Chương 19 & 20
Tôi nhớ rất ít về khoảng thời gian ngay sau khi Maeve qua đời, ngoại trừ về ông Otterson. Ông ấy đã ngồi cùng gia đình tôi trong lễ tang của chị, tay ôm mặt khóc. Nỗi đau của ông, giống như tôi, như một con sông sâu và rộng. Tôi biết rằng sau đó, tôi nên đến an ủi ông nhưng tôi chẳng có tâm trạng nào để làm điều đó.
* Chương 20Câu chuyện về chị gái tôi là điều duy nhất tôi định kể, nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó. Ba năm sau, khi Celeste và tôi đang tiến hành các thủ tục ly hôn tại văn phòng luật sư em đã nói với tôi rằng em không cần ngôi nhà. “Em chưa bao giờ thích nó,” em nói.
“Nhà ta ư?”
Em lắc đầu. “Đó không phải thứ em thích. Nó nặng nề và cũ kỹ, lại còn tối nữa. Anh không ở nhà nhiều nên đâu có bận tâm.”
Tôi chỉ muốn làm em ngạc nhiên. Tôi đưa em đến từng phòng, để em nghĩ rằng ngôi nhà này tôi tậu để cho thuê. Tôi nói với em rằng tôi có thể tách nó thành hai tòa, thậm chí là bốn, mặc dù tất nhiên phải tốn nhiều công sức. Celeste đã phải lên xuống cầu thang không biết bao nhiêu lần, địu May trước ngực chỉ để vào phòng tắm kiểm tra áp lực nước. Lúc đó tôi không hỏi em rằng em có thích nó không. Tôi có thể hỏi nhưng tôi đã không làm vậy. Thay vào đó, tôi đưa cho em chứng thư nhà. Trong tâm trí tôi, đấy là một trong số cử chỉ thực sự lãng mạn mà tôi từng làm. “Đó là ngôi nhà của chúng ta,” tôi nói.
Lúc đó tôi chỉ muốn làm mọi thứ nhanh nhanh chóng chóng rồi chạy ra để gọi cho chị mình. Luôn luôn và mãi mãi là như vậy.
Trớ trêu thay, sau khi Maeve mất, tôi trở thành một người chồng tốt hơn. Trong sự đau buồn đến tột cùng, tôi đã tìm về gia đình nhỏ của mình. Lần đầu tiên tôi ở bên họ một cách trọn vẹn, một công dân New York, với vợ và con là mỏ neo kéo tôi về với thế giới u ám này. Những câu nửa đùa nửa thật của tôi giờ hóa thành sự thật: mọi điều Celeste không ưa ở tôi, em sẽ đổ lỗi cho chị gái tôi và khi chị gái tôi không có mặt để nhận lỗi, em buộc phải xem xét xem mình đã kết hôn với ai.
Mẹ chúng tôi ở lại Ngôi nhà của Người Hà Lan để chăm sóc Andrea và tôi đã không tha thứ cho bà suốt nhiều năm. Bất chấp những hiểu biết về khoa học còn sót lại trong tôi, tôi đã tin vào câu chuyện mà cha kể khi chúng tôi còn nhỏ: Maeve bị bệnh vì mẹ chúng tôi bỏ đi và khi mẹ quay lại, Maeve sẽ chết. Ngay cả những ý nghĩ ngu ngốc nhất cũng khiến ta phải bận tâm khi nó thành sự thật. Tôi tự trách mình vì đã thiếu cảnh giác. Chị luôn hiện diện trong tâm trí tôi. Tôi từ mặt mẹ vì những điều đã xảy ra.
Nhưng rồi, một ngày nọ, sau khi chúng tôi ly hôn đủ lâu để có thể làm bạn trở lại, Celeste nhờ tôi lái xe chở đồ đến nhà bố mẹ em và tôi đồng ý. Ngay cả nhà Norcross cũng sống chậm lại, con chó Labrador ngỗ ngược được thay bằng một con chó lai nhỏ, thân thiện tên là Inky. Sau khi dỡ đồ xuống xe và thăm nhà, tôi lái xe đến Ngôi nhà của Người Hà Lan theo thói quen, nghĩ rằng mình chỉ đỗ xe bên kia đường trong vài phút nhưng chẳng có gì cản bước tôi tiến vào nhà cả. Tôi đỗ xe trước cửa nhà rồi bấm chuông.
Sandy là người ra mở cửa.
Chúng tôi đứng nơi tiền sảnh dưới ánh chiều tà. Một lần nữa, tôi mong đợi căn nhà sẽ xuống cấp đến mức không nhận ra, và một lần nữa, căn nhà giống hệt như trong trí nhớ của tôi. Thật khó chịu khi nó vẫn mãi y nguyên như vậy.
“Tôi đã không đến đây một thời gian dài,” Sandy nói vẻ tội lỗi, nắm lấy tay tôi, mái tóc trắng dày của cô vẫn được ghim lại bằng băng đô. “Nhưng tôi nhớ mẹ cậu. Tôi không ngừng nghĩ về Maeve và những thứ cô ấy muốn tôi làm. Không ai có thể trẻ lại.”
“Cháu rất vui khi thấy cô ở đây,” tôi đáp.
“Thỉnh thoảng, tôi qua đây ăn trưa. Đôi khi, tôi có thể phụ giúp vài việc vặt. Sự thực thì việc này tốt cho tôi. Tôi đổ đầy thức ăn cho chim vào khay phía sau nhà cho Norma. Norma yêu những chú chim. Cô ấy thừa hưởng điều đó từ cha cậu.”
Tôi nhìn lên chiếc đèn chùm trên trần nhà. “Những bóng ma quá khứ đang ở đây.”
Sandy cười nói: “Những bóng ma kéo tôi đến đây. Tôi nghĩ về hồi Jocelyn cùng tôi ở đây. Tất cả đều còn rất trẻ, cậu biết đấy. Chúng tôi vẫn là chính chúng tôi.”
Jocelyn mất hai năm trước. Cô bị cúm và đến khi mọi người nhận ra mọi thứ nghiêm trọng đến mức nào thì đã quá muộn. Celeste dự đám tang cô cùng tôi. Cả nhà Norcross đều đến. Để nói thì Jocelyn chưa bao giờ tha thứ cho mẹ tôi dù cô ấy bao dung hơn tôi. “Bà ấy thuê chúng tôi về để chăm sóc cậu nhưng cậu đâu phải con chúng tôi,” có lần cô nói với tôi. “Sao có thể tha thứ được điều đó?”
Sandy và tôi vào bếp. Tôi ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ trong khi cô đi pha cà phê. Tôi hỏi thăm về Andrea.
“Một con quái vật không răng,” cô nói. “Bà ta chẳng biết gì cả. Norma có thể chuyển bà ta ra khỏi đây và bán nơi này nhưng luôn có cảm giác rằng Andrea có thể chết bất cứ lúc nào. Chăm sóc bà ta từng ấy ngày tháng để làm gì khi đẩy bà ta ra khỏi đây vào những ngày cuối đời chứ?”
“Chắc gì đã là ngày cuối đời.”
Sandy thở dài, lấy một hộp sữa nhỏ trong chiếc tủ lạnh mới so với tủ hồi gia đình tôi còn sống ở đây. “Ai biết được chứ? Tôi nghĩ đến chồng tôi. Jamie ba mươi sáu tuổi khi anh bị nhiễm trùng tim. Không ai rõ nguyên nhân. Tiếp đó đến Maeve, người mạnh mẽ nhất trong số chúng ta. Kể cả khi bị bệnh tiểu đường, đáng lẽ Maeve phải sống đến trăm tuổi.”
Tôi không biết tên chồng Sandy hay ông chết vì lý do gì. Tôi cũng không biết điều gì đã giết chết Maeve dù không thiếu nguyên nhân gây ra việc đó. Tôi nghĩ về câu hỏi của Teddy, em của Celeste, tại Lễ Tạ ơn nhiều năm về trước. Cậu hỏi xem tôi có phải khám nghiệm tử thi không. Tôi đã dự rất nhiều buổi khám nghiệm tử thi như vậy và không muốn điều đó xảy ra với chị gái mình. “Ít nhất thì chị ấy cũng nên sống lâu hơn Andrea.”
Sandy thở dài. “Đời là thế mà.”
Tôi thấy thật thoải mái khi được ở trong phòng bếp cùng cô. Bếp, cửa sổ, Sandy và đồng hồ. Giữa chúng tôi là khay đựng bơ bằng thủy tinh của mẹ hồi ở Brooklyn được đặt trên bàn, trong đó là một miếng bơ nhỏ. “Nhìn này,” tôi nói, vuốt dọc theo mép khay.
Sandy trải lòng: “Cậu không nên làm khó mẹ mình như vậy.”
Đó chẳng phải điều tôi thường nói với May sao? “Cháu không nghĩ thế.” Cuộc sống của tôi và mẹ chẳng mấy liên quan. Tôi nghĩ việc không giao thiệp với nhau chẳng ảnh hưởng nhiều đến cả tôi và bà.
“Bà ấy là một vị thánh,” cô ấy nói.
Tôi mỉm cười. Không ai trên đời tử tế như Sandy. “Bà ấy không phải một vị thánh. Chăm sóc người dưng không khiến bất kỳ ai trở thành thánh cả.”
Sandy gật đầu, nhấp một ngụm cà phê. “Tôi nghĩ những người như chúng ta không hiểu được đâu. Nói thật với cậu, tôi cũng chẳng hiểu được. Tôi chỉ muốn bà ấy giống chúng ta thôi. Nhưng cậu cứ nghĩ đến những vị thánh mà xem, tôi không nghĩ ai trong số họ khiến gia đình hài lòng cả.”
“Chắc là không có ai thật.” Tôi còn không nhớ nổi các vị thánh huống chi là gia đình họ.
Sandy siết chặt tay tôi khẽ nói: “Lên lầu và chào bà ấy đi.”
Vì vậy tôi đi lên phòng cha mẹ, tự hỏi sao một người đàn ông bị đau chân lại mua một ngôi nhà nhiều cầu thang đến vậy. Chiếc ghế dài nhỏ nhắn trên chiếu nghỉ vẫn yên vị ở đó cùng hai chiếc ghế nơi Norma cùng Bright từng thường ngồi chơi búp bê và ngắm mọi người qua lại. Tôi nhìn vào cánh cửa dẫn đến phòng mình rồi phòng Maeve. Tôi đối diện với điều này khá dễ dàng. Tôi nghĩ giờ chẳng có chuyện gì có thể làm khó được tôi.
Andrea nằm trên giường bệnh cạnh cửa sổ, còn mẹ ngồi cạnh đang xúc từng miếng tráng miệng cho dì ta. Mái tóc ngắn ngày nào của bà giờ đã bạc trắng. Tôi tự hỏi Andrea sẽ nghĩ gì nếu dì ta biết người đang cho mình ăn là vợ đầu, người đầy chấy rận của chồng mình.
“Anh ấy đến rồi!” Mẹ tôi reo lên, mỉm cười với tôi như thể tôi đã đến đúng giờ. Bà nghiêng người về phía Andrea. “Chị đã nói với em rồi mà.”
Andrea há miệng đợi được bón.
“Con đi qua khu này nên tiện thể ghé qua,” tôi nói. Đây chẳng phải nghiệp mà bà phải trả sau từng ấy năm sao? Giờ tôi mới thấy bà giống Maeve như thế nào, hoặc Maeve sẽ giống bà như thế nào nếu chị còn sống.
Mẹ chìa tay gọi tôi. “Lại đây, cho dì ấy nhìn thấy con.”
Tôi đến bên giường, kế bên bà. Mẹ choàng tay qua eo tôi.
“Con nói gì đi.”
“Chào Andrea,” tôi nói. Chẳng ngọn lửa giận giữ nào bùng lên trong tôi, chí ít là chưa. Andrea bé nhỏ như một đứa trẻ. Những sợi tóc nhạt màu, mỏng manh của dì ta xõa ra trên chiếc gối lụa hồng ôm lấy khuôn mặt xác xơ, khuôn miệng thì há hốc. Dì ta ngước nhìn tôi, chớp chớp mắt rồi mỉm cười. Bàn tay nhỏ nhắn của dì ta giơ lên và tôi dịu dàng nắm lấy nó. Lần đầu tiên tôi để ý rằng dì ta đeo cùng loại nhẫn cưới với mẹ tôi, một chiếc nhẫn vàng mỏng manh.
“Dì ấy nhìn thấy con!” Mẹ reo lên. “Nhìn kìa.”
Andrea đang mỉm cười, nếu đó được coi là một nụ cười. Dì ta rất vui khi gặp lại cha tôi. Tôi cúi người và hôn lên trán cả hai, người này rồi người kia. Cũng chẳng mất gì.
Sau khi ăn no, Andrea nằm co rúm lại rồi thiếp đi. Tôi và mẹ ngồi trên ghế trước lò sưởi trống trơn.
“Mẹ ngủ ở đâu?” Tôi hỏi. Mẹ chỉ vào chiếc giường đằng sau tôi, chiếc giường mà mẹ từng ngủ với cha tôi, chiếc giường mà bà VanHoebeek với chiếc hông gãy từng nằm chờ chết.
“Thỉnh thoảng, dì ấy tỉnh giữa đêm và cảm thấy mông lung, không biết mình là ai hay đang ở đâu. Mẹ ở đây trông dì ấy thì sẽ tốt hơn.” Mẹ lắc đầu. “Mẹ phải nói thật là, Danny à, mỗi sáng thức dậy, mẹ đều cảm nhận được điều đó - căn phòng và ngôi nhà - trước cả khi mở mắt. Mỗi sáng, trong một khoảnh khắc, mẹ sẽ trở về với những ngày mẹ còn hai mươi tám. Maeve vẫn nằm trong phòng mình bên kia hành lang, còn con là đứa trẻ nằm nôi ngay bên cạnh mẹ. Khi quay lưng lại, mẹ chỉ mong nhìn thấy khuôn mặt cha con đang say giấc. Đó là một điều tuyệt diệu.”
“Mẹ không bận tâm chuyện ngôi nhà nữa sao?”
Mẹ nhún vai. “Mẹ đã chẳng bận tâm đến nơi mình sống từ lâu lắm rồi, dù sao đi nữa thì sống ở đây cũng tốt cho mẹ. Nó dạy mẹ sự khiêm nhường. Dì ấy dạy mẹ cách khiêm nhường.” Bà hất đầu về phía sau như cách mà Maeve thường làm. “Con cần săn sóc những người cần sự săn sóc chứ không chỉ săn sóc những người khiến con thấy tốt hơn. Săn sóc Andrea là sự đền tội của mẹ cho tất cả những sai lầm mà mẹ đã gây ra.”
“Trông dì ta như thể không sống nổi hết tuần này vậy.”
“Mẹ biết. Mọi người đã nói vậy nhiều năm nhưng dì ấy vẫn sống. Sự mạnh mẽ của Andrea luôn khiến mọi người phải kinh ngạc.”
“Norma dạo này thế nào ạ?”
Mẹ tôi mỉm cười. “Norma rất tuyệt. Con bé làm việc rất chăm chỉ, chăm sóc những đứa trẻ đau ốm rồi lại về chăm sóc mẹ mà chẳng phàn nàn lấy một câu. Mẹ không nghĩ là Andrea để con bé trải qua một tuổi thơ êm đềm.”
“Giờ thì dì ta cũng đâu khiến cuộc sống của em ấy dễ dàng.”
“Ờ thì con biết các bà mẹ như thế nào rồi đấy,” mẹ nói, nhìn tôi đầy trìu mến.
Tôi nhận ra mình ít khi ở trong căn phòng này như thế nào. Tôi hiếm khi đến đây khi nó là phòng của cha và chẳng bao giờ vào kể từ khi cha cưới Andrea. Nó lớn hơn phòng ngủ của Maeve với lò sưởi là một kiệt tác khổng lồ, nhưng Andrea đã đúng - phòng ngủ của Maeve có bệ ngồi bên cửa sổ đẹp hơn nhiều. Phòng của Maeve hoàn hảo cả về tầm nhìn thẳng xuống khu vườn phía sau nhà lẫn cách ánh nắng xuyên qua khe cửa. “Con muốn hỏi mẹ một chuyện,” tôi nói vì tôi chưa từng hỏi mẹ bất cứ điều gì. Chúng tôi chưa từng gặp riêng kể từ lần gặp gỡ khó xử trong phòng chờ bệnh viện mấy năm trước.
“Bất kỳ điều gì con yêu,” bà đáp.
“Sao mẹ không cho chúng con đi cùng?”
“Đến Ấn Độ?”
“Đến Ấn Độ, hoặc bất cứ nơi nào mẹ đến. Mẹ nghĩ ngôi nhà này là một nơi kinh khủng đối với mẹ, liệu mẹ đã bao giờ nghĩ ngôi nhà cũng là một nơi kinh khủng với bọn con không?”
Mẹ tôi ngồi im lặng trong chốc lát, chắc nhớ lại cảm giác của mình. Mọi thứ xảy ra quá lâu rồi. “Mẹ nghĩ đây là một nơi tuyệt vời đối với các con,” cuối cùng mẹ nói. “Nhiều trẻ em trên trái đất này chẳng có gì, còn con với chị con thì có mọi thứ - cha, Fluffy, Sandy và Jocelyn. Các con có ngôi nhà. Mẹ yêu các con rất nhiều nhưng mẹ biết các con sẽ ổn cả thôi.”
Có lẽ Sandy đã đúng. Mẹ là một vị thánh mà các vị thánh thì thường bị gia đình khinh thường. Tôi không thể nói được cuộc sống nào sẽ tốt hơn, cuộc sống chúng tôi có với Andrea hay cuộc sống chúng tôi có với mẹ khi rong ruổi trên khắp đường phố ở Bombay. Chắc cũng một chín một mười.
“Dù sao đi nữa,” bà nói như thể đã suy nghĩ rất kỹ về điều này, “cha con sẽ không bao giờ để các con đi với mẹ.”
Sau sự kiện đó, mọi thứ đều thay đổi. Mọi thứ xoay vần chỉ có sự thay đổi là bất biến. Tôi lại thấy mình trở lại Elkins Park. Không ai bảo tôi đừng làm vậy. Cơn thịnh nộ với mẹ giờ đã lụi tàn. Giữa tôi và mẹ chẳng thể gọi là tình yêu, tình mẫu tử. Đó có thể coi là sự quen thuộc. Giờ tôi và mẹ cảm thấy dễ chịu khi ở cạnh nhau. Thỉnh thoảng, May cũng đi cùng tôi trong những chuyến thăm đó dù con bé rất bận. Con bé đang học ở Đại học New York. Con bé đã vạch ra kế hoạch cho cuộc sống của mình. Kevin đang theo học ở Dartmouth nên chúng tôi cũng ít gặp thằng bé. Thằng bé kém chị một tuổi nhưng chị nó trưởng thành hơn nhiều, như Maeve và tôi vậy. Khi về Elkins Park, May có thể gặp ông bà nội ngoại. Con bé bị ám ảnh bởi ngôi nhà. Khắp ngóc ngách trong căn nhà đều được con bé khám xét như một thám tử tư. Con bé còn dùng cả máy dò kim loại và ống nghe rồi lại chui xuống tầng hầm để làm việc của mình. Tôi không thể tin được những đồ con bé tìm thấy: đồ trang trí Giáng sinh, thiệp và một hộp đầy ắp son môi. Con bé phát hiện ra cánh cửa nhỏ phía sau tủ quần áo ở tầng ba có thể dẫn lên tầng gác mái. Tôi đã quên biến chuyện đó. Những bộ sách của Maeve vẫn còn đó, nửa trong số đó là tiếng Pháp, số vở ghi chép các phương trình toán của chị, những con búp bê mà tôi chưa từng thấy, những bức thư tôi viết cho chị khi chị học đại học. May ngẫu hứng đọc một trong số các bức thư trong bữa ăn tối.
“Maeve thân mến! Tối qua, Andrea đã thông báo rằng dì ta không thích bánh táo. Bánh táo là món khoái khẩu của mọi người nhưng giờ Jocelyn sẽ không được làm nữa. Jocelyn nói điều đó không thành vấn đề. Cô ấy sẽ làm từ nhà và mang từng miếng đến cho em.” Bằng cách nào đó, May biết chính xác cách nói chuyện của tôi năm tôi mười một tuổi. “Thứ Bảy tuần trước, cha và em dừng ở ba mươi bảy căn nhà cho thuê và thu về hai mươi tám đô rưỡi tiền xu từ máy giặt dưới tầng hầm.”
“Con bịa ra đấy à?” Tôi hỏi.
Con bé vẫy lá thư. “Thề có Chúa, cha nhạt hết sức. Mỗi trang đều như vậy á.”
Norma cười. Bốn người chúng tôi đang quây quần trong bếp: tôi, Norma, May và mẹ tôi ngồi quanh chiếc bàn xanh. Đột nhiên, tôi nhớ cha luôn cất những đồ đạc mà ông nhặt được từ máy giặt và máy sấy trong ngăn kéo bí mật trên bàn ăn, và khi ai trong nhà cần tiền đều có thể lấy từ đó. “Mọi người ra đây một tí đi,” tôi nói. Rồi bốn người chúng tôi bước về phía phòng ăn lạnh lẽo đó. Tôi luồn tay xuống dưới mỗi bàn cho đến khi tìm thấy nó. Ngăn kéo giờ đã bị vênh bởi sức nặng của số tiền và khi kéo nó ra thì nó chứa đầy tiền xu. Một rương kho báu đích thực.
“Em chưa từng biết chuyện này!” Norma kêu lên. “Bright và em lau chùi nó suốt.”
“Hồi mẹ sống ở đây ông ấy không làm vậy,” mẹ nói.
May mân mê những đồng xu tìm thấy trong ngăn kéo. Có lẽ những đồng xu đó cha để riêng cho Maeve và tôi chứ không phải mọi người.
Sáng hôm sau, tôi nhìn ra cửa sổ và thấy con gái mình đang thả người trên chiếc phao màu vàng trong hồ bơi. Mái tóc đen của con bé xõa ra sau như những sợi tảo bẹ, một chân thỉnh thoảng lại vươn ra để đẩy khỏi bức tường. Tôi ra ngoài và hỏi xem con bé ngủ có ngon không.
“Con vẫn đang lơ mơ,” con bé nói, dụi ngón tay ướt rượt lên mắt. “Con thích ở đây. Con sẽ mua căn nhà này.”
Cuối cùng, Andrea qua đời vào vài tháng trước, để lại một cuộc tranh luận kéo dài về việc sẽ làm gì với ngôi nhà. Bright không về nhà dự đám tang. Em khẳng định với Norma rằng dù ngôi nhà có cháy thành than thì em cũng chẳng màng. Căn nhà đáng giá cả đống tiền. Khu vực này sắp được phân lô và khi tái bán thì giá đất chắc chắn sẽ tăng lên. Ngôi nhà khả năng cao sẽ bị phá bỏ và bán đấu giá tài sản bên trong như lò sưởi, lan can, các bức chạm khắc hay những vòng hoa lá vàng trên trần... Tất cả đều đáng giá ngang một bức tranh của Picasso. Bán từng phần nhỏ của ngôi nhà rồi sau đó bán đất hoặc tự sửa sang và tu bổ miếng đất thì có thể bán với giá gấp đôi, thậm chí gấp ba.
“Nhưng thế thì phá tan ngôi nhà chứ còn gì nữa,” Norma nói và không ai trong số chúng tôi biết điều đó là xấu hay tốt ngoại trừ May.
Tôi khuyên con bé: “Con không nên bắt đầu từ ngôi nhà này.”
May với tay, đẩy người lên khỏi tấm phao. “Con đã nhờ cô Norma đợi con thêm vài năm nữa. Con có kết nối tâm linh với nơi này.” May giờ làm chủ một hãng phim. Con bé đã thực hiện một vài quảng cáo và tham gia vai diễn nhỏ trong hai bộ phim. Một trong số đó đã gây được tiếng vang lớn. Con bé thường phải đi đây đi đó. “Cô ấy nói cô ấy sẽ đợi.”
Cả Norma và Bright đều không có con. Norma nói rằng em không muốn để bất cứ đứa trẻ nào phải lặp lại tuổi thơ bất hạnh của mình, đặc biệt là những đứa trẻ mà em yêu thương. Làm việc với bệnh nhân nhi ung thư càng củng cố quan điểm của em. Norma nói với tôi: “Em sẽ rời đi chừng nào May và Kevin muốn sống ở đây. Đây là nhà anh.”
“Đây không phải nhà anh,” tôi khẳng định.
Norma và tôi đã nói chuyện với nhau về mọi thứ, từ con cái, cha mẹ, quyền thừa kế, trường y cho đến quỹ ủy thác. Norma quyết định trở về Palo Alto. Em quay lại công việc cũ và sống ở ngôi nhà mà em đã thuê trong nhiều năm. Em nói em nhớ cuộc sống của mình nhiều đến mức nào. Một đêm, sau khi uống vài ly rượu, em ngỏ lời muốn được làm em gái tôi. “Không như Maeve, không bao giờ như Maeve, nhưng là một em gái kiểu khác. Một đứa em gái cùng cha khác mẹ chẳng hạn.”
“Anh tưởng em đúng là em gái cùng cha khác mẹ của anh chứ nhỉ?”
Con bé lắc đầu. “Em chỉ là con riêng của mẹ kế anh thôi.”
Mẹ tôi ở lại Ngôi nhà của Người Hà Lan. Bà bảo bà sẽ chăm sóc ngôi nhà để đảm bảo không có con gấu mèo nào làm tổ trong phòng khiêu vũ. Mẹ mời Sandy chuyển đến sống với bà. Sandy, cô bị viêm bao hoạt dịch hông, than vãn mỗi lần đi dọc cầu thang. Sau khi Andrea qua đời, mẹ lại tiếp tục bôn ba khắp chốn. Bà không đi quá lâu nhưng luôn nói rằng còn có nhiều việc phải làm. Đó là lúc bà bắt đầu kể cho tôi nghe khoảng thời gian bà sống ở Ấn Độ, hoặc tôi bắt đầu lắng nghe. Bà kể những gì bà muốn là phục vụ người nghèo nhưng các nữ tu điều hành trại trẻ mồ côi luôn bắt mẹ mặc những bộ sari sạch sẽ và đến những bữa tiệc để xin tiền. “Đó là năm 1951. Người Anh đã đi khỏi Ấn Độ, còn người Mỹ bị coi là vô cùng kỳ lạ. Mẹ đến mọi bữa tiệc được mời. Hóa ra biệt tài của mẹ là xin tiền những người giàu có.” Vì vậy bà tiếp tục xin của người giàu chia cho người nghèo trong suốt phần đời còn lại.
Fluffy đã chuyển đến Santa Barbara để sống với con gái nhưng cô vẫn ghé thăm đều đều; mỗi lần ghé thăm, cô ấy lại muốn ngủ trong căn phòng cũ của mình trên ga ra.
Norma hứa sẽ giữ Ngôi nhà của Người Hà Lan cho đến khi May hoàn thành sứ mệnh của mình, điều mà May đã làm được trong bộ phim thứ tư. Con bé đạt được thành công đáng kinh ngạc. May luôn nói điều đó sẽ xảy ra nhưng chúng tôi vẫn thấy choáng váng. Con bé còn rất trẻ. Vì vậy không còn cách nào khác là phải tin con bé.
Theo lời khuyên của người đại diện, May đã lắp một hàng rào kim loại đen cao phía sau những cây đoạn lá bạc và giờ ngôi nhà đã có một cánh cổng ở cuối lối vào, một chiếc hộp đàm thoại mà bạn có thể nói với người ở bên trong nếu không biết mã hoặc bảo vệ. Tôi không thể không nghĩ đến việc Andrea sẽ thích nó đến mức nào.
May đã mang bức tranh của Maeve từ New York về và trả nó lại đúng chỗ cũ. Con bé không có nhiều thời gian ở Elkins Park nhưng mỗi khi ở đó, con bé sẽ tổ chức những bữa tiệc như trong truyền thuyết, hoặc đó là những gì con bé nói với tôi.
“Hãy đến vào thứ Sáu,” con bé nói. “Cha, mẹ và Kevin. Con muốn cho mọi người thấy điều này.”
May có xu hướng phóng đại nhưng sự thật là con bé luôn giao phó cho người khác. Tôi chỉ tiếc rằng Fluffy và Norma không có mặt ở đây. Đấy là một đêm tháng Sáu, tất cả các cửa hàng xung quanh ngôi nhà đều mở cửa trở lại. Những người trẻ tuổi đến trên những con xe sedan màu đen với cửa sổ ngả màu - những người mà May nói là vô cùng nổi tiếng - leo hai lượt cầu thang lên phòng khiêu vũ và nhìn ra những vì sao lấp lánh ngoài cửa sổ. Celeste đến sớm để giúp trợ lý của May chuẩn bị mọi thứ. Không ai tin người đàn bà tóc vàng có chiều cao trung bình này lại là mẹ May.
“Nói với họ vậy!” Con bé nói với tôi và thế là tôi đã nhắc đi nhắc lại với mọi người điều đó. May trông chẳng có gì giống Celeste nhưng tôi có thể cảm thấy tính kiên trì của em chảy trong con bé.
Kevin đứng trước cửa để không bỏ lỡ điều gì. Tôi mong một ngày thằng bé tiếp quản công việc kinh doanh của tôi nhưng thằng bé chọn học y. Cả đời nghe về lợi ích khi làm bác sĩ ảnh hưởng đến quyết định của thằng bé ít nhiều.
Sandy và mẹ tôi ở lại dự tiệc một lúc. Tôi chở họ đến ngôi nhà cũ của Maeve ở Jenkintown, một nơi vô cùng yên tĩnh. Lúc tôi quay lại, có quá nhiều ô tô ở lối vào nên tôi đậu xe trên đường rồi bước vào cổng. Ngôi nhà bừng sáng theo cách mà tôi chưa từng thấy trước đây, cửa sổ ở mỗi tầng đều phát ra ánh sáng vàng, sân thượng được chiếu sáng bằng nến cắm trong cốc thủy tinh. Về phần âm nhạc, con bé mời một ca sĩ có chất giọng trầm ấm đến biểu diễn trong buổi tiệc (tôi có dặn con bé phải cho nhỏ tiếng lại). Tiếng hát du dương, trầm bổng khiến tôi cảm tưởng như hàng xóm xung quanh đều lắng tai nghe. Âm thanh của lũ trẻ hét lên khi nhảy xuống hồ bơi thu hút tôi dù tôi chẳng nghe được chúng đang nói gì. Tôi định quay vào tìm Celeste để hỏi xem em có muốn lái xe quay lại thành phố với tôi không. Chúng tôi chưa quá già nhưng cũng đã hết tuổi để tham gia những bữa tiệc thế này. New York là nơi duy nhất mà chúng tôi có thể ngủ.
Ở xa xa góc sân nơi tiếp giáp giữa hàng đoạn lá bạc và hàng rào, tôi thấy ai đó đang ngồi trên ghế gỗ hút thuốc. Nơi đó khuất sáng nên tất cả những gì tôi thấy được là một người với ngọn lửa lập lòe phát ra từ điếu thuốc. Tôi tự nhủ đó là chị gái tôi. Maeve không quen với việc tiệc tùng. Chị thường đi ra ngoài trong các bữa tiệc. Tôi nhẹ nhàng bước tới đó, sợ làm kinh động đến chị. Đôi khi tôi tự tạo cho mình thú vui nho nhỏ này với niềm tin sắt đá rằng, chỉ cần tôi chú tâm hơn, tôi sẽ thấy chị ngồi trong bóng tối bên ngoài Ngôi nhà của Người Hà Lan. Tôi tự hỏi chị sẽ nói gì nếu thấy cảnh này.
Lũ đần, chị sẽ nói vậy rồi phả ra một bụm khói nhỏ.
Người ngồi trên băng ghế lắc nhẹ mái tóc, duỗi thẳng đôi chân dài trước mặt, để lộ những ngón chân trần. Kỳ diệu thay, ảo ảnh vẫn tiếp diễn. Tôi ngước nhìn lên bầu trời đầy sao, không muốn mọi thứ biến mất. Maeve ném điếu thuốc xuống bãi cỏ và ngồi chờ tôi bước đến. Trong một khoảnh khắc, chị vẫn ngồi đó và đợi tôi.
“Cha à?” May hỏi.
“Đừng nói với cha là con hút thuốc nhé!”
Con bé tiến về phía tôi trong bóng tối với chiếc váy trắng đính ngọc trai. Đấy là con gái tôi, cô gái xinh đẹp của tôi. Con bé choàng tay qua eo tôi và trong một phút, con bé gục đầu vào vai tôi, mái tóc đen xõa ngang mặt. “Con không hút thuốc,” con bé nói. “Con mới cai rồi.”
“Con ngoan,” tôi khen. Chúng tôi sẽ thảo luận về chuyện đó vào sáng hôm sau.
Tôi và May đứng trên bãi cỏ, nhìn những người trẻ tuổi đang tấp nập ra vào cửa sổ thông giữa ngôi nhà và hồ bơi như những con thiêu thân lao vào lửa. “Chúa ơi, con yêu căn nhà này vô cùng,” May nói.
“Đấy là nhà con.”
Con bé cười. Ngay cả trong bóng tối tôi cũng thấy điều đó. “Tuyệt,” con bé nói. “Đưa con vào trong thôi.”
HẾT