi đi ra ngoài. Mùi hương vừa ngọt vừa bệnh của chất formaldehyde vẫn dính chặt vào thành mũi tôi. Tôi nôn ra vỉa hè ở Washington Heights với những tên xì ke và những tay bợm rượu.

Thỉnh thoảng tôi gặp Celeste trong năm đầu và năm thứ hai đại học. Tôi cũng hẹn hò những cô gái khác nữa. Hẹn hò đòi hỏi phải chu đáo, có kế hoạch, có thời gian mà khi học trường y, tôi không có những thứ xa xỉ đó. Đi chơi với Celeste cảm giác ít giống với hẹn hò nhất. Em hầu như chẳng đòi hỏi gì nhưng lại cho đi nhiều nhất. Em luôn hài lòng, vui vẻ và xinh đẹp mà em nào có hay. Em đồng hành cùng tôi mỗi khi tôi bắt chuyến tàu về Philadelphia. Maeve và tôi sẽ chở em về Rydal, nhưng Celeste không bao giờ nằng nặc bắt tôi phải dành thời gian cho gia đình em. Ngày đó, Maeve và Celeste rất có cảm tình với nhau. Maeve rất vui vì học phí ở trường Columbia thuộc top đầu những trường đắt đỏ mà chúng tôi không phải trả một đồng nào. Celeste rất mừng vì nó nằm ở phía Bắc Columbia, rất thích hợp để em có thể qua thăm tôi từ Thomas More, nơi cô nàng đang theo học chuyên ngành Ngôn ngữ Anh. Căn hộ nhỏ của tôi cách trường hai dãy nhà nên Celeste sẽ đến từ Bronx sau khi tan lớp học cuối cùng chiều thứ Sáu, ở lại với tôi đến khi đến ca làm của mình ở quầy lễ tân văn phòng hiệu trưởng vào sáng thứ Hai. Khi chưa tốt nghiệp, chúng tôi phải lựa gặp nhau theo lịch của bạn cùng phòng với tôi, nhưng khi ở trường y chúng tôi lại phải chịu cảnh sống với nhau ba ngày một tuần, mà nhìn lại, khá giống cuộc hôn nhân của chúng tôi hiện tại. Chúng tôi sống theo quy tắc mà chúng tôi đã đặt ra khi chúng tôi gặp nhau trên tàu: tôi phải học và em phải để yên cho tôi học. Nhưng chúng tôi cũng sống ở nước Mỹ vào những năm 1969: chiến tranh vẫn đang diễn ra, người biểu tình tràn ra đường, sinh viên vẫn trưng dụng các văn phòng hành chính, và chúng tôi được quyền làm tình sử dụng các phương pháp tránh thai mà không cảm thấy tội lỗi. Tôi sẽ mãi gắn liền việc nghiên cứu giải phẫu cơ thể người không phải với những xác chết vô hồn mà là với cơ thể trẻ trung của Celeste đang nằm trần truồng trên giường tôi. Em để tôi lướt tay trên từng thớ cơ, xương và gọi tên chúng khi chúng tôi làm việc đó. Tôi có thể cảm nhận được những phần tôi không nhìn thấy của em, và nhờ đó, học được cách tốt nhất để gắn em với tôi. Niềm vui nho nhỏ mà tôi có được trong những ngày đó với Celeste là ngồi ăn món mì Tứ Xuyên trong hộp giấy trắng trên nóc bệnh viện vào đêm khuya, khi em nhận vé đi xem Gã cao bồi nửa đêm[1] từ vị giáo sư người Pháp, người đó có ý rủ em đi cùng. Chuyện của chúng tôi vẫn diễn ra tốt đẹp cho đến khi em chuẩn bị tốt nghiệp. Em muốn bắt đầu lên kế hoạch cho tương lai. Đó là khi em nói với tôi rằng chúng tôi phải kết hôn.

“Anh không thể kết hôn sau năm đầu học trường y được,” tôi nói, không muốn nói thẳng ra là mình không muốn kết hôn. “Mọi chuyện sẽ càng khó chứ không dễ như em nghĩ đâu.”

“Nhưng cha mẹ em sẽ không cho chúng ta sống cùng nhau, cũng sẽ không trả tiền để em có thể thuê nhà ở riêng và đợi đến khi anh học xong đâu. Họ không đủ khả năng để làm vậy!”

“Thế nên em sẽ kiếm việc làm phải không? Đó là việc mọi người làm sau khi tốt nghiệp đại học.”

Ngay sau khi nói điều đó, tôi hiểu ra rằng mình chính là công việc của Celeste. Các khóa học về thơ ca và luận văn của em về nhà văn Trollope được đánh giá tốt nhưng tôi mới là thứ em đang học. Em muốn giữ cho căn hộ sạch sẽ, dọn bữa tối và cuối cùng là sinh con cho tôi. Phụ nữ đọc về việc họ được giải phóng nhưng không nhiều người trong số họ biết nó thực sự như thế nào. Celeste không biết phải làm gì với cuộc sống hoàn toàn là của riêng mình.

“Anh đang chia tay em,” Celeste nói.

“Anh không chia tay em.” Những gì tôi muốn là ba đêm một tuần. Thẳng thắn mà nói, tôi sẽ còn hạnh phúc hơn nữa nếu là hai đêm. Tôi không hiểu tại sao em phải ngủ lại vào Chủ nhật rồi dậy sớm vào thứ Hai để bắt tàu trở lại trường.

Celeste ngồi xuống giường rồi nhìn chằm chằm vào tia sáng cáu ghét ngoài cửa sổ và bức tường gạch phía sau. Em ngồi lộ ra mảnh lưng tròn trịa, những lọn tóc vàng xinh xắn đổ tràn qua vai. Tôi chỉ muốn nói thẳng mọi thứ với em. Mọi thứ sẽ tốt hơn nếu em chấp nhận sự thật đó.

“Nếu mọi thứ không như ý, anh sẽ chia tay em.”

“Anh không chia tay em mà,” tôi nói lại lần nữa nhưng không ngồi xuống cạnh em, cũng không nắm lấy tay em.

Đôi mắt xanh to tròn đến khó tin của em đang ầng ậng nước. “Sao anh không cố vì em?” Em hỏi, giọng rất khẽ.

*

“Cố vì em?” Maeve nói. “Không phải con bé muốn em chuyển nhà đâu. Con bé muốn em cưới nó.”

Tôi đi tàu về nhà vào cuối tuần. Tôi cần nói chuyện với chị gái. Tôi cần phải suy nghĩ thấu đáo mọi thứ khi Celeste không hiện diện trên giường tôi, nơi em khăng khăng rằng tôi muốn chia tay em, cũng là nơi em ngủ từ thứ Sáu đến Chủ nhật. Tôi trở về nhà để sắp xếp lại cuộc sống của mình.

Maeve cho biết chị có một gói thuốc lá dự phòng trong hộp găng tay và chúng tôi quyết định đây chính là thời điểm thích hợp để hút trở lại. Khi về Ngôi nhà của Người Hà Lan, lá và hoa đầu mùa xuân nở rộ che khuất tầm nhìn của chúng tôi. Mấy chú chim hồng tước tha thẩn trên lối đi, kiếm những cành non. “Em không thể cưới con bé khi đang đi học được. Điều đó thật điên rồ. Chẳng có lý gì để con bé bắt em làm điều đó cả. Ngay cả khi học xong, một khi em đang trong kỳ nội trú, mọi thứ còn tệ hơn. Em sẽ chẳng có chút thời gian nào để kết hôn cho đến khi hoàn thành việc học.”

Việc học ở trường y như một trận đấu dài hơi. Tôi chẳng biết làm cách nào để dừng trận đấu lại khi mọi chuyện ngày càng tệ hơn. “Khi em học hành xong hết cũng chẳng có thời gian ấy,” tôi nói. “Em sẽ bắt đầu thực hành như một bác sĩ hoặc nếu không, vì em chẳng có ý định trở thành bác sĩ, em cũng phải ra ngoài mà tìm việc. Thế thì cũng chẳng phải lúc thích hợp. Cả đời em làm gì thấy lúc nào phù hợp.” Mặc dù Tiến sĩ Able nói với tôi rằng mọi chuyện sẽ không như vậy. Ông nói rằng năm đầu sẽ là năm khó khăn nhất, sau đó là năm thứ hai, rồi năm ba. Ông ấy nói rằng tất cả chỉ là học một hệ thống giáo dục mới mà càng học lâu, tôi sẽ càng thành thạo. Tôi không kể cho ông nghe về Celeste.

Maeve bóc lớp giấy bóng bọc gói thuốc. Nhìn chị châm thuốc, tôi nhận ra rằng chị chưa thực sự bỏ thuốc. Trông chị quá tự nhiên, quá thoải mái. “Thế vấn đề không còn nằm ở chuyện thời gian,” chị nhận định. “Em xứng đáng được kết hôn, nhưng chẳng có lúc nào là thích hợp cả.”

“Người bị tiểu đường không nên hút thuốc.” Tôi ở trường y đủ lâu để biết điều đó. Thật ra đó là kiến thức tôi không được học ở trường y.

“Bệnh nhân tiểu đường chẳng nên làm bất cứ chuyện gì.”

“Chị kiểm tra đường huyết chưa?”

“Chúa ơi, em hỏi chị về lượng đường trong máu ư? Tập trung vào chủ đề đi! Em định làm gì với Celeste?”

“Em có thể cưới cô ấy trong hè.” Có vẻ điều đó nghe thật ngu ngốc vì chị đã lớn tiếng với tôi, nhưng ngay khi nói ra điều đó, tôi đã thoáng nghĩ đến. Tại sao lại không chứ? Một căn hộ sạch sẽ, thức ăn ngon, tình dục, nàng Celeste hạnh phúc, một cấp độ trưởng thành mà tôi chưa tưởng tượng được. Tôi lặp lại những từ chỉ để cảm thấy chúng trào ra khỏi miệng mình. Một thế giới hoàn hảo đến không tưởng. Em có thể cưới cô ấy trong hè. Tất cả những kịch bản diễn ra trong đầu tôi đều liên quan đến việc tôi sẽ làm Celeste thất vọng như thế nào, cô ấy tổn thương ra sao và tôi cảm thấy tội lỗi như thế nào. Sau khi mọi chuyện chấm dứt, tôi sẽ nhớ về những lúc cô nàng khỏa thân trên giường tôi. Sự thật là tôi chưa bao giờ xem xét đến khả năng tích cực của vấn đề - tôi chỉ coi bây giờ là thời điểm bất tiện trong một chuỗi dài những khoảng thời gian bất tiện kế tiếp nhau. Có lẽ kết hôn bây giờ cũng không tệ. Có khi còn tốt ấy chứ.

Maeve gật đầu như thể chị muốn tôi nói vậy. “Em nhớ cha và Andrea kết hôn khi nào không?”

“Tất nhiên là nhớ.” Tôi đáp nhưng chị chẳng buồn nghe.

“Thật lạ nhưng ký ức của chị về họ luôn gắn chặt chuyện đám cưới với chuyện đám tang.”

“Có gì lạ đâu, em cũng vậy mà. Em nghĩ việc đó liên quan đến những bông hoa.”

“Em có nghĩ rằng cha yêu bà ta không?”

“Andrea sao?” Tôi nói, như thể đang nói về một người khác. “Không một chút nào.”

Maeve gật đầu lần nữa và nhả một làn khói dài ra ngoài cửa sổ. “Chị nghĩ cha cảm thấy quá mệt mỏi khi ở một mình. Có một lỗ hổng lớn trong cuộc đời ông và Andrea thì luôn ở đó, nói với ông rằng bà ta có thể lấp đầy và ông quyết định tin mụ đàn bà đó.”

“Hoặc là cha quá mệt khi phải nghe bà ta lải nhải.”

“Em nghĩ cha cưới bà ta về chỉ để bịt miệng bà ta thôi sao?”

Tôi nhún vai. “Cha cưới bà ta để bà ta thôi nói về việc họ có nên kết hôn hay không.” Ngay khi nói ra, tôi chợt hiểu chúng tôi đang nói về điều gì.

“Em yêu Celeste và muốn dành phần đời còn lại bên cô ấy.” Chị không hỏi tôi. Chị chỉ khẳng định điều đó và kết thúc mọi chuyện.

Tôi sẽ không kết hôn vào mùa hè. Ý tưởng đó tắt nhanh như cách nó đến và cảm giác còn lại là tất cả những gì tôi từng tưởng tượng: buồn như thể mất mát một thứ gì đó nhưng cũng nhẹ nhõm phần nào. “Không, không phải kiểu đấy.”

Chúng tôi ngồi trầm ngâm suy nghĩ về quyết định đó. “Em chắc chứ?”

Tôi gật đầu, châm điếu thứ hai. “Sao chúng ta chưa bao giờ nói về chuyện tình cảm của chị nhỉ? Em sẽ thấy thoải mái hơn nhiều đấy.”

“Sẽ nói,” Maeve cất lời, “nhưng chị chưa có đối tượng để mà nói ấy.”

Tôi nhìn thẳng vào mắt chị. “Em không tin.”

Chị gái tôi, người luôn nhìn thẳng bất giác quay mặt đi. “Nên tin.”

*

Sau khi trở về từ Jenkintown, Celeste cho rằng mọi thứ đều là lỗi của Maeve. “Chị ấy bảo anh nên chia tay em ba tuần trước kỳ thi cuối kỳ sao? Ai lại làm vậy chứ?”

Lúc đó chúng tôi đang ở trong căn hộ của tôi. Tôi đã bảo em đừng xuống, rằng tôi sẽ đi tàu đến chỗ em và chúng tôi sẽ nói chuyện ở đó, nhưng em nói điều đó thật nực cười. “Chúng ta sẽ không nói chuyện trước mặt bạn cùng phòng của em,” em gạt đi.

“Maeve không bảo anh chia tay em. Chị ấy chẳng nói gì cả. Tất cả những gì chị làm là lắng nghe.”

“Chị ấy đã nói với anh là không được kết hôn với em.”

“Chị ấy không hề nói vậy.”

“Ai lại kể cho chị gái nghe mấy chuyện này chứ? Khi anh trai em cố gắng để đưa ra quyết định có học nha khoa hay không, chẳng nhẽ anh ấy lại đến Bronx để hỏi em sao? Không ai làm thế cả. Điều đó thật bất thường.”

“Có thể anh ấy không muốn nói chuyện với em.” Tôi lập tức thấy khó chịu, rồi phẫn nộ, xong lại chuyển sang thấy tội lỗi. “Có thể là do anh ấy biết em chẳng buồn lắng nghe. Hoặc anh ấy có thể nói chuyện với cha mẹ vì anh ấy còn cha mẹ. Anh thì chỉ còn mỗi chị Maeve thôi. Thế đấy.” Celeste cảm thấy em đang đánh mất dần lợi thế của mình và quyết định đổi hướng như một chiếc thuyền buồm nhỏ trên một cái ao lộng gió. “Ôi, Danny.” Em đặt tay lên tay tôi.

“Cứ để vậy đi,” tôi nói, như thể mình mới là người bị tổn thương. “Không có ích gì đâu. Đấy không phải lỗi của ai. Chỉ là chưa thích hợp, vậy thôi.”

Bằng câu nói đó tôi đã làm bầu không khí dịu lại. Em đã lên giường với tôi thêm lần nữa rồi có ý muốn ở qua đêm và rời đi vào sáng hôm sau, nhưng tôi đã nói không. Không nói gì thêm, chúng tôi thu dọn những gì thuộc về em và cùng nhau ngồi trên chuyến tàu trở về Bronx, mỗi người ôm tâm sự nặng trĩu trong lòng.

Chú thích:

[1] Tên trong nguyên tác là Midnight Cowboy, bộ phim phát hành năm 1965 của điện ảnh Mỹ.