← Quay lại trang sách

Chương 18

Maeve và mẹ có vé xem buổi trưng bày tác phẩm của Pissarro[1] tại Bảo tàng Nghệ thuật Philadelphia. Họ nói rằng có thể đón tôi sau buổi triển lãm nên tôi quyết định đi tàu đến đó. Tôi thấy họ ngay khi bước vào nhà ga và vẫn đang lo lắng về việc lũ chim sẻ sẽ bay qua cánh cửa mở và mắc kẹt bên trong. Tôi thấy chị trước. Chị cao và khỏe, đầu ngửa ra sau, ngón tay hướng lên trần nhà để chỉ cho mẹ tôi những bóng đèn hình chú chim đang được thắp sáng. Mới hơn một năm kể từ khi Maeve lên cơn đau tim - một năm khỏe mạnh, cả một năm hai người họ sống bên nhau.

“Em không gặp ai trên tàu chứ?” Maeve hỏi khi tôi bước đến phía chị, một câu đùa cũ từ hồi chị còn đón tôi và ôm tôi nghiến ngấu.

“Một chuyến đi rất thú vị.” Tôi hôn cả hai người họ.

Khi chúng tôi đến bãi đỗ xe, mẹ kể với tôi rằng hôm nay bà là tài xế. Khi Maeve bình phục hoàn toàn, chị đã đưa ra kế hoạch cải tổ cho mẹ. Trong vòng sáu tháng, mẹ được phẫu thuật đục thủy tinh thể cả hai mắt, cắt bỏ ba khối u tế bào đáy (một ở thái dương trái, một ở đỉnh tai trái, một ở lỗ mũi phải) và chăm sóc răng miệng. Maeve gọi đó là việc dọn dẹp. Tôi chi trả toàn bộ chi phí. Ban đầu, Maeve giành lo việc đó nhưng tôi đã nói với chị rằng nếu chị muốn tôi đối xử với mẹ tốt hơn thì hãy để tôi làm. Celeste không được biết điều này.

“Con không biết điều gì sẽ xảy ra khi con quay lại,” mẹ tôi nói. “Thứ này...” Mẹ chỉ vào bốt điện thoại. “Sáu tháng trước nó còn là một cái cây.”

“Theo một cách nào đó, nó vẫn là một cái cây,” Maeve nói, ngồi xuống ghế sau trong chiếc xe của chị.

Mẹ chúng tôi đeo một cặp kính râm Jackie O khổng lồ mà bác sĩ nhãn khoa tặng cho bà như một món quà. “Bác sĩ Shivitz cho biết lý do bệnh đục thủy tinh thể của mẹ tệ như vậy là vì mẹ chưa bao giờ đeo kính râm. Mẹ sống ở những nơi nắng gắt.”

Maeve mở ví, lục tìm kính râm trong khi mẹ chúng tôi rời bãi đỗ xe, băng qua mê cung của Philadelphia. Tôi không chắc lắm về khả năng lái xe của bà nhưng khi hòa mình vào dòng xe tấp nập, bà vẫn giữ vững tốc độ. Bà và Maeve tiếp tục nói về Pissarro, những bức tranh của ông về Normandy và Paris, cách ông hiểu về ánh sáng và con người. Họ nói như thể ông ấy là một người bạn mà cả hai cùng ngưỡng mộ.

“Chúng ta nên đi Paris,” Maeve nói với mẹ. Maeve vốn không bao giờ muốn đi đâu cả lại là người đề xuất điều này với mẹ. Mẹ chúng tôi đồng ý. “Đến lúc rồi,” bà nói.

Tôi không nghĩ rằng mình từng đi tàu đến Philadelphia mà không nghĩ đến hóa học và cách thầy Morey Able nói với tôi rằng nếu không nắm chắc chương 1 thì không thể nắm được chương 2. Maeve đã làm thế khi bà trở lại, tìm hiểu từ đầu cho đến khi hiểu được những gì đang xảy ra. Nhưng đối với tôi, mọi thứ hoàn toàn ngược lại: tôi chỉ có thể nhìn mẹ mình như con người bà bây giờ - bà già lái chiếc xe Volvo - và tôi thấy bà khá ổn. Bà năng nổ, hữu ích và tiếng cười sảng khoái như pha lê. Bà giống như mẹ ai đó chứ không phải mẹ tôi, phần lớn thời gian tôi đều nghĩ vậy. Nói cách khác, tôi nghĩ bà là mẹ của Maeve. Điều đó khiến cả ba chúng tôi đều thỏa mãn.

Không mấy quan tâm đến cuộc nói chuyện của họ về trường phái Ấn tượng, tôi nhắm nghiền mắt suốt quãng đường, quan sát các xe xung quanh và để ý khả năng lái xe của mẹ. Chúng tôi đã ra khỏi thành phố mà chẳng xảy ra sự cố nào. Tôi cảm thấy biết ơn vì các con tôi không quan tâm đến việc học lái xe. Một trong những ưu điểm khi sống ở New York là bạn có thể bắt taxi đi đến bất kỳ đâu. “Mẹ lái xe cừ đấy chứ,” cuối cùng tôi nói với bà.

“Mẹ luôn lái xe,” bà nói, quay cặp kính râm vĩ đại về phía tôi. “Ngay cả những năm qua, khi mẹ không nhìn thấy gì, mẹ vẫn lái xe ở New York và Los Angeles, vì Chúa. Mẹ đã lái xe ở Bombay cũng như Mexico. Mẹ nghĩ đó là nơi tệ nhất.” Mẹ bật đèn báo rẽ và chuyển làn đường bằng trực giác. “Cha con đã dạy mẹ lái xe, con biết đấy.”

“Giờ thì chúng ta có điểm chung rồi nhé,” Maeve nói.

Ông ấy đã dạy tôi vài bài học trong bãi đỗ xe của nhà thờ hồi tôi mười lăm tuổi. Đó là một trong nhiều cách kéo dài thời gian để tránh phải về nhà ngày Chủ nhật. “Cha dạy mẹ lái xe ở Brooklyn ư?”

“Ôi, trời, không. Hồi đó, ở Brooklyn chẳng ai có xe hơi cả. Mẹ học lái xe khi gia đình chuyển về khu nông thôn. Một đêm nọ, cha con trở về nhà và nói: ‘Elna, anh đã mua tặng em một chiếc ô tô. Đến đây để anh chỉ em cách nó hoạt động: Ông yêu cầu mẹ đi lên xuống lối ra vào vài lần, sau đó cha bảo mẹ lái ra đường. Hai ngày sau, mẹ có bằng lái xe. Hồi đó chưa đông đúc như bây giờ. Sẽ không cần lo về việc va phải ai đó.”

Tôi đã khám phá ra một điều nữa về mẹ chúng tôi: bà thích kể chuyện. “Kể cả vậy thì hai ngày cũng là nhanh rồi,” tôi đáp.

“Đó là cách cha con làm mọi việc.”

“Đó là cách cha làm mọi thứ,” Maeve nói.

“Mẹ biết ơn chiếc xe đó nhiều lắm. Mẹ thậm chí không cảm thấy tệ với số tiền mà cha phải bỏ ra. Đó là một con Studebaker Champion đời cũ. Hồi đó, tất cả đều là đất nông nghiệp. Ngay đằng kia,” mẹ chỉ vào một dãy nhà dài phía trước căn hộ, “từng là nông trại bò. Trước đây mẹ chưa từng sống ở nông thôn vì sự tĩnh mịch khiến mẹ lo lắng. Lúc đó con đã bắt đầu đi học,” mẹ nói với Maeve, “và tất cả những gì mẹ làm là ngồi trong căn nhà to lớn đó đợi con về. Nếu không có Fluffy và Sandy, chắc mẹ sẽ phát điên mất, mặc dù họ cũng ít nhiều khiến mẹ phát điên. Đừng kể với họ rằng mẹ đã nói vậy.”

“Tất nhiên là không rồi ạ,” Maeve nói, nghiêng người về phía trước giữa hai ghế ngồi.

“Mẹ quý họ lắm lắm nhưng họ chẳng để mẹ động tay vào bất cứ việc gì. Họ luôn lăng xăng trước mặt mẹ để rửa hoặc nhặt nhạnh thứ gì đó. Mẹ thuê Jocelyn vì mẹ sợ Sandy sẽ không ở lại nếu thiếu em gái, sau đó Jocelyn bắt đầu nấu nướng. Mẹ giỏi nhất là nấu ăn mà họ còn không cho mẹ nấu bữa tối. Nhưng từ khi mẹ có xe, mọi thứ tốt lên rất nhiều. Sau khi đưa con đến trường vào buổi sáng, mẹ sẽ lái xe đến Philadelphia và gặp bạn bè ở căn cứ, hoặc lái xe đến nhà thờ và làm những việc có ích cho đến lúc con tan học. Đó là khi mẹ làm bạn với những nữ tu dòng Mercy. Họ rất vui vẻ. Chúng ta bắt đầu thu gom quần áo. Các nữ tu và mẹ sẽ lái xe đi khắp nơi để thu về những thứ mọi người không cần đến nữa rồi mang quần áo về nhà, giặt giũ và chở tất cả lại nhà thờ. Lúc cha mẹ mới chuyển đến, trong nhà có rất nhiều quần áo, những thứ từng thuộc về nhà VanHoebeek. Rất nhiều trong số chúng không sử dụng được, nhưng số còn lại đã được mẹ và Sandy sửa để tái sử dụng. Bọn ta sửa áo cashmere, áo lông thú sao cho phù hợp với chúng ta. Con sẽ không tin được bọn ta đã tìm thấy gì đâu.”

Tôi nghĩ đến viên kim cương của Fluffy.

“Con luôn tự hỏi điều gì đã xảy ra với quần áo của nhà VanHoebeek,” Maeve nói.

“Cha con thường nói rằng mẹ sống trên chiếc xe đó,” mẹ vẫn theo đà, tiếp tục. “Ông thường chở mẹ đi thu tiền thuê nhà. Con biết đấy, cha không thích lái xe. Mẹ sẽ chất đầy món thịt hầm ở hàng ghế sau. Rất nhiều người trong số họ không có gì để ăn cả. Một ngày nọ, đến lượt một gia đình có năm đứa nhỏ ở hai phòng, còn người mẹ thì cứ ôm mặt khóc. Mẹ bèn nói với bà ấy: ‘Cô không cần trả tiền thuê nhà cho chúng tôi. Cô phải đến nhìn ngôi nhà mà chúng tôi đang ở,’ và thế là hết.” Mẹ cười. “Ông ấy đã điên tiết và không cho mẹ đi cùng nữa. Sau đó, hằng tuần, ông đều về và kể với mẹ rằng mọi người hỏi mẹ đâu. Ai cũng muốn ăn món hầm của mẹ.”

Trong ký ức của tôi, cha rất thích lái xe. Việc đó cũng không quá quan trọng.

Đến trước biển báo dừng, mẹ đi chậm lại rồi nhìn xung quanh. “Nhìn con phố này xem, mọi thứ giờ mọc lên như nấm. Hồi đó trên đường này chỉ có ba ngôi nhà thôi.”

Qua hai dãy nhà mẹ rẽ trái rồi lại rẽ trái. Vì quá để tâm đến trình độ lái xe của bà nên tôi đã không nhận ra bà định đi đâu. Chỉ lát sau, chúng tôi có mặt tại Elkins Park và đang tiến đến đường VanHoebeek.

“Từ khi về nhà chị đã quay lại đây lần nào chưa?” Tôi nói với Maeve nhưng thực ra ý tôi muốn hỏi: Chị có đưa mẹ đến đây không? Đã vài năm rồi chúng tôi không đến Ngôi nhà của Người Hà Lan và tôi cảm thấy kỳ lạ khi lại bước vào khu này như thể bị bắt gặp ở nơi nào đó mà chúng tôi không nên đến.

Mẹ lắc đầu. “Mẹ không còn quen ai ở đây nữa. Các con có quen biết ai khu này không?”

Maeve nhìn ra cửa sổ. “Đã từng ạ. Giờ thì không còn nữa. Danny và con thỉnh thoảng lại ghé qua và đỗ xe trước nhà.” Nghe như một lời thú tội, nhưng để làm gì? Chỉ là thỉnh thoảng chúng tôi ngồi nói chuyện trong xe mà thôi.

“Con về lại nhà sao?”

“Bọn con về lại khu này,” Maeve nói. “Chúng con thường ghé qua. Sao chúng con lại làm vậy nhỉ?” Chị hỏi tôi một câu rất ngây thơ. “Nhớ lại những thời xưa cũ sao?”

“Con có bao giờ gặp lại mẹ kế không?” Mẹ chúng tôi hỏi.

Chúng tôi đã từng gặp Andrea chưa? Chúng tôi đã từng gọi xã giao hỏi thăm dì ấy chưa? Tôi chưa bao giờ tham gia vào các cuộc nói chuyện giữa mẹ và Maeve khi họ nói chuyện về Andrea. Tôi không muốn vậy. Nghĩ về quá khứ là một bước lùi với hiện tại. Tôi hiểu rằng mẹ không đời nào đoán được sự xuất hiện của Andrea nhưng việc mẹ rời đi chính là cơ hội để cho dì ta bước chân vào nhà tôi.

“Chưa bao giờ,” Maeve lơ đễnh nói.

“Nhưng tại sao? Nếu đã đến đây rồi sao không vào hỏi thăm lấy một câu?” Mẹ giảm tốc rồi tấp vào lề. Mẹ đã dừng nhầm chỗ, vẫn còn cách nhà Buchsbaum một dãy nhà.

“Chúng con không...” Tôi cố tìm từ hợp lý nhưng Maeve đã lên tiếng để giúp tôi.

“Mời mẹ.”

“Như những người trưởng thành?” Mẹ tháo kính râm. Bà nhìn tôi rồi chị gái tôi. Những nơi ung nhọt bị cắt đi trên da thịt bà giờ mủn ra, đỏ quạch.

Maeve nghĩ một lát rồi lắc đầu. “Không.”

Lúc đó là cuối xuân, thời điểm đẹp nhất trong năm trên đường VanHoebeek ngoại trừ mùa thu. Tôi kéo cửa sổ xe, hương thơm hoa cỏ phả vào trong xe, khiến chúng tôi xây xẩm. Liệu có phải vì thế mà chúng tôi xây xẩm không? Tôi tự hỏi không biết liệu Maeve có giữ thuốc lá trong hộp đựng găng tay không.

“Đi thôi,” mẹ nói. “Đến và chào người ta một câu nào.”

“Chúng ta không nên làm vậy,” tôi lo lắng.

“Nhìn ba chúng ta mà xem, được về lại ngôi nhà cũ của chính mình. Thật điên rồ. Chúng ta sẽ đi qua lối vào xem ai ở đó. Biết đâu người khác đã sở hữu nó.”

“Không đâu,” Maeve nói.

“Điều này tốt cho chúng ta,” mẹ nói rồi lái xe vòng qua lối vào. Rõ ràng mẹ xem đây là một bài luyện tập tinh thần. Vào hay không chẳng có nghĩa lý gì đối với bà cả.

“Đừng làm vậy,” Maeve nói. Giọng chị không căng thẳng, không gấp gáp, như thể chị hiểu chúng tôi sẽ phải bước vào và không điều gì có thể cản được việc đó. Chúng tôi cứ thế tiến lên.

Mẹ bỏ đi khi nào? Vào lúc nửa đêm? Bà bước ra ngoài với chiếc va li và rời đi trong bóng tối? Liệu mẹ có nói lời tạm biệt với cha tôi? Bà có vào phòng để ngắm chúng tôi ngủ không?

Bà dừng xe khi đi qua hết hàng cây đoạn lá bạc. Lối vào không dài như trí nhớ của tôi nhưng ngôi nhà có vẻ vẫn như trước đây: đầy nắng, đầy hoa và lấp lánh. Kể từ những ngày đầu tiên ở Choate, tôi đã biết rằng trên thế giới không thiếu những ngôi nhà lớn hơn, hoành tráng hơn, thậm chí kỳ quặc hơn nhưng không có ngôi nhà nào đẹp như vậy. Tôi nghe thấy tiếng răng rắc quen thuộc khi bánh xe lăn qua đá dăm, và khi mẹ dừng xe trước bậc thềm, tôi có thể cảm nhận được cha sẽ cảm thấy phấn chấn thế nào, chị tôi muốn chạy ra bãi cỏ ra sao, làm thế nào mà chỉ mình mẹ tôi lại thấy ngôi nhà được phủ nhiều kính như một bảo tàng thu nhỏ ở ngoại ô.

Mẹ thở dài. Bà tháo kính đen trên đỉnh đầu và để chúng vào hộc để đồ giữa hai ghế. “Mẹ con mình cùng vào nhé.”

Maeve vẫn không muốn tháo dây an toàn.

Mẹ quay lại nhìn cô con gái. “Chẳng phải con là người luôn nói quá khứ chỉ là quá khứ và chúng ta cần buông bỏ mọi chuyện sao? Điều này sẽ tốt cho chúng ta.”

Maeve quay lưng về phía căn nhà.

“Khi mẹ làm ở trại trẻ mồ côi, mọi người thường quay lại. Nhiều người trông già như mẹ ấy. Họ vào rồi đi lên đi xuống các sảnh, nhìn vào các phòng. Họ sẽ nói chuyện với những đứa trẻ ở đó. Họ nói rằng điều đó có thể giúp chúng.”

“Đây không phải trại trẻ mồ côi,” Maeve nói. “Tụi con đâu phải trẻ mồ côi.”

Mẹ lắc đầu nhìn tôi. “Con có muốn vào trong không?”

“Không ạ,” tôi từ chối.

“Vào đi,” Maeve giục.

Tôi quay lại nhìn chị nhưng chị không nhìn lại tôi. “Chúng ta không cần phải vào,” tôi nói với chị mình.

“Ý chị là em vào đi. Chị đợi,” Maeve nói.

Tôi đã làm thế, vì tôi sẽ làm mọi điều mà Maeve muốn và bởi vì tôi phải nói điều này, rằng tôi rất tò mò, như những người mồ côi đã có tuổi ở Ấn Độ. Tôi muốn nhìn thấy quá khứ. Mẹ và tôi xuống xe, đứng trước cửa Ngôi nhà của Người Hà Lan. Trong khoảnh khắc đó, chỉ có hai chúng tôi, tôi và Elna. Tôi không tin nổi điều đó đã xảy ra.

Chúng tôi không phải chờ đợi xem điều gì sắp đến với mình. Lúc đến chân bậc thang, Andrea đã đứng ở phía sau cửa kính và nhìn chằm chằm về phía chúng tôi. Dì ta mặc một bộ đồ vải tuýt màu xanh với hàng cúc vàng, đánh son, đi đôi dày bệt như đang trên đường đến gặp luật sư Gooch. Nhìn thấy chúng tôi đứng đó, dì ta giơ hai tay lên và đập mạnh vào tấm kính, miệng há hốc, kêu lên vì kinh ngạc. Tôi từng nghe thấy âm thanh đó ở trong phòng cấp cứu vào đêm khuya: một con dao được rút ra, một đứa trẻ qua đời.

“Đó là Andrea,” tôi giới thiệu với mẹ chỉ để nhấn mạnh rằng ý tưởng của bà tệ đến mức nào. Người vợ thứ hai của cha là một người phụ nữ nhỏ bé, bé hơn cả hồi tôi biết dì ta, nhưng dì ta đập cửa sổ còn mạnh hơn tiếng gõ trống của các chiến binh. Cùng với tiếng la hét và tiếng đập cửa, tôi có thể nghe thấy âm thanh của những chiếc nhẫn dì ta đang đeo và tiếng nứt vỡ khi kim loại va chạm với mặt kính. Chúng tôi đứng hình, hai mẹ con ngoài cửa, còn Maeve trên xe hơi, chờ đợi giây phút ngôi nhà sẽ tan thành triệu mảnh và dì ta sẽ đến với chúng tôi như cơn thịnh nộ từ địa ngục.

Một người phụ nữ gốc Tây Ban Nha đẫy đà với bím tóc dài, khuôn mặt bình tĩnh của một điều dưỡng nhanh chóng xuất hiện rồi ôm Andrea vào lòng, kéo dì ta lại. Cô nhìn thấy hai mẹ con tôi đứng đợi ở đó, cao và gầy giống nhau. Mẹ tôi, với mái tóc bạc phơ ngắn ngủn, những nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt nhưng ánh mắt lại khoan thai và điềm tĩnh đến lạ thường, gật đầu như muốn nói: “Đừng lo, chúng tôi sẽ không lên đó được đâu,” vì vậy cô đã mở cửa cho chúng tôi vào. Rõ ràng cô định hỏi chúng tôi là ai, nhưng ngay lúc đó Andrea đã phóng ra nhanh như chớp. Trong một giây, dì ta đã băng qua bậc thang và tiến về phía tôi như thể dì ta định đi xuyên qua ngực tôi. Dì ta đấm mạnh vào ngực tôi rồi vùi mặt vào áo tôi, vòng bàn tay bé nhỏ qua eo tôi. Dì ta khóc, tấm lưng bé nhỏ căng lên trước nỗi đau của dì ta. Trong một khoảnh khắc, Maeve ngay lập tức lao ra khỏi xe. Chị nắm lấy vai của Andrea và cố kéo dì ta ra.

“Chúa ơi, Andrea! Thôi ngay đi!” Chị hét.

Nhưng chẳng điều gì ngăn cản được dì ta. Dì ta bám chặt lấy tôi như một người biểu tình bị xích vào hàng rào. Tôi có thể cảm nhận được nhịp tim cũng như hơi thở gấp gáp của dì ta. Tôi bắt tay Andrea vào ngày đầu tiên gặp mặt dì ta và ngoại trừ khi lướt qua dì ta trong căn bếp chật hẹp hoặc bị ép buộc phải chen chúc nhau để chụp ảnh Giáng sinh, chúng tôi chưa bao giờ chạm vào nhau thêm một lần nào nữa, ở đám cưới cũng không và tất nhiên ở đám tang cũng vậy. Tôi nhìn xuống đỉnh đầu dì ta, mái tóc vàng được chải gọn, kẹp sau gáy. Tôi có thể thấy đường da đầu nhỏ xíu trên đầu cũng như ngửi được mùi nước hoa thoang thoảng của dì ta.

Mẹ đưa tay lên lưng Andrea như để trấn an. “Bà Conroy?” Mẹ gọi.

Maeve đứng sát tôi. “Cái đ* gì vậy?”

Người phụ nữ gốc Tây Ban Nha, rõ ràng là bị đau đầu gối, khập khiễng bước xuống cầu thang, đi về phía chúng tôi. “Thưa bà chủ,” cô nói với Andrea. “Bà phải vào trong ngay thôi.”

“Cô có thể lôi bà ta ra khỏi em trai tôi không?” Maeve hỏi, giọng bừng bừng lửa giận, đặt tay lên vai tôi như chỉ hai chúng tôi ở đó.

“Anh,” Andrea nói trong cơn hổn hển. Dì ta đang khóc như đến ngày tận thế. “Anh... anh.”

“Thưa bà,” người phụ nữ nói lại lần nữa khi đến chỗ chúng tôi. Đầu gối cứng đờ của cô khiến tôi nghĩ đến cha mình. Ông cũng bước xuống cầu thang y như vậy. “Sao bà khóc vậy? Bạn bà đến để hỏi thăm bà mà.” Cô nhìn tôi mong nhận được lời xác nhận nhưng chính tôi cũng không hiểu mình đang làm gì ở đây.

“Tôi là Elna Conroy,” cuối cùng mẹ tôi cũng nói. “Đây là con tôi, Danny và Maeve. Bà Conroy đây là mẹ kế của họ.”

Trước tin này, người phụ nữ nở nụ cười thật tươi: “Bà ơi, bà nhìn kìa! Gia đình! Gia đình bà đến thăm bà kìa.”

Andrea dụi đầu vào ngực tôi như thể muốn chui sâu vào đó.

“Thưa bà,” người phụ nữ nói, xoa đầu Andrea. “Hãy vào nhà ngay với gia đình. Vào và ngồi xuống.”

Đưa được Andrea vào nhà không phải việc dễ dàng. Dì ta bám dính lấy tôi. Tôi dìu dì ta từng bước. Dì ta không nặng nhưng sự đeo bám của dì ta khiến dì ta như chẳng thể bước nổi. Đôi giày tuột ra khỏi chân dì ta, mẹ cúi nhặt giúp.

“Chị từng mơ về chuyện này,” Maeve nói với tôi, tôi cười phá lên.

“Mẹ tôi muốn qua thăm,” tôi nói với người phụ nữ đi trước Andrea. Tôi không biết cô là quản gia, y tá hay quản giáo nữa.

Người phụ nữ cố vào nhà trước chúng tôi với tốc độ nhanh nhất mà cái đầu gối cô cho phép. “Bác sĩ ơi!” Cô gọi với lên cầu thang.

“Đừng,” Andrea níu lấy áo tôi và tôi biết dì ta muốn nói gì: Đừng gào thét, đừng chạy.

Tôi nâng dì ta lên bậc thang cuối cùng. Tôi đã phải vòng tay qua lưng dì ta để làm điều đó. Tôi không được sinh ra với trí tưởng tượng đủ lớn để bao trọn khoảnh khắc này.

“Cô ấy nghĩ rằng cha con trở về,” mẹ tôi nói, đưa tay lên để che ánh nắng mặt trời buổi chiều rọi thẳng vào mắt. “Cô ấy nghĩ con là Cyril.” Sau đó, mẹ bước vào tiền sảnh, đi qua chiếc bàn tròn mặt đá cẩm thạch, hai chiếc ghế kiểu Pháp, chiếc gương được viền bằng con bạch tuộc vàng, chiếc đồng hồ của ông nội, thứ có con tàu lắc lư giữa hai làn sóng được tạo bằng kim loại sơn màu.

Trong trí tưởng tượng của tôi, những năm qua vô cùng khắc nghiệt đối với Ngôi nhà của Người Hà Lan. Tôi tin chắc nó sẽ biến thành thứ gì đó tồi tàn, lở loét, tàn tích của một tác phẩm vĩ đại khi không có mặt tôi nhưng thực tế thì không phải thế. Ngôi nhà vẫn giống ngày chúng tôi bị đuổi khỏi đây ba mươi năm trước. Tôi bước vào phòng khách, Andrea cứ bám rịt lấy tôi, vết mascara đen chảy dài, nước mắt loang khắp áo sơ mi của tôi. Có thể một số đồ nội thất đã được xếp lại, bọc lại, thay thế nhưng ai mà nhớ được hết chứ? Những tấm màn lụa, những chiếc ghế lụa màu vàng, những cuốn sách tiếng Hà Lan vẫn nằm gọn trong tủ kính, chẳng bao giờ được lôi ra đọc. Ngay cả những hộp thuốc lá bằng bạc cũng ở đó, được đánh bóng và nằm chờ ở cuối bàn, như hồi gia đình VanHoebeek còn sống. Kéo được Andrea xuống ghế cùng mình, cuối cùng tôi cũng được ngồi. Dì ta nép vào tôi. Dì ta đã ngừng khóc, chỉ còn lại tiếng sụt sịt khe khẽ. Dì ta không phải Andrea mà tôi từng biết.

Maeve và mẹ tôi lướt vào phòng trong im lặng, cả hai đều nhìn vào những thứ mà họ chưa bao giờ có ý định nhìn lại: tấm thảm da rái cá, chiếc đèn Trung Quốc, những sợi tua rua làm bằng lụa xoắn màu xanh giúp giữ tấm rèm cửa bằng vải gọn gàng. Nếu trước đây tôi từng nhìn thấy họ trong căn phòng này thì cũng là từ hồi tôi còn quá nhỏ, chẳng nhớ gì. Tôi có thể thò tay vào túi để đưa cho Andrea chiếc khăn tay, nhớ rằng đó là Andrea, không phải Maeve hay Sandy, người dạy tôi luôn mang theo khăn bên mình. Dì ta lau mặt rồi áp tai vào ngực tôi để lắng nghe nhịp đập trái tim tôi. Mẹ và chị gái tôi đi đến trước lò sưởi để nhìn lại bức họa nhà VanHoebeek.

“Mẹ ghét chúng,” mẹ nói khẽ, tay vẫn cầm đôi giày của Andrea.

Maeve gật đầu, nhìn vào đôi mắt đã dõi theo chúng tôi suốt thời thơ ấu. “Con thì rất thích chúng.”

Đúng lúc Norma chạy xuống cầu thang. “Inez! Tôi rất xin lỗi. Tôi vừa nói chuyện với bệnh viện. Chuyện gì xảy ra vậy?” Em chạy qua tiền sảnh. Norma luôn chạy và mẹ em luôn nhắc nhở em đừng làm vậy. Giờ thì chẳng ai có thể nói em đừng làm điều đó. Mẹ và chị gái tôi đang đứng trước bức tường lát gốm vẽ thủ công vùng Delft ư? Tôi ngồi trên ghế dài và mẹ em quấn lấy tôi như một dây nho? Inez rạng rỡ. Gia đình đã ghé thăm.

Tôi sẽ không nhận ra Norma nếu tôi nhìn thấy em trên phố, có thể tôi đã nhìn thấy em trên phố nhưng trong căn phòng này thì không cần hỏi gì cả. Norma cao hơn nhiều so với mẹ, khỏe khoắn hơn. Em đeo chiếc kính gọng nhỏ như thể hiện niềm mến mộ của mình với John Lennon hoặc Teddy Roosevelt, mái tóc dài được túm gọn phía sau. Đã ba mươi năm kể từ khi chúng tôi rời đi nhưng tôi vẫn nhận ra em. Đây là người đã đánh thức tôi nhiều đêm, kể cho tôi nghe giấc mơ của em. “Norma, đây là mẹ bọn anh, Elna Conroy,” tôi nói, nhìn vào mẹ. “Norma là em dâu của chúng con.”

“Em là con riêng mẹ kế của anh chị,” Norma sửa. Em đang nhìn chằm chằm vào căn phòng, thu cảnh tượng lạ lùng này vào tầm mắt nhưng vẫn không quên đưa mắt tìm Maeve. “Chúa ơi,” em nói. “Em xin lỗi.”

“Norma đã lấy phòng của con,” Maeve kể với mẹ.

Norma chớp mắt. Em mặc chiếc quần tối màu, áo cánh hồng. Không tô điểm hay rườm rà, không thứ gì thu hút sự chú ý, một bộ trang phục thể hiện mình không phải con gái Andrea. “Ý em không phải chuyện căn phòng.”

“Căn phòng có bệ ngồi bên cửa sổ sao?” Mẹ hỏi, chắc chắn có thể hình dung được nơi con gái bà từng ngủ nhiều năm về trước.

Maeve ngước lên trần nhà, chi tiết trên phào này được gọi là trứng và phi tiêu. “Thực ra em ấy được cả căn nhà. Ý con là mẹ em ấy đã lấy cả căn nhà.”

Tôi như nhìn thấy lúc Norma hồi tám tuổi, sức nặng của chuyện chiếm phòng ngủ vẫn đè nặng lên em. “Em xin lỗi,” em nhắc đi nhắc lại.

Em đã ngủ trong căn phòng đó suốt từng năm ấy sao? Có phải em vẫn sống trong nhà này và ngủ trên chiếc giường của Maeve không?

Maeve nhìn thẳng vào em. “Chị đùa thôi mà,” chị thì thầm.

Norma lắc đầu. “Sau khi anh chị bỏ đi, em đã rất nhớ hai người.”

“Ý em là sau khi mẹ em vứt bọn chị ra đường?” Maeve không kiềm chế được ngay cả khi chị không cố tình nói vậy với Norma. Chị đã đợi một thời gian dài chỉ để nói ra lời này.

“Sau đó,” Norma nói, “và tới tận phút trước.”

“Mẹ con thế nào?” Elna hỏi như thể chúng tôi không biết gì về tình trạng của dì ta. Có lẽ bà muốn thay đổi chủ đề. Bà không hiểu được mối liên hệ giữa Maeve và Norma vì bà không ở đó.

Một hộp giấy ăn được đặt trên bàn cà phê. Sẽ không bao giờ có hộp giấy ăn trên bàn nếu Andrea vẫn còn minh mẫn. Norma đến gần lấy khăn giấy. “Đó là chứng mất ngôn ngữ nguyên phát tiến triển hay cũng có thể gọi là Alzheimer. Cháu không chắc nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng vì không thể làm gì được cả.” Ít nhất trong phút đó, mẹ của Norma là điều cuối cùng trong tâm trí Norma.

“Em có chăm bà ấy không?” Maeve hỏi. Tôi thực sự nghĩ là có thể dì ta sẽ khạc nhổ ra thảm.

Norma chìa tay chỉ người phụ nữ thắt bím tóc. “Inez làm hầu hết mọi việc. Em mới chuyển về được vài tháng.”

Inez mỉm cười. Đó không phải mẹ em.

Elna đi đến, quỳ trước mặt Andrea, xỏ giày giúp dì ta, rồi ngồi trên chiếc ghế dài, để vợ hai của cha ngồi giữa chúng tôi. “Thật vui biết mấy khi con gái em quay về đây,” bà nói với Andrea.

Andrea, vẫn đang cười vô thức, lần đầu nhìn mẹ tôi, rồi chỉ vào bức tranh treo trên tường đối diện với bức tranh nhà VanHoebeek. “Con gái tôi đấy,” dì ta nói.

Tất cả chúng tôi đều quay lại nhìn bức chân dung chị gái tôi được treo ở vị trí mà nó vẫn thuộc về. Trong tranh là cô bé Maeve mười tuổi. Cô bé đứng trước đài quan sát, mái tóc đen nhánh xõa ngang lưng làm nền cho chiếc áo khoác đỏ. Quanh chị, những chú én đang sải cánh chao lượn trên những khóm hoa hồng. Mắt Maeve xanh đậm và sáng. Ai nhìn vào bức tranh cũng sẽ tự hỏi không biết cô bé lớn lên trông sẽ như thế nào. Maeve là một đứa trẻ tuyệt vời và tương lai sẽ khiến cả thế giới phải quỳ rạp trước chị, nâng chị lên những vì sao.

Maeve đi vòng qua ghế dài chúng tôi đang ngồi, rồi đi tới đứng trước mặt cô bé chị từng quen. “Chị đã nghĩ chắc chắn dì ta sẽ vứt nó đi,” chị nói.

“Bà ấy thích bức vẽ,” Norma kể.

Andrea gật đầu thật mạnh và chỉ vào bức tranh. “Con gái tôi đấy.”

“Không phải,” Maeve lên tiếng.

“Con gái tôi đấy,” Andrea nói lại rồi quay sang nhìn bức tranh nhà VanHoebeek. “Còn đây là cha mẹ tôi.”

Maeve đứng lặng như thể đang cố làm quen với tình huống mới mẻ này. Chúng tôi bị mê hoặc khi nhìn chị đặt bàn tay chắc chắn của mình vào hai bên khung để kéo bức tranh ra khỏi tường. Khung tranh to bản, được sơn mài màu đen để đồng bộ với mái tóc của cô bé trong ảnh nhưng bức tranh chỉ có kích thước vẽ bán thân một đứa trẻ mười tuổi. Chị vật lộn trong giây lát để lấy bức tranh xuống và Norma đưa tay ra phía sau bức tranh để giúp chị. Bức tranh đã được tháo khỏi tường.

“Nặng lắm,” Norma nói, đưa tay ra giúp.

“Chị đỡ được,” Maeve trấn an. Một góc nhỏ của khung tranh bị rời hẳn ra và nằm lại trên tường như minh chứng cho việc bức tranh vẽ Maeve từng nằm đây.

“Chị sẽ tặng cái này cho May,” Maeve nói với tôi. “Nhìn giống con bé quá.”

Dưới ghế, Andrea vuốt ve chiếc khăn tay của tôi đang được để trên đùi dì ta rồi bắt đầu gấp nó lại.

Maeve dừng lại rồi nhìn Norma. Chị cúi xuống và hôn em vì đôi tay còn bận bịu cầm bức tranh. “Đáng lẽ chị nên quay lại thăm em,” chị nói, “Em và Bright.”

Rồi chị bước ra khỏi căn nhà đã ám ảnh mình gần như cả cuộc đời.

Tôi đã nghĩ Andrea sẽ hoảng hốt khi tôi đứng dậy theo gót chị hoặc sẽ nổi đóa khi chúng tôi mang bức tranh của dì ta đi. Nhưng không, dì ta đang bị thu hút bởi chiếc khăn tay của tôi. Khi tôi đứng lên, dì ta mất thăng bằng trong giây lát rồi lại ngả sang mẹ tôi như dây leo cần cọc. Mẹ tôi choàng tay qua người dì ta, sao lại không chứ? Maeve đã đi rồi mà.

Tôi khẽ ôm Norma ở cửa. Tôi chưa bao giờ biết Maeve từng nghĩ về Norma và Bright nhưng điều đó cũng dễ hiểu thôi. Tuổi thơ của chúng tôi là một ngọn lửa hận thù. Có bốn đứa trẻ sống trong ngôi nhà nhưng chỉ hai đứa bị đuổi đi.

“Mẹ sẽ ở lại đây thêm chút nữa,” mẹ nói với tôi. Thật buồn cười khi thấy hai bà Conroy ngồi đó cùng nhau - mặc dù “buồn cười” không phải từ phù hợp với tình huống này - một người bé nhỏ ăn mặc như búp bê, người còn lại to cao và gợi đến hình ảnh của Thần Chết.

“Mẹ cứ ở lại bao lâu tùy ý,” tôi nói và thực sự nghĩ vậy, bao lâu tùy ý. Tôi và chị gái sẽ đợi trên xe.

Tôi bước ra khỏi cửa nhà lúc trưa muộn, hôm đó là một ngày đẹp trời. Không chút gì kỳ lạ khi nhìn thế giới ở vị trí này, cũng chẳng có gì khác biệt so với trước đây. Maeve ngồi trên ghế lái, bức tranh thơ ấu phía đằng sau. Cửa sổ xe kéo xuống, chị đang hút thuốc. Khi tôi lên xe, chị đưa bao thuốc cho tôi.

“Chị thề với em là sẽ bỏ thuốc,” chị hứa.

“Em cũng vậy.” Tôi lấy một que diêm.

“Điều này là thật chứ?”

Tôi chỉ vào vệt son môi với mascara lem nhem trên áo.

Maeve lắc đầu. “Andrea mất trí rồi. Công lý đã được thực thi theo một cách kỳ lạ.”

“Em cảm thấy như chúng ta vừa lên mặt trăng vậy.”

“Và Norma...!” Maeve nhìn tôi. “Ôi Chúa ơi! Tội nghiệp Norma.”

“Ít nhất chị cũng lấy được bức tranh vẽ con gái Andrea. Em không có tâm trí mà nghĩ đến điều đó.”

“Chị tưởng chắc rằng bà ta đã đốt nó.”

“Dì ta yêu ngôi nhà. Dì ta yêu mọi thứ trong ngôi nhà.”

“Ngoại trừ chúng ta.”

“Thế là dì ta loại bỏ chúng ta. Sau đó, mọi thứ đều hoàn hảo.”

“Mọi thứ đều hoàn hảo!” Chị nói. “Em tin được không? Chị không biết mình đang mong đợi điều gì nhưng chị không nghĩ ngôi nhà vẫn trong tình trạng hoàn hảo sau khi chúng ta rời đi. Chị luôn tưởng ngôi nhà sẽ chết nếu không có chúng ta. Chị không biết nữa, chị nghĩ nó sẽ tan nát. Những ngôi nhà có bao giờ chết vì đau buồn không?”

“Chỉ những ngôi nhà tử tế.”

Maeve bật cười. “Thế thì nó chẳng đứng đắn gì cho cam. Chị đã bao giờ kể em nghe câu chuyện về người họa sĩ chưa?”

Tôi biết một vài chi tiết, không phải tất cả. Tôi muốn biết tất cả. “Kể em nghe đi.”

“Tên ông ấy là Simon,” chị nói. “Ông đến từ Scotland nhưng sống ở Chicago. Ông ấy rất nổi tiếng hoặc đó là chị nghĩ vậy. Lúc đó chị lên mười.”

“Đó là một bức tranh tuyệt đẹp.”

Maeve nhìn ra ghế sau xe. “Đúng vậy, nó thật đẹp. Em thấy giống May không?”

“Giống chị, mà May thì giống chị.”

Chị rít một hơi, ngửa đầu ra sau rồi nhắm mắt lại. Tôi có thể cảm thấy được cảm giác của chúng tôi giống hệt nhau, kiểu như chết đuối mà vớ được cọc ở phút chót. Chúng tôi đã sống mà như không sống trong suốt từng ấy năm trời. “Những ngày đó, cha là người thích những điều bất ngờ. Ông thuê Simon từ Chicago để vẽ bức tranh về mẹ. Simon sẽ ở lại trong hai tuần. Bức tranh được cho là rất lớn, bằng kích thước của bức tranh vẽ ông bà VanHoebeek. Ông ấy sẽ trở lại và vẽ cha sau. Kế hoạch là vậy. Sau đó, khi hoàn tất mọi thứ, tranh ông bà Conroy sẽ được treo phía trên lò sưởi.”

“Vậy bức tranh ông bà VanHoebeek sẽ ra sao?”

Maeve mở một bên mắt và cười với tôi. “Chị yêu em,” chị nói. “Chị đã hỏi y hệt vậy đấy. Bức tranh nhà VanHoebeek sẽ được chuyển sang treo ở phòng khiêu vũ.”

“Ai kể cho chị nghe những chuyện này?”

“Simon. Khỏi phải nói, Simon và chị có rất nhiều thời gian để nói chuyện lúc đó.”

“Chị đang nói với em là mẹ chúng ta đã không muốn dành hai tuần đứng trong chiếc váy dạ hội để vẽ chân dung sao?” Mẹ chúng tôi, bà sơ của những người khốn khổ, người những xương là xương với đôi giày tennis quen thuộc.

“Không muốn. Không thể. Khi bà từ chối, cha cũng không muốn vẽ chân dung nữa.”

“Vì sau đó ông sẽ phải ở phía trên lò sưởi với bà VanHoebeek.”

“Chính xác. Tất nhiên, vấn đề là người họa sĩ vẽ chân dung đã ở đó và cha đã cọc nửa số tiền, còn em thì quá bé để chịu ngồi vẽ chân dung nên chị đã được chọn vào phút chót. Simon phải đóng chiếc khung mới trong ga ra và cắt tấm toan đi.”

“Chị phải ngồi bao lâu?”

“Không lâu lắm. Chị mê ông ấy kinh khủng. Chị không nghĩ em có thể để người khác nhìn thẳng vào em trong hai tuần mà không yêu họ. Cha vô cùng tức giận về số tiền phải bỏ ra và sự thật lần nữa khiến ông nổi điên, còn mẹ thì tức giận hoặc đau đớn với bất cứ thứ gì bà làm trong những ngày đó. Họ chẳng nói chuyện với nhau và chẳng buồn nói chuyện với Simon. Nếu ông bước vào căn phòng thì họ sẽ bước ra, nhưng Simon không bận tâm. Đối với ông ấy vẽ ai không quan trọng, quan trọng là ông ấy được vẽ. Tất cả những gì ông ấy quan tâm là ánh sáng. Chị chưa bao giờ nghĩ đến ánh sáng cho đến hè năm đó. Chỉ ngồi trong vùng sáng cả ngày là một điều mới mẻ với chị. Chị và ông ấy sẽ không ăn tối trước khi trời tối, thậm chí nhiều lúc bàn ăn chỉ còn chị và ông ấy. Jocelyn để phần thức ăn cho bọn chị ở bếp. Ngày nọ, Simon nói với chị: ‘Cháu có thứ gì màu đỏ không?’ và chị nói với ông ấy chiếc áo khoác mùa đông của chị màu đỏ. Ông nói: ‘Đi lấy áo khoác của cháu đi,’ thực ra là: ‘Lấy éo khoác củ áu đi.’ Chị bước đến tủ quần áo của mình, lôi áo ra mặc vào. Ông nhìn chị một hồi và nói: ‘Con gái à, con chỉ nên mặc đồ đỏ thôi.’ Ông ấy gọi chị là ‘con gái.’ Chị sẽ đến Chicago với ông trong một nốt nhạc nếu ông đem chị đi.”

“Nếu vậy em sẽ nhớ chị chết mất.”

Chị quay lại nhìn bức tranh thêm lần nữa. “Em thấy mặt chị không? Vẻ mặt đó là vẻ mặt lúc chị nhìn Simon đấy.” Chị rít điếu thuốc cuối cùng rồi ném đầu lọc ra ngoài cửa sổ. “Sau khi ông ấy bỏ đi, mọi thứ như rơi vào địa ngục, hoặc có thể trong hai tuần chị ở trên đài quan sát thì dưới nhà đã là địa ngục nhưng chị quá hạnh phúc với Simon để nhận ra điều đó. Mẹ không thể ở lại nổi, chị thấy vậy. Mẹ sẽ phát điên nếu phải sống trong một căn biệt thự với bức chân dung của mình.”

“Giờ trông mẹ có vẻ thoải mái khi ở đó.” Tôi nhìn vào ngôi nhà nhưng chẳng đôi mắt nào phía sau cửa kính dõi lại chúng tôi. Tôi ném điếu thuốc ra ngoài, ho sặc sụa, rồi chúng tôi châm thêm điếu nữa.

“Giờ trong nhà có những người mà bà cảm thấy thương. Khi bà sống ở đó, người duy nhất bà cảm thấy tội nghiệp có lẽ là chính bà.” Chị hít một hơi, sau đó phả sạch khói. “Không thể trách bà được.”

Tất nhiên là Maeve đã đúng, dù cái nhìn sâu sắc này khiến tôi khó chịu. Khi mẹ ra khỏi nhà và ngồi ghế sau cùng bức tranh, bà đã thay đổi. Ngay cả trước khi bà mở lời, tôi thấy một bầu không khí lạ lẫm chưa từng xuất hiện trước đây. Tôi nhận ra mọi thứ sẽ thay đổi từ giây phút này. Mẹ sẽ trở lại công việc của bà.

“Những con người dễ thương,” bà nhận xét. “Inez là một vị thánh. Cô ấy là người đầu tiên Norma có thể giữ được hơn một tháng. Norma đã sống ở Palo Alto từ hồi học trường y. Con bé đang quản lý thứ gì đó ở California nhưng rồi phải gác lại để về nhà chăm sóc mẹ.”

“Chúng con cũng nghe kể ạ.” Hai chúng tôi rít điếu thuốc cuối cùng rồi ném nó ra bãi cỏ mạnh như ném phi tiêu rồi Maeve lái xe xuống lối ra đến đường Van Hoebeek. Chúng tôi không buồn quay đầu nhìn lại.

“Ban đầu, Norma muốn đưa Andrea đi để tiện chăm sóc nhưng Andrea không muốn rời khỏi căn nhà.”

“Đáng lẽ con phải đuổi bà ta ra khỏi nhà,” Maeve nói. “Bà ta không thoải mái khi ra khỏi nhà và cũng không thích người khác vào nhà. Những người dọn dẹp, sửa chữa đều làm bà ta khó chịu. Thật khổ cho Norma.”

“Norma là bác sĩ à?” Tôi hỏi. Phải có một người trong nhà làm bác sĩ.

“Con bé là bác sĩ chuyên về ung thư ở trẻ em. Con bé nói với mẹ tất cả là lỗi của con. Rõ ràng mẹ con bé thấy rất khó chịu khi con học trường y.”

Tội nghiệp Norma. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng em cũng bị ép buộc vào cuộc đua này. “Còn em gái em ấy thì sao? Bright ấy?”

“Giờ con bé là huấn luyện viên yoga. Con bé sống ở Banff.”

“Bác sĩ chuyên về ung thư ở trẻ em rời Stanford để chăm sóc mẹ, còn người hướng dẫn yoga lại ở Canada sao?” Maeve hỏi.

“Thật vậy đấy,” mẹ chúng tôi nói. “Tất cả những gì mẹ biết là con bé không muốn về nhà.”

“Đi đi, Bright,” Maeve nói.

“Norma cần giúp đỡ, Norma và Inez. Norma mới bắt đầu thực tập tại Bệnh viện Nhi Philadelphia.”

Tôi nói rằng chắc chắn họ còn rất nhiều tiền. Ngôi nhà trông vẫn vậy, còn Andrea không muốn rời khỏi nhà.

“Andrea quan tâm đến tiền hơn cả J. D. Rockefeller[2],” Maeve nói. “Tin con đi, bà ta còn khối tiền.”

“Mẹ nghĩ tiền không phải vấn đề. Họ chỉ cần tìm được người họ có thể tin tưởng, một người mà Andrea thấy thoải mái.”

“Mẹ nghe con đi,” Maeve nói, xoay người xuống băng ghế dưới, dây an toàn căng lên để giữ chị ở đúng vị trí. “Mẹ sẽ không quay lại đó. Mẹ tò mò. Bọn con theo chân mẹ. Vậy là hết.”

Mẹ lắc người khe khẽ để xem có đau chỗ nào không. Bà sờ lên mũi. Máu dính trên ngón tay bà. “Họ cần mẹ,” bà nói.

“Con cần mẹ!” Maeve hét lên. “Con luôn cần mẹ. Mẹ đừng trở lại đó nữa.”

Mẹ lôi khăn giấy từ túi ra nhét vào mũi rồi để bức tranh vào chỗ cũ. Bà thắt dây an toàn bằng một tay. Chiếc Toyota phía sau chúng tôi bóp còi giục giã. “Về nhà rồi hãy nói.” Bà đã đưa ra quyết định của riêng mình nhưng chưa tìm được cách nào để trình bày với các con.

Hôm sau, Maeve đã định chở tôi ra ga tàu nhưng vì đường thoáng và quá tức giận nên chị đã đưa tôi về tận New York. “Rặt những thứ nhảm nhí về cho đi, vị tha và hòa hảo. Chị sẽ không để mẹ đi qua đi lại giữa nhà chị và nhà Andrea đâu.”

“Chị định đuổi mẹ ra khỏi nhà sao?” Tôi cố gắng để không lộ ra sự háo hức, tự nhắc nhở bản thân rằng đây là mẹ Maeve, là niềm vui của Maeve.

Chị bối rối khi nghĩ đến điều đó. “Bà chỉ cần chuyển đến đấy thôi mà. Em biết đấy, họ thích điều đó mà. Bà liên tục nói rằng Andrea cảm thấy thoải mái khi ở cạnh bà và đấy là lý do bà cần giúp họ, như thể chị quan tâm về sự thoải mái của Andrea ấy.”

“Hãy để em nói chuyện với mẹ,” tôi nói. “Em sẽ bảo điều đấy không tốt cho sức khỏe của chị.”

“Chị đã nói với bà như thế. Đúng là không tốt cho sức khỏe của chị. Chỉ nghĩ về việc bà đến đó vì bà ta và không...” Chị nhỏ giọng rồi im hẳn.

Nhiều chuyện xảy ra khiến chúng tôi quên béng mất bức tranh phía ghế sau xe. “Hãy đưa nó cho May,” Maeve nói khi chị dừng trước cửa nhà tôi.

“Không,” tôi nói chắc nịch. “Đây là tranh của chị. Hãy tặng nó cho May khi con bé đã trưởng thành và có nhà riêng. Chị cần phải giữ nó thêm một thời gian nữa. Hãy treo nó phía trên lò sưởi và nghĩ về Simon.”

Maeve lắc đầu. “Chị không muốn bất cứ thứ gì đến từ ngôi nhà đó. Chị đã nói với em, điều đó chỉ khiến chị thấy điên tiết hơn thôi.”

Tôi nhìn vào cô bé trong bức chân dung. Lẽ ra cuộc đời em phải luôn ngây thơ và rực rỡ như vậy. “Vậy chị phải hứa với em là chị sẽ lấy lại nó nhé!”

“Chị hứa,” chị nói.

“Tìm chỗ đỗ xe rồi chị cầm nó vào tặng cho con bé nào.” Chúng tôi đã đỗ xe ghép bên chiếc xe khác.

Maeve lắc đầu. “Thôi mà, làm ơn đi! Làm gì còn chỗ nào mà đỗ!”

“Thôi nào! Đừng hâm thế chứ! Chị đang ở ngay đây mà.”

Chị lắc đầu, nhìn như sắp khóc. “Chị mệt lắm.” Sau đó chị lại nói làm ơn đi.

Thế nên tôi để chị đi. Tôi vòng ra phía sau lấy bức tranh và túi của mình. Trời bắt đầu đổ mưa khiến tôi chẳng thể nhìn theo bóng chị đang khuất xa. Tôi cũng không vẫy tay chào chị nữa. Tôi mở khóa rồi hối hả đem bức tranh vào nhà.

Chúng tôi nói rất nhiều về cuộc sống hằng ngày của mẹ, Andrea, Norma và ngôi nhà cũng như cách nó khiến Maeve suy sụp hoàn toàn. Chị nói về Công ty Otterson. Tôi kể với chị về một tòa nhà tôi muốn mua nhưng để mua được thì lại phải bán một tòa khác mà tôi thì không muốn bán. Tôi nói với chị rằng bức tranh làm May rất sung sướng. “Bọn em treo nó ở phòng khách, phía trên lò sưởi.”

“Mỗi ngày chị đều ở phòng khách nhà em sao?”

“Điều đấy thật tuyệt.”

“Celeste không thấy phiền chứ?”

“Trong mắt Celeste bức tranh đó quá giống May. Mọi người đều nghĩ đấy là May ngoại trừ con bé. Nếu có ai hỏi con bé đều trả lời: ‘Đấy là bức chân dung của bác con và con.’”

Hai tuần sau chuyến đi của chúng tôi đến Ngôi nhà của Người Hà Lan, mẹ gọi điện cho tôi trước khi trời sáng để thông báo rằng Maeve đã qua đời.

“Chị ấy có đó không?” Tôi hỏi. Tôi không tin bà ấy. Tôi muốn Maeve tự mình thông báo cho tôi tin này.

Celeste bật dậy nhìn tôi. “Sao vậy?”

“Con bé ở đây,” mẹ tôi nói. “Mẹ đang ở cùng con bé.”

“Mẹ gọi cấp cứu chưa?”

“Chưa. Mẹ muốn gọi cho con trước.”

“Đừng tốn thời gian nữa. Gọi cấp cứu ngay!” Giọng tôi vang lên.

“Ôi, Danny,” mẹ tôi nói rồi òa khóc.

Chú thích:

[1] Camille Pissarro (1830-1903): họa sĩ nổi tiếng trường phái Ấn tượng người Pháp.

[2] J. D. Rockefeller (1839-1937): ông trùm kinh doanh, nhà từ thiện người Mỹ, được coi là người Mỹ giàu có nhất mọi thời đại.