Chương 1 ROSA, NGƯỜI ĐẸP
Tặng mẹ, bà và những nhân vật phụ nữ đặc biệt trong câu chuyện này.
Nghĩ cho cùng, con người sống được bao lâu?
Sống nghìn năm hay chỉ có một năm?
Một tuần lễ; hay sống nhiều thế kỷ?
Đến bao lâu thì con người chết nhỉ?
Cắt nghĩa ra sao khi nói “cho đến suốt đời”?
Pablo Neruda
Barrabás đến với gia đình theo đường biển, cô bé Clara ghi như vậy bằng nét chữ mảnh dẻ của mình. Ngay từ lúc bấy giờ cô đã có thói quen ghi chép những sự việc cô cho là quan trọng - đến khi cô bị câm, cô lại ghi chép cả những chuyện thường ngày, - mà không ngờ rằng năm mươi năm sau, những cuốn vở ghi chép của cô đã giúp cho tôi dùng vào việc thu nhặt tái hiện lại những kỷ niệm của thời xưa, làm cho nó sống lại trước con mắt kinh hoàng của chính tôi. Ngày mà Barrabás tới đó là ngày Thứ Năm Thần Thánh. Con vật nằm trong chiếc chuồng không xứng đáng, bên trong ngập đầy phân và nước tiểu của chính nó, đôi mắt nó đờ đẫn, lạc lõng như mắt một tên tử tù đáng thương không có gì bảo vệ; nhưng ngay từ lúc đó người ta cũng đã đoán được cái cỡ khổng lồ thần thoại của nó sau này bởi khuôn khổ thực tế của đầu nó và cỡ lớn của bộ xương nó. Ngày hôm đó là một ngày mùa thu chán ngấy, không có chút gì ra vẻ điềm báo trước về những sự việc quan trọng xảy ra như việc đã xảy ra trong buổi lễ misa lúc mười hai giờ, tại nhà thờ San Sebastián, nơi cô cùng toàn thể gia đình tham dự ngày hôm đó. Để tỏ dấu hiệu tang tóc, những tượng thánh đều được phủ kín bằng những mảnh vải màu tím, mà những nữ tín đồ ngoan đạo hàng năm lôi ra từ trong tủ quần áo thánh để rũ bụi; và dưới những tấm khăn phủ như vậy cả một triều đình trên thiên giới giống như một đám đồ gỗ lộn xộn đang nằm chờ thuyên chuyển mà những ngọn nến, những bó hương và tiếng than van của cây đàn ống cũng không thể làm cho nó mất đi cái dáng vẻ tồi tệ thực tế đáng buồn. Những tượng thánh toàn thân với những khuôn mặt lạnh lùng giống nhau như đúc, với những bộ tóc giả làm bằng tóc người chết, với những viên hồng ngọc, ngọc trai, và thanh ngọc giả bằng thủy tinh vẽ mầu, với những bộ quần áo kiểu những nhà quý phái xứ Florentine, bây giờ đây trở thành những khối tròn đen xẫm mọc sừng sững, dáng vẻ dọa nạt. Chỉ có một bức tượng duy nhất phù hợp với lễ tang là tượng thánh chủ của ngôi nhà thờ San Sebastián, bởi vì trong tuần lễ thánh, thần đã tránh cho những tín đồ khỏi phải trông thấy cái cảnh thân mình thánh quằn quại trong một dáng dấp tục tằn, có hàng nửa tá mũi tên xuyên qua thân mình thánh, máu và nước mắt phun lai láng, trông như thể một anh chàng mắc bệnh đồng tính luyến ái đang trong cơn đau khổ; những vết thương trên mình thánh luôn luôn tươi máu vì cha Restrepo luôn lấy bút lông tô lại, những vết thương đã làm cho Clara rùng mình, kinh tởm.
Đó là một tuần lễ sám hối và kiêng khem dài đằng đẵng, một tuần kiêng ăn, không chơi bời, không nổi nhạc khêu gợi tình dục và lãng quên, và tín đồ phải giữ mình tuân theo, trong khuôn khổ có thể, một sự buồn rầu nhất và thanh sạch nhất, mặc dù chính trong những ngày đó, cái vòi độc của quỷ dữ lại rủ rê thúc giục đến hết mức cái xác thịt yếu ớt của con người cơ đốc. Bữa ăn kiêng chỉ có loại bánh đa ngọt, món xúp rau ngon lành, nem bột rán phôm phốp và phó mát thô mang từ quê ra, đó là tất cả món ăn mà gia đình Clara dùng trong tuần lễ nhớ tưởng đến niềm Say Mê của Đức Chúa, và cố giữ gìn không động đến một miếng nhỏ cá hoặc thịt, đúng như lời dặn của đức cha Restrepo thường nhắc đi nhắc lại. Không một ai dám không vâng lời cha. Đức cha Restrepo có một ngón tay buộc tội dài, ngài thường dùng để trỏ vào những người mắc tội ngay trước mặt công chúng, và cha có một cái lưỡi đã điêu luyện để làm xáo động tình cảm của tín đồ.
– Con, tên ăn trộm đã đánh cắp tiền lễ nhà Thờ - từ bục giảng cha Restrepo kêu thét và đưa tay trỏ vào một ngài đang giả vờ vuốt vuốt một nếp áo khoác ngoài để khỏi phải trườn mặt ra nhìn đức cha. - Còn con, không biết hổ thẹn, đã trụy lạc tại bến cảng! - và cha đưa ngón tay trỏ vào mặt bà Ester Trueba để kết tội, một người phụ nữ bại liệt do bệnh viêm khớp, nữ tín đồ của Đức Mẹ Đồng Trinh Carmen, trong lúc bà trợn tròn mắt kinh ngạc, không hiểu nghĩa của lời cha vừa buông ra kết tội, cũng như không biết bến cảng nó ở chỗ nào. - Hãy sám hối, những con chiên tội lỗi, đám thịt hôi thối không xứng với đức hi sinh của Đức Chúa chúng ta! Hãy ăn chay! Hãy sám hối!
Bị kích thích bởi sự say mê nghề nghiệp, đức cha phải cố kìm hãm mình lại để khỏi rơi vào chỗ quá lộ liễu, trái lời dạy bảo của những đấng bề trên trong nhà thờ, những vị đã bị cơn gió của chủ nghĩa hiện đại làm lung lay chao đảo, những vị đã từng chống lại sự trừng phạt xác thịt đối với những con chiên tội lỗi. Đức cha Restrepo thuộc phái chủ trương quất roi vào xác thịt từng trận kịch liệt để chiến thắng những mềm yếu của linh hồn. Ngài nổi tiếng bởi những bài giảng vô cương tỏa. Tín đồ đi theo ngài từ nhà thờ này đến tu viện nọ, đều toát mồ hôi nghe đức cha diễn tả những nỗi quằn quại của kẻ tội lỗi dưới địa ngục, thịt da bị rứt xé bởi những máy móc tra tấn tân kỳ, những ngọn lửa vĩnh cửu, những xiên móc xuyên qua bộ phận sinh dục nam giới, những con rắn kinh tởm chui vào trong chỗ kín nữ giới, và bao nhiêu nhục hình khác cứ hiện lên sau mỗi một đoạn cầu kinh để truyền bá những phương pháp khủng bố ghê sợ của Đức Chúa. Tên quỷ Satan cũng được đức cha kể kỹ đến tận những kỳ hình, dị tính kín đáo nhất của hắn bằng cái giọng miền Galicia của ngài, người có sứ mệnh trên cõi đời này là lay động lương tri của những đứa con lai đau khổ.
Severo del Valle, người vô thần và theo phái Tam Điểm, nhưng có nhiều tham vọng chính trị nên không thể vắng mặt trong những buổi lễ misa ngày Chủ nhật mà rất nhiều người tới dự cốt để cho tất cả mọi người đều có thể nhìn thấy mình tại nhà thờ. Bà vợ ông, Nívea, thích tự tìm hiểu Chúa chứ không cần đến kẻ trung gian, nên bà rất không tin những vị mặc áo choàng đen và rất chán nghe những lời diễn tả trên trời, trong nhà sám hối và dưới địa ngục, nhưng bà luôn theo sát ông chồng trong những tham vọng vào nghị trường, với niềm hy vọng nếu chồng chiếm được một ghế trong Quốc Hội, bà sẽ có thể có được một lá phiếu phụ nữ, cho nên bà đã tham gia đấu tranh từ mười năm nay, mặc dù nhiều lần thai nghén bà vẫn không nản chí. Ngày Thứ Năm Thần Thánh đó đức cha Restrepo đã đưa những tín đồ thính giả của ngài tới chỗ tận cùng của giới hạn chịu đựng bằng những cảnh về ngày tận thế, và lúc đó bà Nívea bắt đầu cảm thấy váng vất buồn nôn. Bà tự hỏi hay lại có thai. Mặc dù đã rửa ráy bằng dấm và dùng bọt bể tẩm mật đắng để kỳ cọ, bà cũng đã cho ra đời mười lăm đứa con, trong số đó mười một người còn sống, và cô gái út của bà, Clara, năm nay đã lên mười tuổi, nên bà cũng có lý khi nghĩ rằng mình đã ở vào độ tuổi chững lại rồi. Có lẽ đã chấm dứt rồi sự sung sức mắn đẻ đáng ngạc nhiên của bà rồi chứ. Bà liền đổ tội cho việc cha Restrepo sau một đoạn giảng kinh đã chỉ vào bà để nói đến tên đạo đức giả muốn hợp pháp hóa những đứa con đẻ hoang và những cuộc hôn nhân tự do, tách biệt gia đình, tổ quốc, tư hữu với Nhà Thờ, muốn cho phụ nữ được bình đẳng với nam giới, công khai bất chấp luật lệ của Chúa, đó chính là nguyên nhân của sự váng vất khó ở của bà. Nívea và Severo cùng các con chiếm tất cả dãy ghế dài ở hàng thứ ba. Clara ngồi bên cạnh mẹ và bà mẹ nắm chặt bàn tay cô bé một cách nôn nóng khi thấy bài diễn văn của đức cha kéo quá dài về những tội lỗi xác thịt, bởi bà cho rằng những chuyện đó có thể dẫn dắt cô gái bé tới chỗ nhìn nhận rất sai lầm về thực tại, điều đó đã được chứng minh rõ ràng bằng những câu hỏi của cô bé mà chẳng một ai biết đường nào mà trả lời. Clara là một cô bé chín rất sớm trước tuổi và có một sức tưởng tượng tràn trề mà tất cả những người phụ nữ trong gia đình đều được thừa hưởng theo dòng máu mẹ. Không khí của Nhà Thờ đã làm tăng thêm mùi ngát của nến, hương và đám đông chen vai thích cánh, và cái mùi quá hắc ấy đã khiến cho Nívea thấy mệt. Bà muốn cuộc lễ kết thúc ngay cho xong để có thể trở về ngôi nhà mát mẻ của mình, ngồi trong hàng hiên đầy cây dương sỉ và nhấp nháp cốc nước hạnh nhân mà Vú Em thường pha chế trong những ngày lễ hội. Bà đưa mắt nhìn các con, những đứa nhỏ thấy đã mệt, cứng nhắc trong bộ quần áo diện ngày Chủ Nhật, của những đứa lớn đã có vẻ bắt đầu lơ đãng. Bà để mắt nhìn Rosa, cô gái lớn trong số những con gái còn sống, và cũng như mọi khi, bà thấy ngạc nhiên. Sắc đẹp lạ lùng của cô có đặc tính gây rối loạn mà cả cô cũng không thoát khỏi, nó làm cho cô tựa như được tạc nên bởi một chất liệu khác với chất của nòi giống con người. Nívea biết con gái mình có lẽ không phải người của cuộc đời này ngay từ trước khi sinh ra cô, bởi vì bà đã trông thấy cô trong nhiều giấc mộng, vì thế nên bà chẳng lấy làm ngạc nhiên khi bà đỡ phải kêu thất thanh khi cô vừa lọt lòng. Khi lọt lòng mẹ ra đời Rosa đã trắng trẻo, nhẵn nhụi, không nhăn nhúm, trông cô giống như một con búp bê bằng sứ, với bộ tóc xanh mướt, đôi mắt màu vàng, rõ ràng là một đứa trẻ đẹp nhất được sinh ra trên trái đất kể từ thời kỳ có tội tổ tông truyền, như lời của bà đỡ vừa làm dấu thánh vừa thốt lên như vậy. Ngay từ lần tắm đầu tiên Vú Em đã tắm rửa cho cô bé bằng nước sắc của hoa cúc liên chi, thứ nước tắm có công dụng làm dịu mầu da, làm cho da cô có cái cung sắc của mầu đồng tươi, Vú bế cô trần truồng phơi nắng để cho da cô được mịn chắc hơn, làn da như trong suốt ở dưới bụng, kẽ nách, qua đó có thể đoán thấy được những mạch máu và cái cơ cấu bí mật của cơ bắp bên trong. Những phương thuốc truyền thống của cô gái Digan đó cũng chẳng đủ để tránh lan truyền đi rất nhanh chóng cái tin đồn rằng nhà họ Valle đã sinh đẻ ra một cô tiên. Nívea lo sợ đến những năm trưởng thành đầy bất trắc sẽ đem đến cho cô con gái của bà một vài khuyết tật trong cơ thể, nhưng cái đó đã không xảy ra, mà trái lại, đến năm mười tám tuổi Rosa cũng không béo ra và cũng không có trứng cá, mà chỉ thấy cái duyên dáng mặn mà của cô càng đậm nét. Màu da cô với những bóng xanh xanh dìu dịu, màu tóc xanh mướt của cô, sự chậm chạp trong chuyển động và tính cách lặng lẽ của cô gợi cho ta nghĩ tới một cư dân ở dưới nước. Cô mang trong người chút gì như thể loài cá, và nếu như mọc ra được một cái đuôi có vảy thì rõ ràng cô là một nàng tiên cá nhưng đôi chân của cô lại đặt cô vào vị trí giới hạn không rõ ràng giữa một con người và một con vật thần thoại. Nhưng dù có mang trong người tất cả những tính cách đó, cô gái trẻ Rosa sống một cuộc sống hầu như bình thường, cô có một người yêu và một ngày kia sẽ cưới nhau, và khi đó, lễ cưới ấy sẽ đặt trách nhiệm bảo vệ sắc đẹp của cô vào những bàn tay khác. Rosa nghiêng đầu và một tia nắng lọt qua khuông cửa kính kiểu Gothic của nhà thờ, dọi một vầng hào quang trên khuôn mặt cô. Một vài người quay đầu để nhìn cô và thì thầm với nhau, như vẫn thường như vậy mỗi khi cô đi ngang qua trước mặt mọi người, nhưng Rosa dường như chẳng để ý đến bất cứ cái gì, cũng chẳng có đến một sợi tóc kiêu kỳ hợm hĩnh, ngày hôm đó lại càng lơ đãng hơn thường lệ vì cô đang tưởng tượng trong óc những con vật mới để thêu trên tấm khăn bàn của cô, những con thú nửa loài chim nửa loài có vú, người phủ đầy lông đủ mầu sắc cầu vồng, trên đầu có những cặp sừng và dưới chân có vuốt, thân hình to béo, hai bên nách có cánh thật ngắn, những hình ảnh bất chấp những quy luật của sinh vật học và khí thể động lực học. Rất ít khi cô nghĩ tới người yêu, Esteban Trueba, không phải vì cô thiếu tình yêu đối với anh ta, mà bởi tại cái tính nết hay quên của cô, và bởi tại hai năm xa cách, hai năm vắng mặt nhau thật quả là nhiều xa cách quá! Anh ta đang làm việc tìm vàng tại những khu mỏ miền Bắc. Anh viết thư cho cô theo đúng khuôn phép, và Rosa đôi khi gửi thư trả lời anh, có kèm những câu thơ sao chép trong sách và những tranh vẽ hoa bằng mực Tàu trên giấy da mỏng. Qua những bức thư trao đổi mà Nívea thường thường vi phạm bằng cách kiểm duyệt, bà biết được tất cả những biến động của nghề thợ mỏ, một nghề luôn luôn bị đe dọa đổ vỡ, xụt lở, trong khi đuổi theo dò tìm những vỉa cứ trôi trượt đi, trong khi vay nợ để mở những tài khoản của rủi may số phận, phó thác vào lòng tin sẽ xuất hiện một vỉa đầy vàng kỳ diệu nó cho phép người khai mỏ nhanh chóng tạo nên một gia sản lớn để quay trở về khoác tay Rosa đến trước bệ thờ làm lễ cưới, để trở thành người đàn ông hạnh phúc nhất trên thế giới, như thể bao giờ Esteban Trueba cũng viết vậy trong phần cuối của bức thư. Tuy vậy, Rosa không thấy cần phải lấy chồng một cách vội vàng, và hầu như cô đã quên cái hôn duy nhất mà họ đã trao nhau khi chia tay, và cô cũng chẳng nhớ được chắc chắn mầu mắt của anh người yêu kiên trì đó. Do ảnh hưởng của những cuốn tiểu thuyết lãng mạn, những thứ duy nhất mà cô đọc, nên cô thích tưởng tượng thấy anh đi ủng da cao gót, da cháy sạm bởi nắng gió trên hoang mạc, đang đào bới đất để tìm những kho báu của những tên tướng cướp chôn dấu bí mật, những kho tiền vàng cổ Tây Ban Nha và những đồ trang sức bằng vàng của người Inca; và bà Nívea thật tốn công vô ích trong việc cố làm cho cô hiểu, cố thuyết phục để cô tin rằng những của quý của mỏ là bụi vàng nằm lẫn trong đất đá, bởi vì đối với Rosa, cô không thể tin được rằng Esteban Trueba lại có thể thu nhặt hàng tấn đất đá vụn với cái hi vọng đưa nó vào nung trong lò lửa để bắt nó phun ra một gam vàng. Trong khi đó cô chờ đợi một cách chẳng buồn phiền, không mảy may lo lắng, lặng lẽ bình tĩnh làm một nhiệm vụ khổng lồ mà cô tự đặt cho mình: thêu một tấm khăn bàn to nhất trên thế giới này. Cô bắt đầu bằng những mẫu thêu chó, mèo và bướm, nhưng ngay lập tức óc tưởng tượng lạ kỳ dẫn dắt công việc của cô, và dưới đường kim thêu của Rosa cả một thiên đường của những thú vật không thể có được hiện lên trước đôi mắt lo lắng của cha cô. Severo del Valle cho rằng đã đến lúc con gái ông phải thoát ra khỏi cơn mơ mộng nặng nề và đặt mình trong thực tế, phải học lấy một nghề gì thuộc phạm vi nội trợ để chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân, nhưng, Nívea không lo lắng như ông về chuyện đó. Bà không thích làm đau khổ con gái bằng những đòi hỏi trên cuộc đời trần tục, vì bà đã cảm thấy trước có lẽ Rosa là một con người trên thiên giới, cô không sinh ra để dai dẳng sống lâu năm trong cái thế giới thô tục này, cho nên bà để con gái được thảnh thơi yên tĩnh với những sợi chỉ cùng những hình thêu của cô, và không phản đối cái vườn bách thú kỳ lạ, sản phẩm của những cơn ác mộng của con bà.
Một sợi giây đeo coóc-sê của Nívea bị đứt, đầu đứt cứng nhắc cắm vào giữa hai hàng xương sườn. Bà cảm thấy như bị ngạt trong bộ áo váy bằng nhung mầu xanh da trời, cổ viền đăng ten hơi quá cao, đôi tay áo quá chật, lưng áo thật quá chét, khiến cho mỗi khi cởi áo váy bụng bà bị cuộn dấy lên đau đến nửa tiếng đồng hồ, cho đến khi ruột non ruột già ở bên trong lại đâu đấy trở về đúng vị trí bình thường. Bà và một số bà bạn thuộc phái đòi quyền bầu cử cho phụ nữ đã nhiều lần thảo luận về vấn đề mặc coóc-sê kiểu đó và cuối cùng chỉ đi đến kết luận là trong khi phụ nữ chưa cắt ngắn váy và bộ tóc, và chưa từ bỏ những chuyện tiếu lâm, thì dù cho có thể đi học nghề thuốc hoặc được quyền bầu cử thì cũng thế thôi, bởi vì chả ai làm gì có tinh thần dám bỏ chiếc áo quỷ đó, và chính bà cũng không có cái dũng khí làm một người đầu tiên vứt bỏ cái mốt đương thời. Nívea nhận thấy giọng nói miền Galicia đã thôi không chát chúa đập vào đầu óc; thấy mình đang ở trong phút giây ngừng lại khá lâu của bài thuyết giáo mà đức cha, con người hiểu rất rõ tác động của một phút lặng yên trái nghịch, nên cha thường hay sử dụng. Đôi mắt nảy lửa của ngài lợi dụng những giây phút đó để lướt trên mặt của từng tín đồ trong địa phận. Nívea buông tay Clara, tìm một chiếc khăn trong tay áo để lau mấy giọt mồ hôi trên cổ. Sự yên lặng thật sâu lắng, đặc quánh và thời gian như ngưng lại trong nhà thờ, và không một ai dám ho hoặc thay đổi tư thế ngồi cho thoải mái, để khỏi bị đôi mắt của đức cha Restrepo chú ý. Nhưng lời nói cuối cùng của đức cha còn ngân vang giữa những hàng cột.
Ngay trong lúc đó, mà nhiều năm sau này Nívea vẫn nhớ, trong cơn bứt rứt và im ắng đó, giọng nói của cô bé Clara nổi lên thật rõ mồn một.
– Sịịịịt! Thưa cha Restrepo! Nếu câu chuyện về địa ngục chỉ là điều nói dối, thì tất cả chúng mình đều mắc cái tội lầm to!
Ngón tay trỏ của nhà truyền giáo cơ đốc đang lơ lửng trong không khí chuẩn bị chỉ mặt những người có tội nữa, rơi thõng ngay xuống như thể một tiếng sét rơi xuống chính đầu của ngài. Mọi người đều nín thở và những người đang ngủ gật chợt tỉnh táo hẳn lên. Hai vợ chồng Valle là người đầu tiên có phản ứng khi cảm nhận thấy một nỗi kinh hoàng xâm chiếm họ và thấy những đứa con của họ bắt đầu nhốn nháo mất bình tĩnh. Severo hiểu cần phải hành động nhanh gấp trước khi tiếng cười của mọi người nổ ra, hoặc một tai họa trời giáng nào đó chợt xập xuống. Ông vội nắm lấy cánh tay bà vợ và tóm lấy cô Clara, kéo cả hai người líu ríu theo sau những bước chân soải rộng của ông, và theo sau nữa là cả lũ con nhốn nháo lộn xộn chạy ra phía cửa. Toàn bộ gia đình Valle chạy thoát ra khỏi cửa nhà thờ trước khi đức cha Restrepo có thể cầu được một tia sét giáng xuống để biến cả gia đình nhà họ thành những bức tượng cứng quèo bất động, nhưng khi đến được bực cửa ra vào họ vẫn nghe rõ giọng nói dữ tợn của vị cha đạo vừa bị xúc phạm.
– Đồ ma quỷ ám! Đồ ma quỷ ám điên dại!
Những lời rủa đó của đức cha Restrepo đọng lại mãi mãi trong ký ức của gia đình Valle với cái vẻ trầm trọng của một lời tiên đoán mà trong nhiều năm liên tiếp sau đó họ thường hay có dịp để nhớ lại. Người duy nhất không chú ý và nhớ đến điều đó chính là cô bé Clara, cô chỉ ghi gọn nó trong cuốn nhật ký, rồi sau cũng quên bẵng đi. Cha mẹ cô, trái lại, không thể quên được những lời rủa đó, mặc dầu cả hai đều thống nhất với nhau là bệnh ma ám và bệnh điên loạn ma làm hai tội quá nặng đối với một đứa con gái còn quá nhỏ. Hai vợ chồng Valle sợ những lời dị nghị xấu của mọi người và lòng cuồng tín của đức cha Restrepo. Những tính cách khác thường kỳ quặc của con gái họ cho tới ngày hôm đó, họ vẫn chưa hề đặt tên gọi nó là gì, và cũng không hề cho rằng nó có liên quan đến những ảnh hưởng của quỷ Satan. Họ vẫn cho rằng những đặc tính đó của cô gái út chẳng qua cũng như thể cái tật thọt chân của thằng Luis anh nó, hoặc như thể nhan sắc của Rosa chị nó. Cái mãnh lực tinh thần của Clara cũng không hề làm cho bất kỳ một ai khó chịu và cũng chẳng gây ra một sự lộn xộn lớn nào cả, mà hầu như bao giờ nó cũng chỉ thể hiện trong những việc chẳng có gì quan trọng, và cũng chỉ trong phạm vi thân mật, bó hẹp trong khuôn khổ gia đình. Đôi ba lần, vào giờ ăn, khi tất cả mọi người trong gia đình đã tụ họp xung quanh chiếc bàn ăn lớn, ngồi theo trật tự nghiêm ngặt của ngôi thứ quyền hạn trong nhà, thì lọ muối nhỏ bắt đầu rung rung rồi bất chợt chuyển động trên mặt bàn, di chuyển len lỏi giữa những cốc, đĩa, mà chả thấy có một luồng điện năng, hay trò ma thuật nào can thiệp vào. Nívea kéo nhẹ bím tóc của Clara và bằng cách đó bà đã kéo được cô gái út của bà ra khỏi cơn đãng trí mơ màng, để cho lọ muối nhỏ trở lại trạng thái bình thường, bất động. Mấy anh chị lớn của bé Clara đã tổ chức sắp đặt để những khi có khách đến nhà, ai ngồi gần nhất thấy có cái gì động đậy trên bàn thì phải đưa tay ra nắm ngay lập tức trước khi vị khách trông thấy được để vị đó khỏi giật mình kinh ngạc. Còn tất cả mọi người trong gia đình cứ tiếp tục ăn không bình luận gì. Và mọi người cũng đã quen với những lời đoán trước mà cô bé út thường đưa ra. Cô bé báo trước những cuộc động đất; trên cái đất nước có nhiều thảm họa kiểu này, điều đó cũng rất tiện vì nó làm cho người ta có đủ thì giờ để cất giữ bát đĩa cốc chén vào nơi an toàn, và đặt giày dép ở ngay tầm tay để có thể chạy ngay ra ngoài trong lúc có động đêm hôm. Năm lên sáu tuổi Clara đã tiên đoán con ngựa sẽ quật ngã Luis, nhưng anh chàng không tin lời cô bé, sau đó quả nhiên bị ngã ngựa và một bên hông bị thương teo lại. Cùng với thời gian trôi đi, chân trái anh chàng bị ngắn lại và phải tự tạo cho mình một chiếc giầy đặc biệt có một chiếc đế thật cao. Sau lần đoán đó bà Nívea rất lo lắng, nhưng Vú Em làm cho bà yên tâm với lý lẽ nói có rất nhiều đứa trẻ có thể bay lên như ruồi, hoặc có thể đoán được những điềm trong cơn mộng và nói chuyện được với những linh hồn người chết, nhưng tất cả những cái đó đều sẽ biến đi khi thời kỳ ngây thơ vô tội của chúng đã qua đi.
Không có đứa trẻ nào lớn lên mà vẫn giữ trạng thái ấy đâu - Vú giải thích. - Hãy chờ mà xem con bé, nó sẽ không còn cái tài làm chuyển dịch đồ vật và báo trước những điều lành dữ xảy ra đâu.
Clara là đứa bé được Vú Em yêu quý nhất. Vú đã giúp nó lọt lòng mẹ và Vú là người duy nhất hiểu được thực sự bản chất kỳ cục của đứa bé gái. Khi Clara lọt lòng mẹ, Vú đã ôm ấp nó, tắm rửa cho nó, và kể từ lúc đó trở đi Vú yêu đến tuyệt vọng đứa con gái yếu ớt; với hai lá phổi đầy những đờm rãi, luôn luôn ở trong nguy cơ bị ngạt thở và tím ngắt lại, đứa bé mà nhiều lần Vú đã phải cấp cứu hồi sinh bằng hơi nóng của đôi vú thật lớn của mình khi nó ngạt, bởi vì Vú biết phương pháp đó là phương pháp duy nhất công hiệu đối với hen suyễn, còn công hiệu nhiều hơn những môn thuốc sắc có pha rượu của bác sĩ Cuevas.
Ngày Thứ Năm Thần Thánh đó Severo đi đi lại lại trong phòng khách, băn khoăn lo lắng vì việc gây rối ren mà đứa con gái út đã phạm phải trong buổi lễ misa. Ông đưa ra những luận cứ nói chỉ có một người cuồng tín như đức cha Restrepo mới có thể tin vào ma quỷ ở giữa thế kỷ hai mươi này, thế kỷ ánh sáng, thế kỷ của khoa học kỹ thuật, trong đó ma quỷ đã vĩnh viễn không còn ai sợ ai tin. Nívea ngắt lời ông, nói cái đó không phải điểm chính. Điều nghiêm trọng, theo bà, nằm ở chỗ nếu những chiến công kiểu ấy của cô con gái họ lọt ra khỏi bốn bức tường của ngôi nhà và ông cố đạo bắt đầu đi dò xét thì rồi tất cả thủ đô này người ta sẽ biết hết.
– Rồi người ta bắt đầu tới tấp đến nhà để ngắm nhìn hiện tượng lạ - Nívea nói.
– Và thế là Đảng Tự Do đi tiêu - Severo tiếp thêm, vì ông đã nhìn thấy sự tác hại mà nó có thể gây ra cho sự nghiệp chính trị của ông nếu người ta nói có một con bé phù thủy trong gia đình.
Họ đang chuyện trò với nhau như vậy thì Vú Em, kéo lê chiếc hài sảo, với tiếng sột soạt của chiếc váy lót hồ cứng bước vào báo tin có mấy người khiêng một người chết hiện đang có mặt ở trong sân nhà. Đúng thế. Mấy người đó đi trên một chiếc xe có bốn ngựa kéo đi vào, chiếm cả một khoảng sân đằng trước, séo nát cả mấy khóm trà mi, gót ủng làm hoen bẩn cả nền đá nhẵn sáng bóng, kéo theo sau một trận cuồng phong bụi mù, mấy tràng ngựa hí, và lời chửi rủa mấy người mê tín đang đưa tay làm những giáng điệu như bùa phép để chống cái nhặm của bụi bay vào mắt. Bọn người này mang thi thể của ông cậu Marcos cùng tất cả hành trang của ông tới. Một người nhỏ bé, mũm mĩm chỉ huy cả bọn ầm ĩ đó, ông ta mặc áo đen, vạt đuôi tôm dài, đội một chiếc mũ quá rộng vành, vào đến nơi liền bắt đầu một bài diễn văn trang trọng để giải thích về trường hợp của vụ này, nhưng ông ta bị Nívea ngắt lời một cách tàn nhẫn, vì bà đã lao mình gieo người trên nắp quan tài phủ đầy bụi bẩn, trong đó có thi hài của người em trai yêu quý nhất của bà. Nívea kêu gào đòi mở nắp quan tài để được chính mắt trông thấy đứa em trai. Trước đây có lần bà đã phải chôn em trai rồi, và chính vì vậy giờ đây bà cũng vẫn thấy nghi ngờ rằng lần này cũng chưa hẳn cậu em đã thật chết rõ ràng! Những tiếng kêu gào của bà làm cho bầy gia nhân trong nhà kéo tới, và tất cả các con bà đều chạy đến khi nghe thấy tiếng kêu khóc gọi tên người cậu của chúng một cách thảm hại, tang tốc.
Đã hai năm nay Clara không được gặp cậu Marcos, nhưng cô bé vẫn nhớ kỹ cậu. Đó là hình ảnh duy nhất rõ ràng, hoàn hảo mà cô nhớ được trong thời kỳ thơ ấu và để gợi lại hình ảnh đó cô chẳng cần tra cứu lại bộ ảnh gia tộc treo trong phòng khách, ở đó cậu hiện ra trong bộ quần áo nhà thám hiểm, tựa tay vào ngọn một khẩu súng săn hai nòng kiểu cổ xưa, chân phải dận trên gáy một con hổ Malaysia, trong tư thế thắng lợi giống y như thể hình Đức Bà Đồng Trinh trên bàn thờ lớn, đứng dẫm chân trên người con quỷ đã bị đánh bại, giữa những đám mây trắng thạch cao, và một quần tiên á thánh mầu xanh tái mà cô thường chú ý ngắm nhìn. Clara chỉ cần nhắm mắt lại là trông ngay thấy cậu bằng xương bằng thịt hẳn hoi, da cháy nắng bởi khí hậu khắc nghiệt của tất cả mọi miền trên trái đất, người gày, có bộ ria kiểu cướp biển, và ở bộ ria đó nở ra nụ cười lạ lùng của cậu, với những chiếc răng như răng cá mập. Dường như cô không thể nào tin được cậu lại nằm trong chiếc quan tài đen đặt ở giữa vườn kia.
Mỗi lần Marcos về thăm gia đình của bà chị Nívea, ông ta đều ở lại chơi một vài tháng, gây cho lũ cháu một niềm vui nhộn nhạo, đặc biệt đối với Clara, và tạo nên cả một cơn phong ba lộn xộn, trong đó trật tự ngăn nắp ở trong nhà bị tiêu tan hết. Căn nhà trở nên bừa bãi, đầy những hòm xiểng, thú vật ướp khô, lao giáo của người India, phao bơi của lính thủy. Tại khắp mọi góc, người trong nhà đều vấp phải những đồ vật kỳ lạ của ông, trong đó có đủ cả những loại vật chưa bao giờ ai từng trông thấy, những con vật đã làm cuộc hành trình từ những miền đất xa lăng lắc, để cuối cùng nằm bẹp dưới nhát chổi không thương tiếc của Vú Em vun gọn vào trong một xó nhà. Cung cách sống của cậu Marcos là kiểu sống của một loài ăn thịt sống, theo như cách nói của Severo. Cậu suốt đêm làm những động tác khó hiểu trong phòng khách, mà mãi về sau này Severo mới hiểu, đó là những cuộc tập luyện nhằm hoàn thiện năng lực điều khiển và kiểm tra của ý chí tinh thần đối với cơ thể vật chất và làm cho sự tiêu hóa được hoàn hảo. Cậu làm những thí nghiệm về thuật luyện kim ở trong bếp, hun khói bốc lên từng đám đen kịt cả căn nhà, mùi khét lẹt hôi mù, và tiêu hủy trong việc đó biết bao nhiêu nồi soong để đun những chất rắn chắc mà bếp lò không làm sao nung chảy. Trong khi mọi người trong nhà cố gắng ngủ, cậu kéo lê những chiếc va-li chạy suốt dãy hàng hiên, thử nghiệm những âm thanh lanh lảnh bằng những dụng cụ man rợ, và cậu dạy nói tiếng Tây Ban Nha cho một con vẹt, mà tiếng mẹ đẻ của nó nguồn gốc ở vùng sông Amazon. Ban ngày cậu ngủ trên một chiếc võng chăng giữa hai cây cột của hành lang, không có gì che đậy thân hình ngoài chiếc khố, làm cho Severo hết sức khốn khổ và cáu giận, nhưng Nívea lại tha thứ cho cậu em, bởi lẽ Marcos đã thuyết phục được bà tin rằng đức Nazareth cũng đã truyền bá lối đó. Clara bấy giờ tuy còn rất nhỏ vẫn nhớ rõ ràng lần thứ nhất cậu Marcos đến với gia đình sau một chuyến viễn du trở về. Cậu đến mang theo đủ thứ như thế để ở lại suốt đời cùng gia đình cô. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, chán ngấy cái chuyện phải trường mặt ra dự những buổi trao đổi văn nghệ của những cô con gái, trong cuộc đó bà chủ nhà đánh đàn dương cầm, và chán cả việc đánh bài và ám chỉ đến những khó khăn của tất cả mọi người anh em họ hàng để tự sửa chữa mình, chán cả việc làm phụ tá trong văn phòng luật sư của Severo del Valle, cậu liền mua một chiếc máy hát và đẩy nó đi khắp các phố phường với mưu đồ quyến rũ cô em họ Antonieta, và dọc trên đường đi cũng làm vui công chúng bằng những bản nhạc in đĩa, chạy bằng giây cót quay tay. Chiếc máy hát đó chỉ là một chiếc hộp cổ lỗ, có bốn bánh, nhưng được cậu sơn lại và thêm những hoa văn thủy thủ, rồi đặt thêm vào giữa một chiếc ống khói giả, của một con tàu. Thành ra trông nó tựa như một cái bếp lò than dài ngoẵng. Hộp đàn máy đó nẩy một khúc nhạc nhà binh và một điệu waltz sen kẽ, và giữa những giây phút phải quay giây cót để máy tiếp tục chạy, con vẹt đã học nói tiếng Tây Ban Nha dù vẫn giữ nguyên giọng ngoại quốc, vẫn thu hút được thật lắm người đến nghe và làm cho họ phải thốt lên những tiếng reo thất thanh. Đồng thời con vẹt cũng dùng mỏ cặp những mảnh giấy gấp sẵn từ trong một chiếc hộp ra để bán những điềm báo về số phận rủi may cho những người tò mò muốn biết. Những tờ giấy gấp mầu hồng, mầu xanh thẫm, màu da trời thật rất chi tuyệt diệu, nó luôn luôn nhằm vào những điều ham muốn kín đáo nhất của khách hàng. Ngoài những tấm giấy báo về những điềm may rủi của số phận đó, cậu còn bán cả những quả bóng tí xíu làm bằng mùn cưa cho trẻ con vui chơi, lại bán cả bột thuốc chống bệnh bất lực, loại hàng cậu bán một cách thầm thì, bí mật với những khách qua đường nào mắc căn bệnh đó. Ý nghĩ dùng đến chiếc máy hát này nẩy sinh như một phương pháp cuối cùng và tuyệt vọng của cậu Marcos mong thu hút sự chú ý của cô Antonieta, em họ, sau khi cậu đã nhiều lần thất bại trong những phương pháp tán tỉnh thông thường. Cậu nghĩ chẳng có một người phụ nữ tâm thần lành mạnh nào lại có thể thản nhiên không cảm động khi nghe một khúc ca ban chiều phát ra từ cái máy đàn tuyệt diệu đó. Vì thế nên cậu mới mua hộp đàn máy đó và giở trò như vậy. Một buổi chiều cậu đẩy hộp đàn máy đến đứng dưới cửa sổ nhà cô em họ, vặn giây cót cho nổi lên bản hành khúc nhà binh và điệu waltz, trong lúc cô em họ đang uống trà cùng một nhóm bạn gái. Antonieta không biết mình là người được ám chỉ tặng nghe bản nhạc, mãi đến khi con vẹt lên tiếng gọi tên cô, lúc đó cô mới ló đầu ra cửa sổ. Phản ứng của cô không phải thứ phản ứng mà người yêu cô mong đợi. Mấy cô bạn gái cô làm nhiệm vụ loan tin đó tới khắp mọi khách thính trong thành phố và, ngày hôm sau mọi người bắt đầu đi dạo các phố xá trung tâm với hi vọng được trông tận mắt người em vợ ông Severo del Valle vặn giây cót chiếc máy hát, bán những quả bóng tí xíu bằng mạt cưa, kèm theo một con vẹt quái quỷ, với cái thú rất đơn giản được chứng thực rằng ngay trong những gia đình sang trọng nhất cũng có những lý do chính đáng để phải hổ thẹn. Bị gia đình giận dữ phản đối, Marcos đành phải từ bỏ chiếc máy hát và chọn những phương kế ít tiếng tăm hơn để mong chinh phục được cô em họ Antonieta, nhất quyết không thôi bao vây cô. Dùng đủ mọi cách, cuối cùng cậu cũng không giành được thắng lợi, bởi vì cô gái trẻ vụt một cái cưới ngay một nhà ngoại giao già hơn cô hai mươi tuổi, và ông ta đã mang cô đi theo sang một nước nhiệt đới mà tên của nó chẳng một ai có thể nhớ, nhưng chỉ biết ở đó có người da đen, có chuối, có rừng cây panma, tại đó cô có thể tự kiêu hãnh với cái kỷ niệm về anh chàng theo đuổi mình đã hủy hoại mười bảy năm tuổi xuân trong bản hành khúc nhà binh và điệu waltz phát ra từ chiếc máy cổ lỗ của anh ta. Marcos bị chìm trong buồn nản mất hai ba ngày, sau đó cậu tuyên bố sẽ không bao giờ lấy vợ và sẽ đi chu du vòng quanh thế giới. Cậu bán chiếc máy hát cho một người mù, và để con vẹt lại cho Clara thừa kế, nhưng Vú Em đã bí mật đầu độc nó bằng một liều cao cực độ dầu gan cá thu, bởi Vú không chịu đựng được cái nhìn dâm đãng của nó, cũng như rận bọ trong người nó và những tiếng kêu chí choé chẳng đâu vào đâu của nó để rao bán những tấm giấy báo điều may rủi, những quả bóng tí xíu bằng mùn cưa và thuốc bột chữa bệnh bất lực.
Đó là cuộc du ngoạn lâu dài nhất của Marcos. Cậu trở về với một trọng tải đồ sộ những hòm, hộp to đùng, xếp hàng đống tại sân sau nhà, giữa chuồng gà vịt và kho chứa củi, ở giữa trời như vậy suốt mùa đông. Khi mùa xuân chớm nở, cậu cho chuyển những hòm hộp đó tới Quảng Trường Diễu Hành, một vùng ít nhà cửa, vô cùng rộng, tại đó nhân dân thường tập hợp để xem binh lính diễu hành trong những ngày Quốc Lễ, bước đi theo những bước chân ngỗng bắt chước hệt như của bọn lính người Phổ. Khi mở những hòm hộp đó ra, thấy bên trong có các bộ phận phụ tùng đủ loại, bằng gỗ, bằng kim loại hoặc bằng vải sơn. Marcos mất hai tuần lễ lắp ráp những bộ phận đó lại với nhau theo như chỉ dẫn ghi trong một cuốn sách giáo khoa bằng tiếng Anh mà cậu phải tìm giải bằng sức tưởng tượng vô địch của mình và tra cứu bằng một cuốn tự điển nhỏ. Khi công việc đã kết thúc, thì ra cậu đã lắp một con chim có tầm cỡ đồ sộ của loại chim tiền sử, có khuôn mặt như chim ưng dữ tợn, ở bộ phận đằng trước sơn mầu, có cánh tháo lắp rời, cử động được, và trên lưng có một chiếc cánh quạt. Tác phẩm đó làm chấn động dư luận. Những gia đình chóp bu đã quên câu chuyện chiếc máy hát, và Marcos chợt trở thành một nhân vật tân kỳ của thời đại. Mọi người đều tiến hành dạo chơi ngày chủ nhật để tới quảng trường xem con chim khổng lồ, và những người bán tạp hóa, kẹo bánh và những chàng phó nháy lưu động đâm ra có việc, phát tài. Tuy vậy, sau đó ít lâu sự thú vị và chú ý của công chúng đối với con chim cũng nhạt dần. Lúc bấy giờ Marcos mới thông báo rằng ngay sau khi thời tiết bắt đầu quang đãng, cậu sẽ cưỡi con chim bay lên và sẽ vượt qua dãy núi dài Andes. Tin đó chỉ trong mấy tiếng đồng hồ đã lan khắp thành phố, và trở thành một sự kiện được bình luận đến nhiều nhất trong năm đó. Con chim máy đó nằm sáp bụng trên nền đất rắn, nặng nề và đần độn, dáng vẻ giống một con vịt bị thương hơn là một chiếc máy bay tân thời bắt đầu được chế tạo lúc đó tại Bắc Mỹ. Cái bộ dạng bên ngoài của nó tỏ ra chẳng có vẻ gì cử động được, càng không thể bốc lên cao mà bay xuyên dãy núi quanh năm phủ tuyết trắng. Phóng viên nhà báo và những người tò mò kéo đến hàng đàn hàng lũ. Marcos giữ nguyên nụ cười bất di bất dịch trước những câu hỏi đổ xuống như mưa lũ, và lặng thinh đứng cho những tay chụp ảnh tha hồ mà bấm máy, không hề đưa ra một câu trả lời khoa-học-kỹ-thuật về cách thức mà cậu dự định tiến hành công tích của mình. Có cả những người đi xuyên qua hàng mấy tỉnh tới để xem cảnh lạ đó. Bốn mươi năm sau, người chắt của cậu là Nicolás, mà Marcos không hề được biết, lại bới từ dưới đất lên cái sáng kiến bay lên không trung nó luôn luôn tồn tại trong những con người thuộc dòng dõi cậu. Nicolás có ý định bay lên với mục đích buôn bán, bay lên trong một chiếc dồi bay khổng lồ bơm đầy khí nóng, có mang nhãn hiệu quảng cáo về mấy món giải khát có hơi. Còn trong thời kỳ mà Marcos thông báo về hành trình của cậu trên máy chim bay, không một ai ngờ rằng cái sáng kiến đó sẽ có thể dùng được vào việc gì ích lợi; cậu làm việc đó chỉ do tinh thần phiêu lưu của mình. Đúng ngày mà cuộc bay được thực hiện theo như đã báo, buổi sáng hôm đó trời đầy mây, nhưng bao nhiêu khích lệ đã khiến cho Marcos không muốn hoãn vào ngày khác. Cậu đến địa điểm thật đúng giờ và không hề ngước mắt nhìn bầu trời đầy mây sám ngoét. Đông đảo dân chúng kinh hoàng, tụ họp đầy các đường phố gần cận, leo cả lên nóc nhà, chen chúc ở mọi ban công của những nhà gần đấy, và chen lấn nhau kín cả công viên. Từ trước đến bấy giờ chưa bao giờ có một cuộc tập trung nào có thể tập hợp được đông người đến thế, mà phải năm mươi năm sau mới có thể có được cuộc tập trung chính trị đông đúc bằng, để hoan nghênh người ứng cử viên Marxist đầu tiên, bằng những phương pháp hoàn toàn dân chủ đã chiếm được ghế Tổng Thống nước Cộng Hòa. Clara nhớ suốt đời về ngày hôm đó. Mọi người đều vận quần áo mùa xuân, tới quảng trường trước thời gian đã ấn định mở đầu cuộc bay một chút: các ông áo lanh trắng, còn các bà đội mũ rơm kiểu Ý năm đó đang độ thịnh hành. Từng đoàn học sinh do thầy giáo dẫn đường mang hoa đến diễu hành và tặng người anh hùng. Marcos nhận hoa và nói đùa rằng hãy đứng chờ, có thể máy bay sẽ nổ tung, lúc đó sẽ lấy lại hoa để đưa ma cho mình. Đức cha đạo cũng đích thân tới không cần ai mời. Ông đi cùng hai tu sĩ cầm cây hương để làm lễ ban phúc lành cho con chim, và ban nhạc của bảo an binh tấu nhạc vui, không cần ai yêu cầu, để cho dân chúng thưởng thức. Cảnh binh, cưỡi ngựa mang giáo, phải vất vả mới giữ được đám đông đứng cách xa trung tâm công viên, nơi Marcos mặc một chiếc áo yếm của công nhân, đeo kính to sụ của những tuyển thủ đua môtô và cái dáng vẻ kỳ lạ của nhà thám hiểm. Cậu mang theo để dùng trong chuyến bay nào kim chỉ Nam, một ống viễn kính và vô số bản đồ hàng không kỳ lạ mà chính cậu đã vẽ lấy, dựa trên những lý thuyết của Leonardo da Vinci và trên cơ sở những hiểu biết thiên văn của người Inca. Trái ngược với tất cả mọi logic, đến lần mở máy chuyển động thứ hai, con chim bay lên không vướng mắc gì và lại còn có vẻ hào hoa lộng lẫy, từ trong bộ xương của nó vang ra tiếng cót két và tiếng rú ầm ầm của chiếc động cơ. Nó bay vút lên, đôi cánh vẫy vẫy rồi mất hút vào trong mây, giữa những tràng vỗ tay rầm rĩ tiễn biệt, những tiếng huýt sáo, những chiếc khăn vung vẩy, những lá cờ tung bay, và những hồi kèn trống của ban nhạc, và những giọt nước phép vẩy tung để đem đến phúc lành. Trên mặt đất lúc đó những người có học vấn nhất đứng lại bình luận về sự kiện tuyệt diệu vừa xẩy ra, mong muốn lý giải được điều huyền diệu ấy. Clara tiếp tục đăm đắm nhìn trời sau khi cậu Marcos đã khuất trong mây không còn trông thấy. Cô bé cho rằng mình đã nhìn thấy cậu mười phút sau đó, nhưng đấy chỉ là một con chim sẻ bay qua. Ba ngày sau, chuyện huyên náo gây ra bởi chuyến bay thứ nhất trong nước tiêu tan dần, rồi không còn ai nhớ đến việc đó nữa, trừ có Clara, cô vẫn luôn luôn nhìn ngắm theo dõi không mệt mỏi những điểm cao và cả bầu trời.
Sau một tuần không có tin tức gì về ông cậu phi hành gia, người ta cho rằng cậu đã bay lên cao độ mất hút trong vũ trụ, và những kẻ ngu dốt nhất còn nghĩ ra rằng có thể cậu đã bay lên đến mặt trăng. Severo del Valle thì nửa buồn nửa nhẹ nhõm quả quyết cho rằng ông em vợ đã cùng chiếc máy quái gở rơi xuống một khe núi nào đó trong dãy Andes trùng điệp, nơi mà không bao giờ có thể đến mà tìm thấy được, Nívea khóc lóc thảm thiết và đi thắp nến tại nhà thờ San Antonio, thánh chủ của những cuộc phân ly, mất mát. Severo phản đối ý định đi làm lễ cầu hồn cho cậu, bởi ông cho rằng cái đó không phải là phương pháp để làm cho cậu bay tới được mặt trời và càng không thể khiến cho cậu quay về với trái đất, rồi ông bảo vệ quan niệm tất cả những buổi lễ misa, những buổi lễ dâng vật phẩm, cũng như tất cả những cuộc rửa tội hoặc buôn bán tượng thánh kia, tuốt tuột chỉ độc một trò kinh doanh giả dối. Nívea và Vú Em phải bí mật dắt lũ con đi cầu nguyện và lần tràng hạt trong chín ngày liền. Trong khi đó những đội thám hiểm tình nguyện dãy núi Andes đi sục tìm Marcos trên các triền núi và dưới những vực sâu suốt dải núi dài, tìm đến từng ngóc ngách hẻo lánh có thể đi tới được, và đến cuối cùng quay trở về, thắng lợi trao cho gia đình hài cốt của ông cậu nằm trong một chiếc quan tài loại gỗ xuềnh soàng, sơn đen, gắn kín. Nhà phi hành can đảm được chôn cất trong một đám ma vĩ đại. Cái chết của cậu đã làm cho cậu trở thành anh hùng và tên tuổi của cậu được xuất hiện trong mấy ngày liền trên những dòng tít của mọi tờ báo ở thủ đô. Dân chúng đã từng tập hợp để tiễn đưa cậu ngày cậu bay bổng lên không trên cánh con chim máy, bây giờ lại diễu hành trước chiếc quan tài gắn kín. Toàn thể gia đình khóc cậu thật thảm thương, trừ Clara, cô bé vẫn tiếp tục kiên nhẫn đưa mắt theo dõi trên trời, cái kiên nhẫn theo dõi của một nhà thiên văn. Một tuần lễ sau ngày đám ma tưng bừng đó, bỗng xuất hiện trên bực cửa ngôi nhà của Nívea và Severo del Valle, đích thân Marcos, bằng xương bằng thịt hẳn hoi, với một nụ cười vui vẻ nở giữa đám râu ria kiểu cướp biển. Có lẽ nhờ vào những buổi cầu nguyện và lần tràng hạt bí mật của mấy người đàn bà và tụi con cái, chính cậu cũng công nhận có lẽ thế, mà cậu đã sống nguyên lành với tất cả những khả năng mà cậu có, kể cả cái khả năng rất tươi vui. Dù cho đã có những tấm bản đồ hàng không mà nguồn gốc của nó thật cao sang quý phái, chuyến bay của cậu cũng đã thất bại, cậu mất tiêu con chim máy và phải cuốc bộ quay về, may mà không gãy một chiếc xương nào, và tinh thần phiêu lưu vẫn còn y nguyên chưa bị suy suyển. Sự hồi sinh này đã làm cho gia đình càng thêm tin tưởng đến suốt đời vào nhà thờ San Antonio, chứ không được dùng làm một bài học kinh nghiệm khôn ngoan cho những thế hệ tương lai của dòng họ khi cũng muốn thử bay lên trên không bằng nhiều cách khác nhau. Nhưng, dầu sao về mặt pháp luật, chính thức Marcos hiện chỉ là một thây ma. Severo del Valle lại phải vận dụng tất cả mọi kiến thức của ông về luật pháp để tìm cách trao lại cuộc sống và điều kiện công dân cho cậu em vợ. Khi mở nắp quan tài đã mang chôn, trước mặt các vị chức trách có thẩm quyền về việc đó, mọi người trông thấy bên trong chỉ có một túi cát. Sự việc đó đã làm hoen ố uy tín rất trong sạch không một vết nhơ của những nhà thám hiểm và thăm dò tình nguyện miền núi Andes từ trước đến nay; và từ ngày đó trở đi các vị đó đều bị coi chẳng kém gì những tên lừa đảo.
Cuộc hồi sinh anh hùng của Marcos đã làm cho tất cả mọi người quên hết câu chuyện về chiếc máy hát trước kia. Người ta lại mời mọc cậu đến các thính phòng của thành phố và, chỉ sau một thời gian ngắn tên tuổi của cậu lại được lừng lên. Marcos sống ở nhà chị gái trong mấy tháng. Rồi một đêm cậu bỏ ra đi không từ biệt một ai, để lại tất cả hòm, sách vở, vũ khí, giày ủng, và mọi thứ đồ đạc vặt vãnh hàng lô hàng lốc. Severo, và cả chính Nívea nữa, đều thở dài nhẹ nhõm. Cuộc ở thăm cuối cùng này của cậu em đã kéo quá dài. Nhưng Clara cảm thấy rất đau lòng, cô bé mất một tuần lễ liền cứ thẩn tha đi lại như kẻ mộng du, đưa ngón tay lên miệng ngậm. Lúc đó cô bé lên bảy tuổi, đã biết đọc những cuốn sách truyện của cậu, và cô đã gần với cậu nhất trong thời kỳ cậu ở với gia đình, vì những tài năng đoán trước của cô. Marcos cho rằng cái khả năng hiếm có của cô cháu gái bé đó có thể trở nên một nguồn thu nhập và một thời cơ thuận lợi để phát triển thêm sức sáng suốt của cô bé. Ông đưa ra lý luận rằng cái khả năng đó hầu như trong tất cả mọi con người đều có, đặc biệt là những thành viên trong họ hàng, gia tộc ông, và nếu như nó không hoạt động được một cách có hiệu quả, chẳng qua tại thiếu tập luyện. Ông có mua tại Chợ Thổ Nhĩ Kỳ một viên thủy tinh, mà theo ông nói, có những thuộc tính kỳ quái, và nguồn gốc của nó từ phương Đông (mãi sau đây người ta mới biết rằng nó chỉ một bộ phận trong cái phao của thuyền đánh cá), ông bọc nó trong túi nhung đen và tuyên bố nhờ có nó, ông có thể trông thấy được số phận, tương lai, chữa được đau mắt, đọc được những việc trong quá khứ và làm cho những giấc mơ có phẩm chất tốt đẹp hơn, tất cả cứ năm xu một quả. Khách hàng đầu tiên của ông là những cô sen, chị bếp, người hầu ở những gia đình xung quanh đó. Một trong số những người làm hầu mướn đó bị kết tội ăn trộm, bởi vì bà chủ đã để rơi đâu mất một chiếc nhẫn. Viên ngọc thủy tinh của Marcos đã chỉ ra chỗ ẩn náu và tìm thấy món đồ nữ trang đó: nó đã lăn vào khe tủ quần áo. Ngay ngày hôm sau người ta xếp hàng dài ở trước cửa nhà. Nào là sà ích xe ngựa, người buôn bán vặt, người đi giao sữa và nước ăn, rồi sau đấy có cả một số công chức trong thành phố, rồi những phu nhân quyền quý cũng bí mật men theo mép tường lẻn vào để khỏi lộ mặt cho mọi người trông thấy. Tất cả bậu sậu khách hàng đó đều do Vú Em tiếp nhận, xếp đặt ngồi chờ tại gian phòng chờ và thu tiền lệ phí. Công việc đó đã chiếm hết giờ lao động trong ngày lao động của Vú, rồi tiến tới Vú bị thu hút quá mức vào đó đến nỗi trễ nải cả công việc bếp núc, và gia đình bắt đầu phải rên la, bực bội khi ăn tối bây giờ chỉ toàn có mấy món đỗ cũ bung và mứt phật thủ.
Marcos sửa sang lại chiếc xe ngựa bằng cách che mấy mảnh rèm cũ đã gần hỏng, xưa là rèm phòng khách, nhưng do quên lãng và tháng năm đã khiến nó bây giờ chỉ còn như mấy miếng giẻ rách, bụi bậm. Ông tiếp nhận khách hàng tại đó cùng với Clara. Hai nhà bói toán mặc áo dài kiểu “người tiên giới”, theo lối nói của Marcos khi ám chỉ đến mầu vàng của nó. Vú Em đã nhuộm những chiếc áo dài đó bằng bột nghệ, mà Vú sắc trong một chiếc soong dùng chuyên vào việc nấu những món ăn mầu trắng. Marcos, ngoài áo dài còn cuốn thêm một chiếc khăn chùm tóc và đeo một chiếc bùa Ai-Cập lủng lẳng dưới cổ. Ông để râu, tóc mọc lởm chởm, và người gầy hơn bao giờ hết. Marcos và Clara được tin hoàn toàn, nhất là cô gái nhỏ, cô không cần phải nhìn vào viên ngọc thủy tinh cũng đoán được điều khách hàng cần tìm hiểu. Cô thì thầm nhắc bên tay cậu Marcos, và ông này sẽ chuyển lời đoán đó tới khách hàng cùng với những lời khuyên ứng khẩu mà ông cho là thích hợp. Cứ như thế, tiếng tăm của họ vang lừng, bởi vì những khách hàng đến hỏi xin bói nét mặt đều buồn thiu, nhưng khi trở ra mặt ai nấy đều đầy tràn hi vọng; những người đang đau khổ vì yêu nhưng không được người yêu lại, sẽ nhận được những sự chỉ dẫn để chinh phục trái tim đã vô tình với mình; những kẻ nghèo khổ bần cùng sẽ ra về với cách chơi chắc chắn để thắng trong trường đua chó. Công việc trở nên rất phát đạt khiến cho gian phòng chờ lúc nào cũng ầm ĩ đầy người và Vú Em bị người ta bắt đầu la ó tại sao mà phải chờ lâu thế. Lần này Severo không cần phải can thiệp để chấm dứt cái sáng kiến kinh doanh của cậu em vợ, bởi lẽ hai vị thầy bói đó khi nhận ra rằng những lời đoán rất đúng đó của họ có thể làm thay đổi cả số phận của đám khách hàng luôn luôn tuân theo từng lời từng chữ mà họ chỉ bảo, thì họ bắt đầu hoảng sợ nghĩ rằng việc làm của họ là một công việc của những kẻ lừa đảo. Họ bèn rời bỏ chiếc xe “tiệm bói”, chia đều cho nhau lời lãi kiếm được, dù rằng trên thực tế người duy nhất quan tâm đến mặt vật chất này chỉ có Vú Em thôi.
Trong số mấy anh chị em nhà Valle, Clara là cô bé thích thú, chăm chỉ, chú ý nghe những câu chuyện của cậu nhất. Cô bé có thể nhắc lại từng chuyện, học thuộc lòng rất nhiều ngôn từ thổ âm của người India ngoại quốc, biết được những phong tục của họ và có thể diễn tả cách thức người ta xuyên những miếng gỗ qua môi hoặc qua dái tai, cũng như nói về những nghi lễ hỏa táng và tên những loài rắn độc nhất và những thứ chống độc. Cậu của Clara rất hùng biện, kể chuyện rất hấp dẫn, nên khi nghe cô bé có thể cảm thấy như trong da thịt mình cháy bỏng những vết cắn của lũ rắn độc, và như trông thấy những con vật bò sát đó luồn trên mặt tấm thảm, len lỏi giữa những chân chống của chiếc bình phong gỗ vàng tâm, và như nghe thấy tiếng kêu quoéc quoéc của những con vẹt khổng lồ nổi lên giữa những tấm rèm của gian phòng khách. Clara nhớ một cách không ngập ngừng chút nào về con đường mà Lope de Aguirre đã đi qua trong cuộc tìm kiếm miền Núi Vàng, thuộc làu những tên rất khó đọc, khó phát âm của thực vật và động vật ở những vùng mà ông cậu tuyệt vời của cô đã tới thăm hoặc bịa ra, cô biết cả những vị lạt-ma uống chè pha muối với mỡ trâu, và có thể diễn tả với đầy đủ chi tiết về những của cải thiên nhiên giầu có của vùng Polynesia, những đồng lúa nước của nước Trung Hoa, hoặc những bình nguyên trắng tuyết của những đất nước trên miền Bắc, nơi mà băng giá vĩnh cửu giết cả súc vật và những người lơ đãng chỉ trong một phút. Marcos có một số cuốn vở nhật ký hành trình, trong đó ông ghi lại những con đường ông đã trải qua và cảm tưởng của ông; thêm nữa ông có một bộ sưu tập bản đồ và tiểu thuyết, những truyện phiêu lưu, cả những truyện thần tiên, tất cả ông cất giữ trong những chiếc hòm và những chiếc lọ để ở một góc cuối mảnh vườn thứ ba của ngôi nhà. Từ những cuốn sách đó những câu chuyện bay ra dệt nên những cơn mơ mộng của những con cháu dòng dõi của ông, cho tới khi tất cả đều bị đốt nhầm trên một dàn hỏa thiêu hèn mạt năm mươi năm sau đó.
Chuyến viễn du cuối cùng này Marcos trở về trong một chiếc quan tài. Ông bị chết vì một bệnh dịch sốt bí mật châu Phi, toàn thân ông nhăn nhúm và vàng sọm như thể một củ nghệ. Khi mới cảm thấy mình mắc bệnh ông liền bắt đầu ngay cuộc hành trình trở về với hi vọng rằng sự chăm sóc của bà chị và hiểu biết uyên thâm của bác sĩ Cuevas có thể đem lại cho ông sức khỏe của thời trai tráng, nhưng ông không chịu đựng nổi sáu mươi ngày vượt biển trên con tàu vượt đại dương và khi tới vùng Guayaquil, bệnh sốt đã cướp cuộc đời ông trong lúc ông mê man lảm nhảm nói về những người phụ nữ thơm mùi xạ hương và những kho tàng bí mật vẫn còn chôn dấu. Viên thuyền trưởng người Anh thuộc dòng họ Longfellow đã bọc xác ông trong một lá cờ sắp quẳng xuống biển, nhưng vì Marcos đã làm thân được với nhiều người trên tầu và được rất nhiều hành khách phụ nữ yêu quý, cho nên tất cả hành khách đã ngăn không cho viên thuyền trưởng làm việc đó, Longfellow đành giữ thi thể Marcos trong kho lạnh, nằm ngay bên cạnh đống rau xanh của ông bếp người Tàu để chống nóng và tránh muỗi truyền nhiễm, cho tới khi người thợ mộc trên con tàu hoàn thành được một chiếc quan tài để tạm. Đến El Callao người ta mới mua được chiếc quan tài đủ tiêu chuẩn và sau đấy vài ngày, vị thuyền trưởng, điên tiết bởi những phiền phức mà người hành khách quí đó gây nên lắm chuyện cho Công ty Hàng Hải và cho bản thân ông, liền vứt bỏ quan tài và thi thể vị khách đó lên bến cảng, không nhìn nhận đến nữa, và ông ta cũng lấy làm lạ sao không thấy một ai đứng ra để hỏi về người chết, cũng như trả những món tiền phí tổn đặc biệt của việc này. Mãi sau này ông ta mới biết bưu chính ở những vùng này không có được sự tin tưởng như ở bên đất nước Anh Cát Lợi xa xôi kia của ông, và những bức điện tín của ông đánh đi đã bốc hơi bay mất trên đường đi của nó. Cũng may mắn cho Longfellow, lúc đó chợt xuất hiện một luật sư của hải quan có quen biết họ hàng gia đình Valle, và ông ta đã đảm nhiệm công việc đặt xác Marcos với tất cả hành lý bậu sậu phức tạp vào trong một chiếc xe chở thuê, chỉ dẫn đưa đến thủ đô, man