← Quay lại trang sách

Chương 2 ĐỒN ĐIỀN BA CÔ MARIA

Trong phòng ăn của ngôi nhà, giữa những bộ bàn ghế cũ kỹ và hư hỏng mà thời gian xa xôi trước là những món đồ gỗ quý kiểu Victoria, Esteban Trueba ăn bữa tối cùng cô chị Férula, vẫn cái món súp béo quen thuộc hàng ngày và vẫn cái món cá chẳng có mùi vị ngon lành của những ngày thứ Sáu. Họ được một người vú già như kiểu nô lệ được hưởng lương tháng như phong tục chung thời đó, suốt đời hầu hạ, phục vụ ăn uống. Người vú già tuy đã còng và lòa nhưng vẫn còn rắn rỏi, đi ra đi vào từ bếp ra phòng ăn, mang ra mang vào những liễn thức ăn một cách nghiêm trang, thành kính. Bà Ester Trueba không ngồi cùng ăn với các con bên bàn ăn. Bà lặng yên bất động trên chiếc ghế riêng, nhìn qua cửa sổ suốt buổi sáng, ngắm nghía những việc xảy ra trên đường phố và thấy thời gian trôi qua đã làm thay đổi biết bao cái xóm nhà mà xưa kia trong thời thanh xuân của bà thật khác. Sau bữa ăn trưa, người nhà đưa bà vào giường, đặt bà trong tư thế nửa nằm nửa ngồi, cái tư thế duy nhất mà căn bệnh sưng khớp kinh niên của bà cho phép, trong tư thế đó bà không có việc gì khác là thành kính tin tưởng đọc mấy cuốn sách nhỏ về cuộc đời và những huyền thoại của những vị thánh thần. Cứ như thế bà ngồi - nằm cho đến tận ngày hôm sau, để tiếp tục lại diễn mọi thủ tục đã làm ngày hôm trước. Bà chỉ có ra ngoài đường phố một lần duy nhất ngày Chủ nhật để đi lễ misa tại nhà thờ Saint Sebastián, ở cách đó hai dãy nhà, trên chiếc ghế có bánh xe mà Férula và người vú già đẩy đi.

Esteban lọc ăn hết mảng thịt cá trắng tinh, còn trơ lại bộ xương như tấm lưới nhện, rồi buông dao dĩa đặt trên đĩa thức ăn. Anh ta ngồi ngay thẳng, cứng nhắc, y như khi anh bước đi người rất thẳng, đầu hơi ngả về phía sau và hơi nghiêng sang một bên, nhìn qua khóe mắt, với cái vẻ vừa kiêu căng, thiếu tin tưởng, vừa cận thị. Dáng vẻ đó của anh có thể làm cho người ta rất khó chịu nếu như không có đôi mắt thật dịu dàng và trong sáng lạ lùng. Tư thế của anh cứng nhắc, có cái vẻ riêng của một người béo lùn muốn làm cho mình ra vẻ cao hơn, nhưng thực ra anh đo được một mét tám, và người gầy mảnh. Tất cả mọi đường nét trong người anh ta đều chạy theo đường dọc và đi lên, từ chiếc mũi diều hâu nhọn, và bộ lông mày giao nhau, cho đến vầng trán cao phủ bởi một món tóc như bờm sư tử mà anh chải lật về phía sau. Anh có bộ xương dài và to, và những ngón tay như thể bơi chèo. Anh bước đi những bước rất dài, chuyển động dứt khoát và mạnh mẽ, tuy vậy cũng không thiếu cái duyên dáng trong những động tác của mình. Khuôn mặt anh rất cân đối hài hòa, dù cho có nét khắc khổ, buồn buồn, và cái vẻ cáu kỉnh luôn luôn biểu lộ. Tính cách nổi bật của anh ta là sự cáu kỉnh và khuynh hướng phũ phàng, dễ mất tự chủ, những đặc tính mà anh mang trong người từ thuở còn thơ: hay lăn xuống đất, miệng phun đầy bọt, nổi cơn điên đến không thở được, chân đạp dãy dụa như bị ma làm. Có lần anh đã phải lao mình lặn hụp trong làn nước băng giá để lấy lại sự thăng bằng yên tĩnh. Sau này anh cũng cố học tập để làm chủ mình, nhưng cho đến suốt cuộc đời, cái chứng điên giật bất chợt kia vẫn tồn tại trong anh, chỉ cần một chút khích động thôi cũng đủ trở thành những cơn lôi đình khủng khiếp.

– Em không trở về mỏ nữa - anh nói.

Đó là câu nói đầu tiên mà anh trao đổi với chị gái bên bàn ăn. Việc đó anh đã quyết định đêm hôm trước, khi nhận thức được rằng cuộc đời thày tu cô đơn ở mỏ để mong tìm kiếm một gia tài trong thời gian chớp nhoáng, không còn có nghĩa lý gì đối với anh nữa. Anh còn nhượng quyền về mỏ hai năm nữa, thời gian đủ để có thể khai thác đến kiệt vỉa mỏ tuyệt vời mà anh vừa tìm thấy, nhưng anh nghĩ dù cho tên cai có ăn cắp của anh một ít, hoặc không biết cách làm ăn khai phá như thể anh làm, cũng không có lý gì để anh phải đi trầm mình trong hoang mạc nữa. Anh không muốn làm giầu bằng cách chịu bao nhiêu điều hi sinh đó. Cuộc đời còn ở phía trước với anh đủ để làm giầu, nếu có thể, đủ để buồn bực chán ngán và chờ đợi cái chết, không có Rosa bên cạnh.

– Em cũng phải làm một công việc gì chứ, Esteban - Férula trả lời - Em đã biết đấy, ở nhà mẹ và chị chi tiêu rất ít, hầu như không có gì đáng kể, nhưng thuốc men của mẹ rất đắt.

Esteban ngắm nhìn chị. Chị vẫn còn là một người phụ nữ đẹp, thân hình đẫy đà, khuôn mặt trái soan kiểu tranh Đức Mẹ đồng trinh La mã, nhưng qua mầu da xanh tái của chị với những bóng sám da đào và đôi mắt quầng sẫm thâm trầm, có thể đoán được nỗi lầm than xấu xí của cuộc sống mà chị phải chịu đựng. Férula đã chấp nhận vai trò nữ y tá trông nom cho mẹ. Chị ngủ tại gian phòng liền cạnh với phòng bà Ester, lúc nào cũng luôn sẵn sàng chạy đến bên bà để đưa cho bà lọ thuốc, thay ống nhổ và thay bô, sửa sang lại những chiếc gối tựa cho bà ngồi ngay ngắn. Chị có một tâm hồn chịu nhẫn nhục, làm những công việc có vẻ yếu hèn và chị cho rằng sẽ đi được tới thiên đường bằng cách chịu đựng những bất công; vì thế nên chị bằng lòng vui vẻ lau những vết loét mủ chỗ chân đau của mẹ, toàn thân thấm đẫm mùi hôi thối và khổ cực của mẹ, trông nom chiếc bô đi tiểu của bà. Và ghét mình bao nhiêu vì những thú vui khúc khuỷu quanh co mà chị không thể bộc lộ, thì chị ghét mẹ bấy nhiêu vì bà đã sử dụng chị như một dụng cụ của bà. Chị săn sóc cho mẹ không kêu ca phàn nàn gì, nhưng cũng tế nhị làm cho bà phải trả giá về sự tàn tật của mình. Không nói toạt ra lời, giữa hai người phụ nữ mẹ con, rõ ràng có chuyện đứa con gái đã hy sinh cuộc đời mình để trông nom săn sóc mẹ và bởi lẽ đó chịu cái cảnh gái già. Férula đã từ chối hai người đến hỏi bởi lý do bệnh tật của mẹ. Chị không nói điều đó, nhưng tất cả mọi người đều rõ. Férula thuộc loại cử chỉ thô, cứng, có tính nết y như cậu em, nhưng vì cuộc đời và thân phận phụ nữ của mình cô bắt buộc phải kìm giữ nó và ngậm miệng cắn hàm thiếc giữ cho câm lặng. Cô trở thành người con gái hoàn hảo, nổi tiếng tốt hiền như nữ thánh. Người ta nêu cô làm ví dụ về sự hi sinh hoàn toàn cho việc săn sóc mẹ và cách thức mà cô nuôi đứa em trai duy nhất trong khi bà mẹ ốm đau và người cha lại chết, để lại cho gia đình một cuộc sống nghèo cực. Férula đã yêu thương đứa em trai của mình hết mực khi nó còn bé tí. Cô cho nó ngủ bên cạnh, tắm rửa cho nó, dắt nó đi chơi, quần quật suốt ngày may quần áo cho người ta để lấy tiền trả tiền học cho em, và cô đã khóc điên lên vì bất lực ngày mà Esteban phải vào làm việc tại văn phòng Công chứng viên, bởi vì trong nhà lúc đó việc làm của cô không còn đủ cho mấy miệng ăn trong gia đình. Cô trông nom săn sóc em lúc đó y như thể bây giờ cô săn sóc mẹ, và với đứa em trai, cô cũng bao quanh nó tấm lưới vô hình của sự đền ơn về những tội lỗi và món nợ ân huệ của cuộc đời mà cô chưa trả được. Đứa em trai bắt đầu xa cô dần kể từ khi nó biết mặc quần dài. Esteban có thể nhớ rõ ràng cái lúc mà anh nhận thấy chị mình như thể một bóng ma định mệnh. Đó là dịp anh được lĩnh kỳ lương đầu tiên trong đời. Lúc đó anh quyết định giành lại năm mươi xu để thực hiện một ước mơ mà anh khao khát từ khi còn nhỏ: uống một cốc cà-phê kiểu Vienna. Qua khuôn cửa kính của khách sạn Pháp anh đã trông thấy những người bồi bàn đi lại, đầu đội chiếc khay trong đó đặt những của báu vô cùng thích thú: những chiếc cốc cao chân bằng thủy tinh, đầy ứ những tháp kem tơi sốp có trang trí thêm một lớp quả dâu ướp đá ở bên trong. Lần lĩnh lương thứ nhất đó anh đi qua đi lại trước khách sạn mấy lần trước khi liều bước chân vào. Sau cùng anh bẽn lẽn bước qua bực cửa, chiếc mũ nồi cầm trong tay và tiến về phía phòng ăn sang trọng, đầy những ngọn đèn có tua thủy tinh như giọt lệ và bàn ghế kiểu, thật mới toanh, với cảm giác như tất cả mọi người đang nhìn mình, phải, hàng nghìn con mắt đang đánh giá bộ quần áo quá chật và đôi giầy quá cũ của mình. Anh ngồi vào một mép ghế, đôi tai nóng bừng, gọi anh bồi bàn bằng một giọng lí nhí. Thấp thỏm ngồi chờ, anh liếc mắt quan sát sự đi lại vào ra của khách vào ăn trong những tấm gương và tưởng tượng trước cái thú nhấp nháp món giải khát mà bao lâu anh mơ tưởng. Rồi cốc cà-phê kiểu Vienna của anh được mang đến, chao ơi còn tuyệt hơn cái cốc anh hằng mơ ước nữa, nó đẹp đẽ, ngon lành kèm theo ba chiếc bánh đa tẩm mật. Anh ngắm nhìn như mê mẩn một lúc. Rồi mạnh dạn cầm chiếc cùi dìa cán thật dài, kèm theo một tiếng thở dài khoan khoái, anh súc đầu cùi dìa vào giữa lớp kem đầy như ngọn tháp. Miệng anh ứa nước dãi ra. Anh sẵn sàng để giây phút đó càng kéo dài càng tốt, kéo dài đến vô tận. Bắt đầu ngoáy chiếc cùi dìa và nhìn xem lớp kem tan vào trong chất nước đen đen với bọt trắng ra sao anh ngoáy, ngoáy, ngoáy... Chợt đầu cùi dìa đập mạnh vào thành cốc, chọc vỡ một lỗ và cà phê tung tóe phọt ra ngoài, bắn vào áo anh. Esteban hoảng hốt, nhìn thấy tất cả chất nước cà phê đựng trong cốc tóe ra ướt sũng cả bộ quần áo duy nhất của mình trước con mắt cười riễu của những khách ăn ngồi bên những chiếc bàn xung quanh. Anh dừng tay, mặt xanh tái vì thất bại, bước ra khỏi khách sạn Pháp, trong túi hụt mất năm mươi xu, để lại sau bước đi của mình một vệt nước cà phê kiểu Vienna trên tấm thảm êm dịu. Khi Férula biết được câu chuyện vừa xảy ra, cô đưa ra một lời bình chua chát: “Thế là em đã tiêu hoang món tiền để giành mua thuốc cho mẹ vào một thú vị cá nhân. Chúa đã trừng phạt em đấy”. Lúc đó Esteban mới nhận ra những cung cách mà chị đã dùng để chế ngự mình, làm cho mình cảm thấy tội lỗi trong những hành động cá nhân theo sở thích, và anh chợt thấy cần phải thoát ra khỏi vòng cương tỏa ấy. Khi thấy anh dần dần đi xa khỏi sự che chở của mình, Férula tự nhiên thấy mất cảm tình với đứa em trai. Sự tự do của cậu em, đối với cô chị lại như một lời trách móc, một điều bất nghĩa. Khi cậu em phải lòng Rosa, và khi cô chị thấy em như thể một đứa trẻ con, thất vọng, đến cầu xin mình giúp đỡ, nó khẩn khoản, đi theo chị khắp ngôi nhà để cầu khẩn chị tới làm thân với gia đình del Valle, đến nói với Rosa, đến đút lót cho Vú Em, lúc đó Férula lại cảm thấy mình đã trở lại địa vị quan trọng đối với Esteban. Hai người như thể làm lành với nhau được một thời gian. Nhưng cuộc làm lành chỉ như một sự gặp gỡ thoáng qua, nó chẳng kéo dài được bao lâu và Férula rất sớm hiểu ra chẳng qua mình bị lợi dụng. Nên Férula rất vui mừng khi thấy cậu em đi khai mỏ. Vào năm mười lăm tuổi bắt đầu đi làm, Esteban đã nuôi nấng cả gia đình và anh hứa sẽ đảm nhiệm việc đó mãi mãi, nhưng đối với Férula chỉ thế thôi dường như chưa đủ. Cô rất bực bội phải giam mình trong bốn bức tường bẩn thỉu hôi mù mùi già cũ, vá víu, luôn phải thức giấc bởi những tiếng rên la của bà mẹ ốm, phải theo dõi sát chiếc đồng hồ để thuốc thang đúng giờ giấc cho mẹ; thật chán nản buồn rầu, trong khi đó người em trai tuyệt nhiên không biết tí gì về những bổn phận đó. Nó có thể sẽ có một tương lai sáng lạn, tự do, đầy thắng lợi. Nó có thể sẽ lấy vợ, có con, biết thế nào là tình yêu. Ngày mà cô gửi bức điện báo tin cho em trai biết cái chết của Rosa, cô cảm thấy trong người có một cảm xúc là lạ, hầu như vui vui, gờn gợn vuốt ve mình.

– Em phải làm một việc gì đó chứ - Férula nhắc lại.

– Không bao giờ các người phải thiếu thốn cái gì, khi mà em còn sống - cậu em nói.

– Nói thế dễ thôi - Férula vừa gỡ một chiếc xương cá mắc ở kẽ răng vừa trả lời.

– Em định sẽ về nông thôn, về đồn điền Ba Cô Maria.

– Đó là một vùng hoang vắng, tàn tạ, Esteban ạ. Chị vẫn luôn luôn nói với em tốt nhất là bán khoảnh đất đó đi, nhưng em thật ương bướng như một con lừa.

– Không bao giờ bán đất ấy cả. Đó là thứ duy nhất còn lại, khi mà tất cả các thứ khác đều đã mất hết.

– Chị không đồng ý như vậy. Đất đai chỉ là một ý tưởng lãng mạn, cái có thể làm giàu cho người ta tức đôi mắt sắc sảo trong những công việc làm ăn buôn bán - Férula cãi - Nhưng em, bao giờ cũng cứ nói một ngày nào đó sẽ về sống tại nông thôn.

– Bây giờ ngày đó đã đến. Em căm ghét cái thành phố này.

– Sao em không nói đúng hơn là em căm ghét cái nhà này?

– Cả cái nhà này nữa - cậu em tàn nhẫn trả lời.

– Chị rất tiếc sao không là đàn ông, để có thể cũng rời khỏi đây một thể - cô chị giận dữ nói.

– Còn em, em không thích làm phụ nữ - cậu em nói.

Rồi họ kết thúc bữa ăn, lặng lẽ.

Hai chị em đã xa cách nhau lắm, và điều duy nhất còn ràng buộc họ với nhau là sự có mặt của bà mẹ cùng cái kỷ niệm đã mờ nhạt của tình yêu chị em họ đối với nhau hồi còn thơ ấu. Họ đã lớn lên trong một ngôi nhà điêu tàn phá sản, đã chứng kiến sự hủy hoại tinh thần và kinh tế của người cha, rồi sau đó đến căn bệnh dần dần phát triển của bà mẹ. Bà Ester bắt đầu bị bệnh viêm khớp từ khi còn rất trẻ, dần dà căn bệnh làm cho bà trở nên cứng nhắc, đến độ chuyển động rất khó khăn, như thể một người bị liệm ngay trong khi còn sống, và cuối cùng, khi không còn có thể co duỗi được đầu gối, bà ngồi bất động hoàn toàn trên chiếc ghế có bánh xe, trong cuộc sống góa bụa và buồn khổ của mình. Esteban nhớ thời thơ ấu và tuổi thanh niên của mình, nhớ đến những bộ quần áo chật, chiếc thắt lưng kiểu Saint Francis mà người ta buộc anh phải dùng để trả nợ cho một lời hứa hẹn nào đó của mẹ anh hoặc chị anh, những chiếc sơ-mi vá víu cẩn thận, và nhớ đến nỗi cô đơn của mình. Férula, lớn hơn anh năm tuổi, giặt rũ, hồ cứng hai chiếc áo sơ-mi hai ngày một lần để cho anh bao giờ cũng được sạch sẽ, tươm tất, và nhắc để anh biết rõ họ hàng nhà mẹ là một dòng họ quý phái, cao sang nhất trong thời á vương Lima. Trueba chẳng qua chỉ như một kết quả rủi ro và chẳng may trong cuộc đời bà Ester, người phụ nữ sinh ra để nhằm lấy một người chồng cũng thuộc trong giai cấp quý tộc của mình, nhưng bà lại yêu mê mệt anh chàng lãng tử, người di cư thuộc thế hệ thứ nhất, mà chỉ trong một thời gian ngắn đã làm tiêu tan tất cả món tiền hồi môn của bà, rồi sau đó tất cả gia sản thừa kế của bà. Nhưng đối với Esteban, dòng máu quý phái đó chẳng dùng vào được việc gì cả, nếu như trong nhà không có đủ tiền để trả những món hàng hóa tiêu dùng, và anh phải đi bộ đến trường học, bởi chẳng có lấy một đồng xu mà đi xe. Anh nhớ ngày còn bé người nhà dẫn đi học, phải mặc lót bên trong cho anh mấy lần giấy báo, vì chẳng có áo lót bằng len, và cái thứ áo ấm thảm hại ấy đã cọ vào da thịt anh trong từng cử động khiến anh tưởng như bạn bè đều nghe thấy tiếng sột soạt. Mùa đông, nguồn sưởi ấm duy nhất của cả nhà ở chỗ chiếc lò than trong căn phòng của bà mẹ, tại đó cả ba người tụ họp quây quần để tiết kiệm nến thắp và than sưởi. Đó là một thời niên thiếu thật thiếu thốn, chẳng có một chút tiện nghi trong cuộc sống đầy cay đắng, một chuỗi những đêm dài, đầy sợ hãi lo âu, tội lỗi. Tất cả những thứ đó đã để lại trong anh một kỷ niệm chỉ tạo ra cho anh một tính cáu bẳn, dễ nổi nóng và cái nết ngạo mạn quá trời.

Hai ngày sau đó Esteban Trueba đi về nông thôn. Férula tiễn cậu em đến tận ga xe lửa. Khi từ biệt, chị lạnh nhạt hôn lên đôi má em và đứng đợi cậu em bước lên toa xe với hai chiếc va-li da có khóa đồng, vẫn hai cái va-li mà anh ta đã mua khi đi khai phá mỏ, và chúng có thể bền cho đến suốt đời, như người bán chúng đã quảng cáo với người mua. Férula dặn dò em phải gìn giữ thân mình và cố giành thì giờ thỉnh thoảng về thăm mẹ và chị, cô nói rằng cô rất nhớ cậu, nhưng cả hai chị em đều hiểu có thể còn nhiều năm nữa họ mới gặp lại nhau, và trong thâm tâm cả hai đều cảm thấy trong người nhẹ nhàng đôi chút.

– Báo tin cho em nếu bệnh mẹ trầm trọng hơn! - Esteban nói như thét qua khung cửa sổ khi con tầu bắt đầu chuyển bánh.

– Cứ yên tâm, đừng lo lắng gì cả! - Férula vừa vẫy chiếc khăn tay ở mé dưới vừa trả lời.

Esteban Trueba ngồi tựa vào lưng ghế bọc nhung đỏ, thầm cảm ơn cái sáng kiến của người Anh đã xây dựng nên những toa tàu hạng nhất, trên đó những nhà quý phái có thể làm những cuộc hành trình thoải mái, không phải chung đụng với gà vịt, thúng mủng, hộp các-tông buộc chằng chịt bằng giây thừng, cùng những tiếng khóc mếu của trẻ con xa lạ. Tự khen ngợi mình về quyết định đã tiêu một khoản tiền vé đắt nhất cho cuộc hành trình, và lần thứ nhất đã có quyết định trong những chi tiết nhỏ để phân biệt rõ ràng giữa một nhà quý tộc và một kẻ thứ dân. Vì vậy, dù trong tình trạng khó khăn túng quẫn, từ hôm đó trở đi, anh sẽ tiêu những món tiền kha khá để có những tiện nghi nho nhỏ nó khiến cho anh cảm thấy mình giầu có.

– Ta không thể nào nghĩ đến nghèo khổ nữa - anh thầm quyết định và trong óc nghĩ đến quặng ở mỏ vàng.

Qua khung cửa sổ toa tầu anh thấy phong cảnh của thung lũng trung tâm chạy qua. Những cánh đồng mênh mông trải dài dưới chân dãy núi, những đồng nho phì nhiêu mầu mỡ, những đồng lúa mì, những cánh đồng cỏ linh lăng và các liên hương. Anh so sánh với những bình nguyên bỏ hoang miền Bắc, nơi anh đã sống hai năm dòng trong một cái hố, giữa một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và lồi lõm như mặt trăng, mà cái đẹp dữ tợn của nó ngắm nhìn không chán mắt, nó quyến rũ bởi mầu sắc của hoang mạc, mầu xanh của da trời, mầu tím ngát, mầu vàng sợm của những chất quặng nằm rải rác ngay trên mặt đất.

– Cuộc đời mình bắt đầu thay đổi - anh lẩm bẩm.

Rồi nhắm mắt, dần dần đi vào giấc ngủ.

Anh xuống tầu tại nhà ga San Lucas. Đó là một nhà ga khốn khổ. Vào giờ này không thấy một người nào trên cầu ga lát gỗ có chiếc mái cũng tàn tạ bởi nắng mưa và kiến mối. Từ đây có thể trông suốt vùng đồng bằng qua một màn sương mù không sờ thấy, từ mặt đất ẩm ướt do trận mưa đêm trước, bốc lên. Những dặng núi xa xa mờ chìm trong những giải mây của một bầu trời không quang đãng, duy chỉ có mỏm núi phủ tuyết của ngọn núi lửa nổi bật rõ ràng, trong toàn bộ bức tranh phong cảnh và chiếu sáng bởi một mặt trời rụt rè e lệ mùa đông. Esteban nhìn xung quanh. Trong thời thơ ấu, thời kỳ hạnh phúc duy nhất mà anh có thể nhớ được, trước khi cha anh bị phá sản và lao mình vào say trong men rượu để quên nỗi hổ thẹn của bản thân, cha anh đã đi xe ngựa cùng anh về đến vùng này. Anh nhớ rằng tại đồn điền Ba Cô Maria anh đã từng thỏa thích chơi đùa trong kỳ nghỉ hè, nhưng thời gian đó đã xa xưa, trí nhớ hầu như đã bị xóa mờ anh không còn có thể nhớ rõ bây giờ nó ở nơi nào nữa. Đưa mắt tìm làng San Lucas, nhưng anh chỉ thấy có một xóm nhà ở xa xa, mờ nhạt trong làn sương ẩm ướt buổi sớm mai. Anh đi ngang qua dãy nhà ga. Cánh cửa của gian phòng làm việc duy nhất đã khóa bằng một chiếc khóa treo. Có một thông báo viết bằng bút chì, nhưng nó đã quá mờ, anh không thể đọc nổi. Nghe mé sau lưng tiếng con tàu chuyển bánh và bắt đầu chạy ra xa dần, để lại đằng sau một cột khói trắng. Thật đơn độc tại nơi đỗ tàu lặng lẽ này. Xách hai chiếc va-li anh bước đi trên bùn và đá tảng của một con đường nhỏ chạy về phía làng xa. Đi hơn mười phút, thầm cảm ơn trời không mưa, vì nếu mưa anh khó có thể bước đi được với hai chiếc va-li nặng trên con đường này, con đường mà chỉ cần mưa trong mấy giây thôi nó sẽ biến thành những vũng bùn khó lòng mà qua lại. Đến gần xóm nhà anh trông thấy khói bốc lên trên vài ngọn lò sưởi, liền thở dài nhẹ nhõm, bởi vì trước đó anh có ý nghĩ đây chỉ là một xóm nhà hoang, trông thật buồn và hiu quạnh.

Esteban dừng lại ở lối rẽ vào làng, không trông thấy một bóng người. Trên dãy phố duy nhất, hai bên có những mái nhà khiêm tốn, nhỏ nhắn bằng gỗ sồi, một sự im lặng hoàn toàn khiến cho anh có cảm giác như đang bước đi trong cơn mơ. Bước đến gần một ngôi nhà cạnh đó, ngôi nhà không có cửa sổ nhưng cửa ra vào mở rộng, đặt hai chiếc va-li trên hè, anh bước vào bên trong vừa đi vừa lên tiếng gọi to. Bên trong tối mò, ánh sáng lọt qua khung cửa không đủ sáng khiến cho anh phải mất mấy giây mới định thần và trông thấy mờ mờ những vật trong tranh tối tranh sáng. Esteban nhìn thấy hai đứa bé đang chơi đùa trên nền đất, chúng nhìn anh bằng đôi mắt mở to, sợ hãi, và trong mé sân sau có một người phụ nữ vừa đi vừa lau tay vào mép chiếc tạp dề vừa bước tới. Khi nhìn thấy anh, người đó thoáng có một cử chỉ bản năng sửa lại món tóc rủ trên trán. Esteban chào người phụ nữ và bà ta đưa tay lên bịt miệng, trả lời, để dấu đôi hàng lợi không còn chiếc răng nào cả. Trueba nói cho bà biết cần thuê một chiếc xe ngựa, nhưng dường như bà ta không hiểu, chỉ lẳng lặng che kín hai đứa nhỏ sau chiếc tạp dề đầy nếp gấp, với đôi mắt nhìn không biểu lộ điều gì. Esteban bước ra, xách hành lý và tiếp tục con đường.

Khi đã đi qua hầu sắp hết xóm nhà không trông thấy một bóng người, và bắt đầu ngán ngẩm thì anh nhận thấy có tiếng vó ngựa ở mé sau lưng. Đó là một chiếc xe không có mui do một người tiều phu điều khiển. Esteban đứng ở giữa đường, buộc người đánh xe phải dừng lại.

– Anh có thể chở tôi đến đồn điền Ba Cô Maria? Tôi sẽ trả tiền hậu! - Esteban kêu lên.

– Thưa ngài, đến đó có việc chi vậy? - người đánh xe hỏi - Đó là một vùng đất hoang chẳng thuộc ai cả, một vùng đất đá ngoài vòng pháp luật mà.

Nhưng người đó nhận chở anh và giúp anh đặt hành lý nằm giữa những bó củi. Esteban ngồi cạnh người đánh xe, trên ghế phía trước. Từ một vài căn nhà mấy đứa trẻ con chạy ra leo sau chiếc xe. Esteban cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết.

Cách làng San Lucas mười một kilômét, theo một con đường đã bị hủy hoại, cỏ cây rậm rạp và đầy ổ gà, xuất hiện một tấm bảng gỗ có ghi tên đồn điền Ba Cô Maria. Tấm biển treo bằng một sợi giây xích đứt, bị gió thổi đập đập vào cây cột nổi lên một tiếng mờ mờ vang vang như thể tiếng trống đám ma. Chỉ cần ghé mắt trông qua Esteban đã thấy ngay cần phải có một sức khoẻ của thần Hercules để có thể cứu vãn được đồn điền thoát khỏi nỗi tiêu điều hiện tại. Cỏ dại đã nuốt hết cả mặt đường và bất kỳ nhìn vào chỗ nào anh cũng chỉ thấy đá lởm chởm, bụi cây rậm rạp và đồi núi. Không có lấy cả cái bóng dáng những khoang chăn ngựa, hay những đồng nho xưa kia mà anh còn nhớ, và cũng chẳng có một ai ra đón anh cả. Chiếc xe từ từ tiến, theo một lối mà bước chân của súc vật và người đã vạch ra trên những búi cây, cỏ dại. Sau đó một lát anh đã trông thấy căn nhà của đồn điền, hãy còn đứng nguyên chưa xụp đổ, nhưng trông tàn tạ như thể linh hồn của sự nghèo nàn, đầy những đống mảnh vụn, đổ nát, giây thép lưới chuồng gà rải rác trên mặt đất, và ùn ùn những đống rác rưởi. Một nửa số ngói trên mái đã vỡ nát và có một giây leo dại luồn vào trong cửa sổ, phủ kín cả mấy mảng tường. Xung quanh nhà, Esteban thấy một vài dẫy lán bằng gỗ sồi, không quét vôi, không cửa sổ, mái phủ rơm rạ, tường đen nhẻm vì bồ hóng. Hai con chó cắn nhau như điên ở giữa sân.

Tiếng rin rít của bánh xe và tiếng dục ngựa tục tĩu của người kiếm củi lôi kéo sự chú ý của những người ở trong dẫy lán, họ lục tục xuất hiện. Nhìn những người mới tới, mắt họ tỏ vẻ lạ lùng và nghi hoặc. Đã mười lăm năm trôi qua, họ không trông thấy một ông chủ đất nào tới, và đã cho rằng đất này không có chủ. Họ không thể nhận ra con người đàn ông cao mảnh và oai quyền kia chính là cậu bé con có bộ tóc hung loăn soăn mà nhiều năm trước đây đã chơi đùa trong mảnh sân này. Esteban nhìn họ và cũng không thể nhớ lại được một người nào. Họ tập hợp thành một đám người nghèo khổ, đáng thương trước mắt. Anh nhìn thấy một lô phụ nữ mà tuổi tác không thể hiện rõ rệt trên khuôn mặt, da dẻ nhăn nheo, khô khốc, một vài người đang mang thai, tất cả quần áo đều rách bươm và bạc phếch, chân đều để trần không giày dép. Anh đếm ít nhất cũng có một tá trẻ con vào đủ mọi lứa tuổi. Những đứa bé nhất đều trần truồng. Có nhiều khuôn mặt nữa lấp ló trên bực cửa, không dám bước hẳn ra ngoài. Esteban phác một cử chỉ chào hỏi, nhưng không một ai đáp lại. Mấy đứa trẻ con chạy đến ẩn sau lưng những người phụ nữ.

Esteban bước xuống xe, kéo hai chiếc va-li đặt trên mặt đất và đưa cho người xà ích mấy đồng tiền.

– Nếu ông chủ cần, tôi sẽ đợi - người đó nói.

– Không, tôi ở lại đây.

Esteban đi về phía ngôi nhà, đẩy mạnh cửa và bước vào. Bên trong có đủ ánh sáng, bởi vì mặt trời buổi sáng lọt vào trong nhà qua những cánh cửa vỡ và những mảng mái vỡ hổng huếch hoác, ngói đã rơi mất cả. Bụi và mạng nhện chăng đầy, căn nhà bị bỏ rơi hoàn toàn, rõ ràng trong những năm qua không một người nông dân nào dám bỏ gian lán tồi tàn của mình vào chiếm ở trong ngôi nhà trống trải này của ông chủ. Họ không dám động chạm đến đồ đạc: những thứ đồ gỗ từ thời kỳ thơ ấu của anh vẫn thấy bầy biện ở chỗ từ xưa chúng vẫn ở đó, nhưng trông bây giờ xấu hơn, buồn thảm hơn và thua kém cái hình ảnh anh nhớ trong ký ức. Khắp ngôi nhà đều phủ một thảm cỏ, bụi và lá khô, và toát lên một mùi mồ mả. Một con chó gầy trơ xương sủa dữ dội, nhưng Esteban Trueba không chú ý đến nó, cuối cùng sủa đã mệt con chó rúc vào một gốc gãi gãi rận. Esteban đặt va-li trên mặt bàn và bước ra ngoài, đi quanh nhà, trong óc có một cuộc đấu tranh với nỗi buồn đang bắt đầu tấn công anh. Esteban đi từ phòng này sang phòng khác, ngắm nhìn sự hủy hoại mà thời gian đã giành cho tất cả mọi vật, cảnh nghèo khổ, bẩn thỉu khắp nơi và cảm thấy nơi này còn là một cái hố tồi tệ hơn cái hố ở mỏ vàng kia nhiều. Nhà bếp ở trong một gian rộng rãi, mái cao và tường đen nhẻm bởi khói củi, than, bồ hóng; trong gian bếp hoang tàn này hãy còn treo mấy chiếc soong và chảo trên đầu mấy cái đinh to, những thứ đồ đồng và sắt này mười lăm năm qua không ai động đến. Trong những gian phòng ngủ vẫn còn những chiếc giường của ngày xưa, và những chiếc tủ có mặt gương hình mặt trăng mà cha anh mua từ thời xa xôi trước, nhưng đệm giường bây giờ chỉ còn là những đống vụn len, mục thối, và những loài sâu bọ làm tổ trong đó đã hàng bao nhiêu thế hệ. Esteban nghe thấy tiếng chân chạy của những con chuột dưới tầng hầm. Anh chưa khám phá ra tầng hầm đó xưa bằng gỗ hay bằng gạch men, bởi vì giờ đây rêu đã phủ kín tất cả anh không còn trông rõ để nhận ra chất liệu của nó. Lượt bụi mầu sám làm mờ hết những đường viền góc cạnh của bàn ghế. Trong gian phòng khách ngày xưa, hãy còn trông thấy chiếc dương cầm, nhưng một chân đã gãy, hàng phím đã ố vàng, tiếng kêu như thể tiếng phong cầm cổ lanh lảnh. Trên ngăn sách vẫn còn mấy cuốn sách chữ không còn đọc rõ, nhiều trang bị ẩm mốc sám sịt, và trên mặt sàn những mẩu báo và tạp chí cũ kỹ mà gió hất tung rơi, rải rác khắp phòng. Mấy chiếc ghế bành đều rách lòi hết lò so ra trước mắt mọi người, và trên chiếc ghế đại mà trước khi bị bệnh bà Ester vẫn ngồi đan, giờ đây có một tổ chuột nhắt.

Sau khi dạo quanh một lượt khắp nhà Esteban thoáng có những ý nghĩ rõ ràng. Anh biết trước mắt cần phải có một sức lực khổng lồ bỏ vào đấy, bởi vì ngôi nhà trong tình trạng bỏ hoang hoàn toàn này không có hi vọng dùng được tất cả những gì còn sót lại. Đã có một phút anh định xách hai chiếc va-li ra đặt trên xe, quay trở lại nơi mà anh vừa rời khỏi để tới đây, nhưng rồi anh lại bỏ ý định đó và đinh ninh một ý trong đầu rằng chỉ có làm việc đến gẫy lưng trên mảnh đất bỏ hoang này mới có thể làm dịu được nỗi buồn đau và căm phẫn vì đã mất Rosa. Esteban cởi áo ngoài, thở thật sâu và bước ra ngoài sân, tại đó anh chàng chở xe củi vẫn đứng nhìn những người tá điền đang tụ tập ở một khoảng hơi xa một chút, do tính cách bẽn lẽn cố hữu của người ở nông thôn. Họ tò mò ngắm nhìn và nhìn lẫn nhau. Esteban bước mấy bước về phía họ, và anh nhận thấy đám người chuyển động giật lùi nhè nhẹ; anh đưa mắt cố gắng để phác một nụ cười bè bạn với những đứa trẻ thò lò mũi và những người tá điền, những ông già mắt toét nhoèn và những người phụ nữ chẳng còn ước mơ hi vọng gì, nhưng anh cũng chỉ có thể để nở ra một nụ cười nó giống như cái bĩu môi.

– Thế đàn ông đâu cả? - anh hỏi.

Người đàn ông còn trẻ và là người đàn ông duy nhất ở đó, tiến lên một bước. Có lẽ tuổi của anh ta cũng trạc tuổi của Esteban Trueba, nhưng trông vẻ già dặn hơn.

– Họ đi cả rồi - anh ta nói.

– Thế tên anh là gì?

– Pedro García, thưa ông - anh ta nói.

– Bây giờ tôi là chủ ở đây. Thời kỳ chơi bời đã chấm dứt. Chúng ta hãy bắt tay làm việc. Người nào không thích thế, hãy đi ngay khỏi đây lập tức. Người nào ở lại, sẽ không thiếu cơm ăn, nhưng cần phải cố sức làm việc. Ta không ưa những kẻ hèn yếu, những kẻ hỗn láo, các người nghe rõ không?

Họ ngơ ngác, lạ lùng nhìn nhau. Họ không hiểu đến một nửa ý nghĩa của mấy lời diễn từ, nhưng tỏ ra đã nhận rõ giọng nói của anh là giọng ông chủ của họ.

– Chúng tôi hiểu, thưa ông chủ - Pedro García nói - Chúng tôi không đi đâu được, bao giờ cũng vẫn sống ở đây thôi. Chúng tôi xin ở lại.

Một đứa bé ngồi lom khom xuống bắt đầu ị, và con chó ghẻ chạy tới gần, ngửi ngửi và ngoạm. Esteban lợm giọng, ra lệnh đưa đứa bé đi, lau rửa sân ngay, và giết ngay con chó. Anh đã bắt đầu cuộc sống ở đây như vậy, và thời gian trôi đi sẽ làm cho anh quên được Rosa.

Không ai có thể rứt khỏi óc tôi ý nghĩ tôi là một ông chủ tốt. Bất kỳ ai đã từng trông thấy đồn điền Ba Cô Maria trong thời kỳ bị bỏ hoang mà lại nhìn thấy nó bây giờ đây, đã trở thành một đồn điền kiểu mẫu, đều phải công nhận cùng tôi điều đó. Bởi vậy tôi không thể chấp nhận với đứa cháu gái tôi về cái chuyện đấu tranh giai cấp của nó, vì cứ thẳng thừng nói toạc ra, những người nông dân kia bây giờ thật khổ cực hơn nhiều so với năm mươi năm trước đây. Lúc đó tôi như thể người cha của họ. Cái món cải cách ruộng đất đã làm cho tất cả chúng tôi liểng xiểng.

Để cứu đồn điền Ba Cô Maria khỏi cảnh nghèo nàn cơ cực tôi dùng tất cả vốn liếng đã dành dụm để cưới Rosa và tất cả tiền bạc mà anh cai từ mỏ vàng thu được gửi về cho, nhưng vốn liếng và tiền bạc đó không phải thứ đã cứu được mảnh đất này, mà chính sức làm việc và cách thức tổ chức làm việc đã cứu được nó. Tin đồn lan đi rằng có một ông chủ mới tại đồn điền Ba Cô Maria, rằng chúng tôi đang xúc đá vất đi bằng sức của bò kéo, và cày những khu trại thả bò lên để gieo hạt. Chẳng mấy chốc nhiều người bắt đầu kéo đến sẵn sàng hiến sức đôi tay của mình, bởi vì tôi trả tiền hậu hĩ và cho cơm ăn đầy đủ. Tôi mua súc vật. Món gia súc này thật thiêng liêng đối với tôi, vì cả năm chúng tôi không hề động đến một miếng thịt, và những con vật được nuôi tốt, không con nào bị chết. Vì vậy đàn gia súc phát triển nhanh. Tổ chức người làm thành từng đội và sau khi công việc gieo trồng đã vãn, tôi dồn sức tất cả các đội vào xây dựng lại ngôi nhà chính của ông chủ. Chẳng có ai trong bọn người làm là thợ nề, thợ mộc cả, chính tôi phải dạy họ qua mấy cuốn sách giáo khoa mà tôi đã mua được. Đến cả việc làm ống dẫn nước, hàn sì, chúng tôi cũng đều tự làm qua cách học tập theo sách đó. Chúng tôi sửa chữa lại mái nhà, quét vôi trắng tất cả, rồi lau rửa sạch bóng từ trong nhà ra đến ngoài sân. Tôi chia một số đồ gỗ cho những người tá điền đó, chỉ để lại chiếc bàn to ở phòng ăn, chiếc bàn hãy còn tương đối an toàn, mặc dù mọt cũng đã sơi một số chỗ, thêm nữa để lại chiếc giường sắt trước kia cha mẹ tôi nằm. Tôi ở trong ngôi nhà rộng mênh mông và trống rỗng đó, đồ đạc không có gì ngoài hai thứ kể trên và mấy chiếc hộp gỗ dùng để ngồi, cho tới khi Férula gửi từ thủ đô về cho tôi mấy thứ đồ gỗ mới mà tôi nhờ chị sắm. Đó là những đồ đạc to lớn, nặng nề, hào nhoáng được sản xuất ra để dùng được lâu dài trong nhiều thế hệ và phù hợp với đời sống ở nông thôn, và ít ra phải có một trận động đất mới có thể tàn phá được những thứ đó. Tôi kê chúng sát vào tường, chú ý nhiều đến sự tiện lợi hơn con mắt thẩm mỹ, và đến khi ngôi nhà đã khả dĩ khang trang, tôi cảm thấy hài lòng, bắt đầu làm quen với ý nghĩ sẽ sống rất nhiều năm ở đây, tại đồn điền Ba Cô Maria, có thể đến suốt đời.

Vợ của những tá điền thay phiên nhau phục vụ trong ngôi nhà của chủ và họ đảm nhiệm trông coi vườn cây trong nhà. Chẳng bao lâu những bông hoa đầu tiên trong mảnh vườn mà tôi đích thân tự tay vạch ra đã nẩy nở, mảnh vườn chỉ có một thay đổi nhỏ cho đến bây giờ. Trong thời gian đó, mọi người không vừa làm vừa bàn tán nhảm nhí. Sự có mặt của tôi đã đem lại cho họ an toàn và chắc chắn được trông thấy khu đất dần dần sẽ biến thành một đồn điền giàu có, sung túc. Họ là những con người tốt và giản dị, không có một ai bướng bỉnh, chống đối. Đồng thời cũng thấy rõ ràng họ rất nghèo khổ và dốt nát. Trước khi tôi đến, họ chỉ hạn chế biết việc cày cấy những mảnh đất nhỏ của gia đình, những mảnh đất mà mùa màng chỉ cho thu hoạch ít chút hoa mầu thiết yếu để khỏi chết đói, khi không có hạn hán, băng giá, bệnh dịch, sâu kiến; còn những năm có những tai họa kia đến phá hoại thì chỉ có khó khăn, thiếu thốn. Làm việc với tôi, tất cả đều thay đổi. Chúng tôi đi hồi phục cho từng khoang trại chăn ngựa bò, xây dựng lại chuồng gà vịt, chuồng bò ngựa, và bắt đầu vạch ra một hệ thống thủy nông để cho hoa màu gieo trồng không bị lệ thuộc hoàn toàn vào thời tiết thiên nhiên, mà theo một cơ chế trồng trọt có đôi chút khoa học. Nhưng cuộc sống thực cũng không phải dễ dàng, mà thật rất vất vả. Có những lần tôi phải lên tận thị xã mời ông thú y sĩ về khám nghiệm cho đàn bò cái và chuồng gà mái đẻ, và nhân tiện, thăm qua một lượt cho những tá điền ốm bệnh. Nếu cho rằng tôi xuất phát từ ý nghĩ nếu như những hiểu biết của ông thú y sĩ đã tới được chỗ chữa cho các con vật, thì nó cũng có thể phục vụ cho những người nghèo, như cháu gái tôi nói thế khi nó muốn chọc cho tôi phải nổi xung lên, thì không đúng. Sở dĩ tôi phải làm như vậy chỉ vì lúc đó không làm sao có được thầy thuốc đến để khám chữa cho những người ở những nơi vô cùng hẻo lánh khỉ ho cò gáy đó. Ở đây nông dân thường đến khám chữa bệnh tại nhà một bà đồng người India, có hiểu biết hiệu lực của lá, cỏ và cầu cúng, được mọi người rất tin tưởng. Còn tin hơn cả ông thú y sĩ kia nhiều. Phụ nữ ở đây khi sinh nở đều trông nhờ sự giúp đỡ của các chị hàng xóm, sự cầu nguyện và một bà đỡ vườn thường không bao giờ đến đúng lúc, bởi vì bà ta phải cưỡi bò đi đến, và bà đỡ cho trẻ con lọt lòng cũng giống như đỡ cho một con bê con, lôi từ bụng bò cái ra. Những bệnh nhân quá nặng mà không một phép ma nào của bà đồng, cũng như chẳng một lọ thuốc nào của ông thú y sĩ có thể chữa khỏi, đều được Pedro García hoặc tôi đặt vào một chiếc xe ngựa chở lên bệnh viện của các vị nữ tu sĩ, tại đó đôi khi cũng có một ông thày thuốc luân phiên đến để giúp cho người bệnh chết. Những người chết sẽ được vùi xương trong một nghĩa địa nhỏ nằm cạnh vùng nhà thánh bỏ hoang, dưới chân ngọn núi lửa, tại đó ngày nay đã có một nghĩa trang như Chúa đã ban hành. Trong một năm tôi cũng mời được ông cố đạo một vài lần đến làm lễ ban phước cho những đám cưới, những con gia súc mới sinh và những dụng cụ làm ăn có vẻ máy móc, rửa tội cho tụi trẻ con, cùng tụng một vài bản kinh muộn mằn cho những người đã chết. Thú giải trí duy nhất ở đây là việc thiến lợn và bò, những cuộc chọi gà, trò chơi đáo lỗ và những câu chuyện không thể tưởng tượng được của Pedro García già, nay đã chết. Đó là cha của Pedro García, ông của Pedro García Con, và theo như người ta nói đã từng chiến đấu trong hàng ngũ những người yêu nước trong cuộc chiến đấu tống cổ bọn Tây Ban Nha ra khỏi châu Mỹ. Ông già Pedro García dạy cho bọn trẻ cách để cho nhện đốt và uống nước giải của phụ nữ có mang để trừ độc. Ông già cũng biết công dụng trị bệnh của nhiều thứ cây cỏ như bà đồng India, nhưng ông hay lầm lẫn trong việc sử dụng nó, và đã từng phạm phải những sai lầm không thể cứu vãn. Để nhổ răng hàm, tôi cho rằng ông già đã có một phương pháp không ai có thể vượt nổi, phương pháp đã làm cho ông chính đáng nổi danh trong khắp một vùng: đó là món phối hợp rượu vang đỏ với cầu nguyện. Chúa, làm cho người bệnh đi vào trạng thái bị thôi miên. Ông đã nhổ cho tôi một chiếc răng hàm không đau đớn gì, và tôi còn sống cho tới bây giờ là nhờ ông nha sĩ ở bệnh viện thị trấn.

Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi bắt đầu thích thú cuộc sống ở nông thôn. Những ông hàng xóm gần nhất của tôi cũng ở cách một cung đường đi ngựa khá dài, nhưng đối với tôi, cuộc sống xã hội không cần chú ý, tôi vui thú với cảnh cô đơn, thêm nữa có rất nhiều công việc phải làm. Dần dần tôi trở nên một anh chàng man rợ, quên nhiều từ ngữ, tự vựng của tôi teo lại, và tôi đâm ra một kẻ chuyên quyền. Vì chẳng cần phải giữ gìn ý tứ trước mặt bất kỳ ai, tính cáu bẳn cố hữu của tôi càng nẩy nở, phát triển. Cái gì cũng đều có thể làm cho tôi điên lên; tôi nổi xung khi thấy bọn trẻ con lượn lờ quanh nhà bếp để ăn trộm bánh, khi thấy lũ gà mái gáy loạn sạ ngoài sân, khi thấy lũ chim sẻ sà xuống phá hoại đồng ngô. Mỗi khi thấy cơn nổi cáu bắt đầu nổi lên làm cho trong người khó chịu không thoải mái, tôi bỏ công việc, lao vào săn bắn. Dậy thật sớm trước khi trời sáng, tôi bỏ ra đi với khẩu súng săn trên vai, đeo túi dết và huýt con chó săn theo sau. Tôi thích phóng ngựa trong đêm tối, trong cái lạnh buổi sớm, thích ngồi rình thú hàng giờ trong bóng tối, thích yên tĩnh, thích mùi thuốc súng và mùi máu, thích cảm thấy báng súng giật mạnh trên vai sau một tiếng ho khô gọn và nhìn thấy con mồi rơi lăn kềnh; những thứ đó làm cho tôi bình tĩnh lại, và mỗi khi đi săn về, với bốn con thỏ đáng thương trong túi dết và một vài con gà gô thủng nát vì đạn ghém đến không dùng nấu nướng được nữa, tôi mệt lử như sắp chết, bê bết bùn đất nhưng cảm thấy trong người nhẹ nhõm sung sướng.

Nhớ lại những thời gian đó tôi tự nhiên cảm thấy một nỗi buồn sâu lặng. Cuộc đời đối với tôi đi nhanh quá. Giá như tôi phải quay lại từ đầu, có một số sai lầm tôi sẽ không phạm phải, nhưng nói chung tôi không hối hận một điều gì. Phải, tôi đã là một ông chủ tốt, điều đó thật không còn nghi ngờ gì nữa.

Những tháng đầu tiên Esteban Trueba hết sức bận vào việc đào mương dẫn nước, nhặt bỏ đá, dọn dẹp những trại thả bò, ngựa và sửa lại chuồng gà vịt, chuồng bò, ngựa, nên không còn thì giờ mà nghĩ đến một điều gì khác. Anh mệt rũ khi đi nằm và tảng sáng đã thức dậy, ăn bữa điểm tâm thanh đạm ngay trong bếp, rồi phóng ngựa đi coi sóc công việc trên cánh đồng. Chỉ tối mịt mới quay về nhà. Chỉ ăn bữa cơm duy nhất trong ngày vào buổi tối, một mình trong phòng ăn. Những tháng đầu anh đã định tắm và thay quần áo hàng ngày trước giờ ăn tối, vì nghe người ta nói những nhà thực dân Anh vẫn làm như thế ở những làng xóm xa xôi mãi ở những miền châu Á, châu Phi kia, để khỏi mất đi cái vẻ cao thượng, quý phái lãnh chúa. Rồi mặc bộ quần áo đẹp nhất, cạo râu cạo mặt và đặt vào chiếc máy hát chạy bằng giây cót những đĩa kịch hát mà anh vẫn ưa thích, sau bữa ăn tối. Nhưng dần dần sự thô sơ thôn dã đã thắng và anh thừa nhận mình không có năng khiếu của một kẻ hào hoa, nhất là khi chẳng có một ai để đánh giá lề thói trang nhã đó. Anh thôi không cạo râu, chỉ cắt tóc khi nó đã phủ kín cả vai, và vẫn tắm hàng ngày do tập quán đó đã ăn quá sâu trong con người anh từ thuở nhỏ, nhưng anh không chú ý đến quần áo và mọi thứ hình thức bên ngoài. Đi tới chỗ anh trở nên một con người man rợ. Trước khi đi ngủ anh đọc một chút, hoặc chơi cờ một mình, chọi với một cuốn sách, và anh đã phát triển óc thông minh nhanh nhẹn của mình bằng cách đó, và nếu có thua anh cũng không nổi cáu lên được với ai. Tuy nhiên sự mệt mỏi thể xác gây ra bởi công việc cũng không đủ để dập tắt cái bản chất khỏe mạnh và ham thích nhục dục của anh. Esteban bắt đầu có những đêm khó ngủ, mảnh vải đắp đối với anh như thể quá nặng, mảnh chăn phủ đệm lại có vẻ quá mềm. Con ngựa anh cưỡi, bây giờ như thể đã biến thành một con ngựa cái ghê gớm, một trái núi thịt rắn đanh mà anh cưỡi trên lưng nó để phi cho đến khi mỏi rức cả xương hông. Những quả dưa ấm áp và thơm thơm trong vườn, anh nhìn thấy như những bầu vú to quá khổ của phụ nữ và ngạc nhiên thấy mình vùi mặt trên lưng con ngựa, tìm trong mùi hôi hôi cay nồng của con vật cái mùi giống như cái mùi xa xôi, bị cấm đoán kia của những người gái ăn chơi đầu tiên anh gặp trong cuộc đời. Ban đêm anh nằm co ro với những cơn ác mộng về những con sò hến thối, về những khúc lớn cá, về máu, về tinh khí, về nước mắt. Tỉnh dậy trong trạng thái căng thẳng, bộ phận sinh dục nở căng như sắt giữa bẹn, anh thấy bực dọc điên dại hơn bao giờ hết. Để cho nhẹ người anh phải chạy ra sông, trần truồng ngụp lặn trong làn nước lạnh như đá cho đến khi hết hơi, và đến lúc ấy mới cảm thấy như có đôi bàn tay vô hình vuốt ve giữa chỗ nối hai đùi. Thua cuộc rồi, anh để mình trôi theo dòng nước, để cho dòng nước ôm ấp thân hình, để cho những con ếch nhái hôn hít, để cho những thân lau lách ở ven bờ cọ sát. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, yêu cầu cấp bách kia đã trở nên quá rõ ràng, khiến làn nước lạnh giá cũng không làm dịu được, và ban đêm những bát nước quế sắc, những viên đá nóng đặt dưới nệm, đến cả những thủ thuật nhục nhã đã từng làm cho những chú học sinh nội trú đến phát điên lên, đến mù lòa thương tật suốt đời, đều không làm cho nó dịu. Khi Esteban bắt đầu nhìn bằng con mắt dâm đãng cả đến những gà vịt trong sân, những đứa trẻ cởi truồng chơi đùa trong vườn, đến cả nắm bột bánh đã nắm nhưng còn sống, anh biết ngay rằng nhìn như thế cũng chẳng bao giờ có thể làm cho êm dịu được những đòi hỏi cấp bách đó bằng những thứ thay thế quỷ quái kia. Óc thực tiễn đã chỉ cho anh thấy cần phải tìm một người phụ nữ, và khi đã có quyết định như vậy, nỗi dằn vặt ao ước vẫn gậm nhấm người anh dịu yên đi và cơn cáu bẳn của anh cũng hầu như đã thanh toán. Ngày hôm đó anh trở dậy với một nụ cười, vẻ tươi tỉnh đầu tiên đã từ lâu không thấy xuất hiện.

Ông già Pedro García nhìn thấy anh vừa đi vừa huýt sáo ra phía chuồng ngựa, ông lắc đầu lo ngại.

Suốt ngày hôm đó ông chủ bận bịu trông nom việc cầy sới một trại thả bò ngựa vừa mới dọn dẹp sạch đá và gai góc, giành để gieo ngô. Sau đó ông đi cùng Pedro García đến giúp một con bò cái đang cơn đau đẻ, để lấy con bê ra. Esteban phải thọc tay vào đến ngập khuỷu để soay con vật trong bụng và giúp cho nó quay đầu chui ra. Con bò mẹ chết sau khi đẻ, nhưng điều đó cũng không làm cho anh cáu bẳn. Esteban ra lệnh nuôi con bê con bằng sữa đóng trong chai, rồi đi lau rửa trước khi nhẩy lên ngựa. Bình thường vào giờ này là bữa ăn tối, nhưng hôm nay ông chủ không thấy đói. Không có việc gì phải vội vàng, bởi vì ông đã chọn lựa, quyết định rồi.

Esteban nhiều lần trông thấy cô gái bế ngang hông cậu em trai thò lò mũi, hoặc thấy cô đeo một chiếc túi sau lưng, hoặc đội một bình nước giếng trên đầu. Anh đã ngắm nghía cô bé khi cô giặt quần áo, dẵm dẵm lên những phiến đá bên bờ sông bằng đôi chân mầu nâu nhẵn bóng vì nước, và vò đập những mảnh giẻ đã nhạt mầu bằng đôi bàn tay nông dân thô lỗ. Cô bé có bộ khung xương dài, lớn, khuôn mặt thổ dân India, da nâu, dáng vẻ êm ái, hiền dịu, cái miệng đầy đặn còn nguyên cả hàm răng, khi cười sáng bóng rực rỡ, nhưng ít khi thấy cô cười. Cô gái có cái đẹp của tuổi mới bước vào thời thanh niên, dù cho Esteban đã có thể trông thấy vẻ đẹp đó sẽ héo hon đi rất sớm, cũng như thường thường xẩy ra đối với những người phụ nữ ở đây, họ sinh ra để đẻ nhiều con cái, làm lụng không nghỉ ngơi và ma chay chôn cất những người chết trong gia đình họ. Cô bé tên gọi Pancha García, lúc đó đúng mười lăm tuổi.

Lúc Esteban ra khỏi nhà đi tìm cô, chiều tối đã ập xuống và trời đã mát dịu. Anh cho ngựa đi thủng thẳng suốt dặng bạch dương dài, phân chia những trại thả bò ngựa, vừa đi vừa hỏi những người anh gặp xem cô bé ở đâu, cho đến khi trông thấy cô bé đi trên đường, mé trước mặt. Cô cúi gập người cõng một bó củi gai về đun bếp, chân không giầy, đầu cúi xuống. Từ trên lưng ngựa anh nhìn thấy cô bé và lập tức thấy nỗi thèm muốn khẩn cấp dâng lên, cái thèm muốn đã làm cho anh khốn khổ mấy tháng nay. Anh cho ngựa đi nước kiệu tới gần, đến sát người cô bé; cô bé nghe thấy tiếng động, nhưng vẫn tiếp tục đi, không nhìn anh, do thói quen cổ truyền của tất cả những người phụ nữ thuộc tầng lớp của cô, phải cúi mặt xuống trước một người đàn ông. Esteban cúi người, nhấc bó củi của cô bé, giữ nó một giây trên tay, sau đó phủ phàng ném xuống bên đường, đưa tay ôm ngang lưng cô gái và nhấc cô lên với một tiếng thở dốc của thú vật, rồi đặt cô lên yên ngựa ngay trước mặt mình, khiến cô bé không kịp biểu lộ một chút kháng cự gì. Anh thúc gót giầy vào sườn ngựa cho nó phóng về mé bờ sông. Cả hai xuống ngựa không trao đổi với nhau một lời, đôi mắt nhìn nhau thăm dò. Esteban cởi chiếc thắt lưng da to bản, còn cô bé giật lùi lại phía sau, nhưng anh chàng giơ tay ra tóm lại. Cả hai ôm nhau lăn trên đám lá chàm.

Esteban không cả cởi áo. Anh như thú dữ phủ lên người cô bé không một cử chỉ rào đón, dữ tợn một cách không cần thiết. Rồi nhận thấy quá muộn rằng cô bé vẫn còn trinh bạch qua những vết máu loang lổ bắn ra quần áo cô, nhưng cả cái nhân cách nghèo khổ của Pancha, lẫn những đòi hỏi cấp bách thèm muốn của anh đều đã không khiến anh phải suy nghĩ nhiều. Pancha García không chống cự, không than van, không nhắm mắt. Cô nằm ngửa, nhìn trời bằng đôi mắt kinh hoảng, cho tới khi người đàn ông đổ gục cùng một tiếng rên ở bên cạnh mình. Lúc đó cô mới bắt đầu rấm rứt khóc. Trước cô, thì mẹ cô, và trước mẹ cô là bà cô, tất cả đều chịu chung cái số phận như chó cái này. Esteban Trueba sửa lại quần, thắt lại thắt lưng, giúp cô bé đứng lên, rồi lại đặt cô bé lên lưng ngựa. Họ quay về. Esteban vừa dong ngựa vừa huýt sáo. Cô gái vẫn khóc. Trước khi đặt cô xuống đất ngay bên cửa nhà cô, ông chủ hôn vào miệng cô gái.

– Từ mai, ta muốn mi đến làm việc ở trên nhà - Esteban nói. Pancha gật đầu, mắt vẫn không nhìn lên. Mẹ cô và bà cô cũng vậy, đều làm việc trên nhà của ông chủ.

Đêm đó Esteban Trueba ngủ như một người được Chúa ban phước lành, không mơ mộng thấy Rosa. Sáng sớm hôm sau anh ta cảm thấy tràn trề nghị lực, người như lớn hơn và khỏe mạnh hơn. Anh lẩm bẩm hát trên đường đi ra ruộng và đến khi trở về, Pancha đang ở trong bếp, hì hục nấu nồi cơm trắng trong một chiếc nồi đồng lớn. Đêm đó anh ta phấp phỏng nóng ruột đợi Pancha, và khi tất cả mọi tiếng động đã im trong ngôi nhà gỗ sồi to lớn và cũ kỹ, và những cuộc chạy rỡn của những cô chuột bắt đầu thì anh ta thấy cô gái xuất hiện trên bực cửa căn buồng của mình.

– Vào đây, Pancha - anh gọi cô gái. Không phải một mệnh lệnh, một lời cầu khẩn thì đúng hơn.

Lần này Esteban đã chuẩn bị cho mình được hưởng thụ khoái lạc nhiều hơn với cô gái và làm cho cô cũng được hưởng hoan lạc. Anh ta bình tĩnh, lặng lẽ thăm dò toàn thân cô gái, biết đến thuộc lòng cái mùi đượm khói của cơ thể cô và quần áo cô vẫn giặt bằng nước gio và là bằng chiếc bàn là than củi, biết đến ngọn ngành từng sợi tóc đen và trơn mượt của cô sắp xếp ra sao, làn da mịn màng tại những chỗ kín đáo nhất của cô và chai ráp ở những chỗ khác, biết thật đầy đủ cặp môi tươi mát của cô, bộ phận giới tính âm ấm và cái bụng tròn chắc của cô. Anh yêu cô một cách bình tĩnh, nhẹ nhàng và dạy cho cô đi vào cái khoa học bí mật nhất và cổ xưa nhất. Có thể đêm đó, và một số đêm tiếp theo nữa, anh đã sung sướng, cả hai đã quay cuồng lăn lộn đùa bỡn nhau như hai con chó con trên chiếc giường sắt lớn, thừa hưởng từ đời ông Trueba đầu tiên, bây giờ đã hơi thọt một chân, nhưng vẫn còn chịu đựng nổi những hoạt động yêu đương cuồng nhiệt.

Đôi vú của Pancha García lớn dần lên và đôi mông của cô bé nở tròn ra. Còn Esteban Trueba có một thời gian đã đỡ cáu kỉnh, và bắt đầu quan tâm đến đám người làm công cho mình. Anh đi đến tận lán trại tồi tàn để thăm họ. Rồi anh khám phá ra trong một căn lán, có một cái hộp to nhét đầy giấy báo, trong đó một đứa trẻ còn ẵm ngửa và một con chó con mới đẻ nằm ngủ. Trong một lán khác thấy một bà già đang chết dần, đã từ bốn năm nay, xương xẩu đã thấy lòi ra khỏi những vết loét ở lưng. Trong một mảnh sân anh thấy có một anh ngớ ngẩn, đã lớn tuổi, rớt rãi đầy miệng, cuốn một chiếc thừng quanh cổ, bị trói chặt vào một chiếc cột, đang lảm nhảm nói những chuyện ở thế giới bên kia; người anh ta trần truồng như con nhộng. Lần đầu tiên Esteban biết được rằng sự bỏ rơi tồi tệ nhất không phải là sự bỏ rơi đất đai, gia súc, mà chính là sự bỏ rơi, quên lãng những người dân tá điền ở đồn điền Ba Cô Maria, để họ chịu đựng sống không nơi nương tựa từ thời kỳ mà cha anh được hưởng món của hồi môn và gia tài thừa kế này của mẹ anh. Anh quyết định bây giờ đã đến lúc phải đem lại một chút văn minh cho vùng hẻo lánh bị bỏ quên giữa dặng núi và mặt biển này.

Tại đồn điền Ba Cô Maria bắt đầu một hoạt động náo nhiệt làm rung động cả đến giấc ngủ. Esteban Trueba bắt những tá điền của anh làm lụng như chưa bao giờ từng thấy. Đàn ông, đàn bà, già trẻ, tất cả những ai đã có thể đứng vững trên đôi chân của mình nổi đều được ông chủ sử dụng với cái ao ước mau chóng cướp lại những năm đã bỏ hoang cho cỏ mọc ở nơi này. Anh cho xây một kho ngũ cốc và những nhà phụ để giành thóc ăn cho mùa đông, để muối thịt ngựa, để hun thịt lợn, và thúc giục phụ nữ làm bánh, mứt hoa quả và quả khô để dự trữ. Anh cải tiến nhà vắt sữa, nơi trước kia chỉ là một gian lều đầy phân rác và ruồi nhặng, và buộc những chị bò cái phải sản sinh ra khá đầy đủ sữa. Esteban bắt đầu xây dựng một trường học với sáu buồng học, bởi anh có tham vọng muốn tất cả trẻ con, người lớn trong đồn điền Ba Cô Maria đều phải học để biết đọc, viết và tính toán, mặc dù anh chẳng chủ trương làm cho họ phải có được những hiểu biết khác nữa, bởi anh không muốn họ có thể nhồi vào trong đầu óc những tư tưởng không thích hợp với tình trạng và hoàn cảnh của họ. Tuy vậy anh không tìm đâu ra được một