Chương 4 THỜI MA QUÁI
Nhờ có chế độ nuôi dưỡng của mẹ như đối với một đứa trẻ lớn nên ở vào độ tuổi mà phần đông trẻ nhỏ còn quấn tã và di chuyển bằng cách bò bốn chân tay, còn nói ngọng nghịu không ai hiểu rõ và chảy rớt rãi, Blanca đã như một đứa con gái lùn nhưng hiểu biết, đi còn loạng choạng hay vấp ngã nhưng mà đi chứ không bò, nói sõi không ngọng nghịu và biết súc ăn lấy. Cô bé có đủ răng và bắt đầu mở các rương hòm, lục lọi những vật dụng bên trong, khi toàn thể gia đình quyết định về nghỉ hè ở đồn điền Ba Cô Maria mà Clara mới chỉ biết qua lời kể. Trong độ tuổi của Blanca lúc bấy giờ, sự tò mò còn mạnh mẽ hơn bản năng sinh tồn rất nhiều, cho nên Férula phải cuống cuồng vất vả chạy theo sát cô bé suốt ngày để tránh cho cô khỏi rơi từ từng hai xuống đất, khỏi chui vào bếp lò hoặc nuốt phải sà phòng. Cái ý định đưa cả cô bé con về nông thôn Férula thấy nó thật vô ích và nguy hiểm, vì cô cho rằng Esteban có thể thu xếp công việc tại đồn điền Ba Cô Maria một mình anh thôi, để em dâu cùng cô và đứa cháu gái vẫn có thể hưởng thụ cuộc sống văn minh tại thủ đô. Nhưng Clara lại tỏ ra rất phấn khởi. Nông thôn đối với cô như một ý nghĩ lãng mạn, vì theo như kiểu Férula nói chưa bao giờ cô từng biết một chuồng bò, ngựa. Công việc chuẩn bị cho cuộc hành trình khiến cho toàn thể gia đình bận túi bụi mất hơn hai tuần lễ, và ngôi nhà thì ngổn ngang đầy hòm rương, bồ sọt và va-li. Họ thuê riêng cả một toa xe đặc biệt để di chuyển, cùng với toàn bộ mọi thứ hành lý không thể tưởng tượng được đó và một lô người hầu hạ mà Férula cho rằng cần phải mang theo, và cả một số chuồng chim mà Clara không muốn để lại, cùng những hộp đồ chơi của Blanca bên trong đầy những con rối có giây cót, mặt nạ bằng sứ, con giống bằng vải, vũ nữ múa theo giây cót, và đủ loại búp bê, có tóc và tay chân cử động như người thật, mặc quần áo tử tế và ngồi trên xe đàng hoàng. Trông thấy cái bậu sậu người nôn nóng, băn khoăn và cái đống lộn xộn hàng tạp hóa gọi là hành lý kia, Esteban lần đầu tiên cảm thấy bị thất bại trong đời, nhất là khi anh phát hiện ra một bức tượng thánh Anthony to bằng người thật, với đôi mắt lé, chân sỏ đôi dép méo mó lẫn trong đống hành lý đó. Nhìn quang cảnh bề bộn của hành lý chất xung quanh, anh hối hận đã quyết định để cho vợ và con gái về nông thôn, và anh tự hỏi tại sao mình chỉ cần hai chiếc va-li là đủ để đi du lịch khắp thế giới, mà mấy bà phụ nữ này thì trái lại, đem theo cả một toa tàu đầy những thứ đồ vật vô tích sự và một đám rước người hầu hạ chả cần thiết gì cho cuộc hành trình.
Đến ga San Lucas họ thuê ba cỗ xe ngựa chở về đồn điền Ba Cô Maria, và như thể một đoàn người Di-gan họ cho xe chạy phóng, cuốn theo sau họ một đám bụi mù. Tá điền trong trang trại theo viên quản lý Pedro García tề tựu trong sân để chào đón họ. Khi trông thấy đoàn xiếc lưu động đó tới tất cả đều thất kinh. Theo lệnh của Férula, tá điền chuyên trở mọi thứ trên xe xuống và khuân vào trong nhà. Không một ai chú ý tới một thằng bé tuổi trạc cỡ tuổi của Blanca, trần truồng, thò lò mũi, bụng ỏng đầy giun, có đôi mắt đen rất đẹp tựa mắt ông già. Đó là con trai của viên quản lý, tên gọi Pedro García Con. Trong lúc mọi người nhộn nhịp sắp xếp, bày đặt mọi thứ đồ đạc, xem xét căn nhà, thám hiểm vườn tược, chào hỏi làm quen, bầy bàn thờ thánh Anthony, và đuổi gà ra khỏi phòng ngủ, đuổi chuột ra khỏi tủ áo, thì Blanca cởi ngay váy áo, trần truồng chạy ra cùng Pedro García Con. Hai đứa bé chơi đùa giữa những đống đồ đạc, hòm rương, chui rúc dưới gầm bàn ghế, hôn nhau bằng đủ cả rớt rãi, cùng nhai với nhau một miếng bánh, nuốt cả nước mũi thò lò, bôi lên người nhau cả phân nữa, và đến cuối cùng, hai đứa bé ôm nhau ngủ khò dưới gầm bàn của phòng ăn. Tại đó, Clara tìm thấy chúng vào lúc mười giờ đêm, sau khi mọi người trong trang viên chia ra từng toán đốt đuốc đi tìm chúng hàng mấy tiếng đồng hồ, khắp dọc bờ sông, trong các kho ngũ cốc, trong các chuồng bò ngựa. Férula đã phải quỳ lạy cầu khấn trước tượng thánh Anthony, Esteban đã khản tiếng vì kêu gọi chúng, và ngay cả Clara cũng đã cầu viện đến sức tiên cảm sáng suốt của mình mà không có hiệu quả. Khi mọi người tìm thấy chúng, thằng bé nằm ngửa trên mặt đất và Blanca nằm co ro, đầu gục trên cái bụng ỏng của đứa bạn mới. Nhiều năm sau, thật bất hạnh cho cả hai, chúng bị người ta bắt gặp cũng trong cái tư thế đó, và cuộc đời cũng chẳng đủ để đền bù cho chúng.
Ngay từ ngày đầu tiên mới tới đồn điền Ba Cô Maria, Clara đã biết ngay rằng tại đây có một chỗ dành cho cô và theo như cô ghi lại trong những cuốn vở ghi chép cuộc đời, thế là cô đã tìm thấy sứ mệnh của mình trong cõi thế gian này. Cô không quan tâm đến những căn nhà ngói, đến ngôi trường và sự sung túc về lương thực, thực phẩm, vì cái khả năng thấy được những thứ vô hình đã khiến cô khám phá thấy ngay lập tức sự nghi kỵ, nỗi sợ hãi và lòng căm hờn của những người tá điền, và cái tiếng rì rầm đồn đại khó nhận thấy đột nhiên ngừng bặt mỗi khi cô quay mặt nhìn họ, tất cả những cái đó đã cho phép cô đoán được một số điều thuộc về tính nết và quá khứ của chồng cô. Ông chủ Esteban Trueba dĩ nhiên đã có thay đổi. Mọi người đánh giá đúng là ông đã thôi không tới nhà chứa Cây Đèn Bão Đỏ, đã hết những buổi chiều phóng túng, chọi gà, đánh cuộc, những cơn cáu kỉnh điên giận, và nhất là cái thói quen khốn nạn đi lùng hiếp con gái trên đồng lúa mì. Mọi người đều cho rằng nhờ có Clara mới có sự thay đổi như vậy. Về phần cô, Clara cũng có thay đổi. Cô bỏ ngay tức khắc được cái vẻ ẻo lả, không còn khen cái gì cũng đẹp nữa và dường như khỏi được cái tật xấu hay chuyện trò vơ vẩn với những kẻ vô hình, và làm cho một số đồ vật chuyển động bằng những phương pháp khác thường. Cô thức dậy vào lúc tảng sáng, cùng lúc với chồng, rồi quần áo tề chỉnh cùng ăn điểm tâm với chồng, sau đó Esteban đi trông nom việc làm ở ngoài đồng, Férula trông nom Blanca, và đảm nhiệm mọi việc trong nhà, sai bảo những người hầu mang từ thủ đô về chưa quen với sự thiếu thốn tiện nghi, với ruồi muỗi ở thôn quê, còn Clara thì chia thời giờ của mình cho công việc ở mấy nơi: xưởng khâu may, hiệu tạp hóa và trường học, nơi cô làm đại bản doanh để áp dụng những phương pháp chữa bệnh ghẻ và chống chấy rận, để dạy cho biết cái bí mật của vần chữ cái, dạy trẻ em hát bài hát “tôi có con bò sữa chứ không phải bò cái thường”, dạy những người phụ nữ cách đun sữa, cách chữa bệnh tháo tỏng và hồ trắng quần áo. Vào khoảng xế chiều, trước khi đàn ông làm việc ở ngoài đồng trở về, Férula tập hợp nữ tá điền và đám trẻ con lại để cầu kinh, lần tràng hạt. Họ kéo đến cùng Férula vì tình cảm nhiều hơn là vì lòng tin, nhưng cũng khiến cho cô gái ế chồng có được dịp nhớ lại những thời kỳ đẹp đẽ của cô trong các tu viện trước kia. Clara chờ cho chị chồng kết thúc những câu cầu nguyện bí hiểm đức Chúa tôi, đức Mẹ tôi xong, liền lợi dụng luôn cuộc họp đó để nhắc lại những lời hiệu triệu mà cô đã nghe mẹ phát biểu khi bà dán mình vào hàng rào sắt của trụ sở Quốc hội. Đám nữ tá điền tươi cười và thẹn thò nghe Clara nói, vì cảm tình y như việc họ đến cùng cầu nguyện với Férula, để làm vui lòng bà chủ thôi. Còn những lời nói nẩy lửa của bà chủ, họ nghe như những chuyện của người điên. “Chưa bao giờ thấy một người đàn ông nào lại không có thể đánh vợ, nếu không đánh vợ là do hắn không yêu vợ hoặc vì hắn không đúng thực là đàn ông; ở đâu mà lại có cái chuyện những gì mà người đàn ông kiếm được, hoặc đất cát sinh đẻ ra, hoặc những mái gà đẻ ra, tất cả lại là của chung của cả hai, khi mà người đàn ông là người cai quản; ở đâu đã từng thấy một người đàn bà nào có thể làm được những việc như việc của đàn ông, khi người đàn bà sinh ra cùng cái bánh nứt và không có hòn dái, thưa bà Clarita thân yêu”, họ viện chứng. Clara thất vọng. Nhóm nữ tá điền hích hích nhẹ khuỷu tay vào nhau, những cái miệng đã nhổ trụi hết răng nở những nụ cười bẽn lẽn, đuôi con mắt đầy những vết nhăn nheo, da cháy xém vì nắng gió và lầm than khổ cực; họ biết trước rằng nếu họ cũng có cái ý kỳ quái đi làm theo những điều khuyên của bà chủ Clara thì các ông chồng của họ sẽ cho họ ăn đòn lập tức. Mà cũng đáng đòn thôi, đúng vậy, chính bà Férula cũng quả quyết như vậy. Chỉ ít lâu sau Esteban biết được nội dung phần thứ hai của những buổi họp để cầu nguyện đó, anh liền nổi giận. Đó là lần đầu tiên anh cáu giận với Clara, và cũng là lần đầu tiên mà Clara thấy chồng nổi giận, một trong những cơn lôi đình từng nổi tiếng của anh. Esteban gầm thét như một người khác hẳn, bước những bước dài đi đi lại lại trong phòng khách và đấm thình thịch vào bàn ghế, đe dọa rằng nếu Clara còn đeo đuổi những bước đi của bà mẹ cô như thế nữa, cô sẽ được thấy anh là một thằng đàn ông thật cương nghị có thể lột váy cô và nện vào đít cô một trận roi da để cho mất cái thói hư đốn thích đi hiệu triệu mọi người; anh nói sẽ cấm tụ họp để cầu nguyện hoặc để thực hiện một mục đích nào khác, anh không phải là một con rối để cho vợ có thể đưa ra làm trò cười. Clara để mặc chồng gào thét và đấm thùm thụp vào bàn ghế cho tới lúc mệt nhoài, lúc đó, vẫn cái vẻ lơ đãng như thường ngày, cô hỏi anh có biết làm cho hai tai vẫy vẫy hay không.
Thời gian nghỉ hè kéo dài và những cuộc hội họp tại trường học vẫn tiếp tục. Mùa hè đã qua và mùa thu phủ một mầu lửa vàng trên cánh đồng quê, làm thay đổi cả cảnh sắc thiên nhiên. Bắt đầu những ngày mưa rét, lầy lội rồi mà chưa thấy Clara tỏ cho thấy những dấu hiệu muốn trở về thủ đô, mặc kệ sự thôi thúc của Férula, con người rất ghét đời sống nông thôn. Suốt mấy tháng hè cô gái già đã than vãn về những buổi chiều nóng bức ngồi đuổi ruồi, kêu ca về bụi đất của sân vườn bốc lên phủ đầy cả ngôi nhà, làm cho cả gia đình như sống trong một lò giếng tại vùng mỏ, ca cẩm về nước bẩn trong bồn tắm, trong đó có những thứ bột thơm cũng biến thành một thứ nước súp của người Tầu, về những con gián chui cả vào trong chăn trải giường, rên rẩm về những lối mòn của chuột và kiến, những con nhện giăng tơ ngay trên miệng cốc nước đặt trên bàn đầu giường ngủ, về những con gà mái hỗn láo dám đẻ cả trứng vào trong giầy và ỉa bừa cả vào tấm khăn trắng phủ trên tủ kính. Khi thời tiết thay đổi cô lại có những than vãn mới về tai họa, về sự lầy lội của mảnh sân về những ngày quá ngắn, mới năm giờ chiều trời đã tối mịt, không còn việc gì mà làm ngoài việc chịu đựng những đêm dài cô đơn, gió giật, cảm lạnh mà cô phải chống đỡ bằng cao dầu tràm, và vẫn không thể tránh được khỏi lây từ người nọ sang người kia, không ai thoát. Cô đã chán ngấy việc chống trọi với những lực lượng thiên nhiên, chẳng còn sự giải trí nào ngoài sự ngắm nhìn Blanca lớn lên, giống như cái tên ăn thịt người Pedro García Con, theo như lời con bé gọi thằng bạn khi chúng chơi đùa với nhau, cái thằng bé bẩn thỉu, là phần phụ thêm của con bé chẳng có được đứa bé nào cũng trong loại tuổi của nó để cùng chơi đùa, nên nó đã hấp thu những lề thói xấu, đi lang thang với đôi má dính đầy bùn, vết lở đã đóng vẩy trên đầu gối, “hãy nghe nó nói kìa, y hệt một thằng bé India, thật mệt về việc bắt chấy rận cho nó và bôi thuốc xanh methylene vào những nốt ghẻ lở của nó”. Dù luôn lầm bầm kêu ca như vậy, cô vẫn giữ nguyên cái tư cách nghiêm trang, chiếc búi tó vẫn không thay đổi, chiếc áo khoác luôn luôn hồ cứng, và chùm chìa khóa bao giờ cũng đeo lủng lẳng bên thắt lưng, vẫn không bao giờ đổ mồ hôi, không bao giờ gãi, và thân thể luôn luôn tỏa ra cái hương dìu dịu của nước giặt hồ và mùi vỏ chanh. Chẳng ai có thể cho rằng cớ một cái gì có thể làm suy xuyển được cái đức tự kiểm tra khắc kỷ của cô, trước cái ngày mà cô cảm thấy ngứa ngáy ở lưng. Đó là một thứ ngứa dữ dội khiến cho cô không thể nào tránh được việc kín đáo đưa tay lên gãi, nhưng gãi mãi vẫn không thấy đỡ ngứa chút nào. Sau cùng cô phải vào buồng tắm và cởi chiếc coóc-sê mà ngay trong những ngày có công việc nặng cô cũng vẫn mặc. Khi cởi những sợi nịt ra thì một con chuột nhắt xổ ra lơi lăn xuống đất, con vật bé tẹo đã bị nằm bẹp dưới những sợi nịt giữa lần vải và làn da thịt của bà chủ chiếc coóc-sê suốt buổi sáng mà không tìm cách nào ra thoát. Lần đầu tiên trong cuộc đời Férula biết một cơn chấn động thần kinh cực độ. Nghe tiếng kêu thét của cô, tất cả mọi người chạy đến và thấy cô nằm lăn trong bể tắm, nửa người ở trần, mặt tái xám vì sợ hãi, miệng chu chéo rền rĩ như điên, và giơ ngón tay run run chỏ vào con vật gặm nhấm tí hon đang cố dẫy dụa lật người lên để chạy vào một xó an toàn. Esteban nói đó chỉ là triệu chứng của thời kỳ tắt kinh, chẳng có gì đáng quan ngại. Đến khi cô bị chấn động thần kinh lần thứ hai, mọi người cũng chẳng chú ý quan tâm. Hôm Chủ nhật đó đầy nắng ngay từ lúc rạng đông, và trong nhà nhộn nhịp hết sức, bởi vì đây là lần đầu tiên tại trang viên Ba Cô Maria có tổ chức một tiệc lễ, kể từ ngày đã xa xôi quên lãng mà bà Ester hãy còn là một cô gái nhỏ. Họ mời những anh em họ hàng và bạn hữu từ thủ đô đi xe lửa về dự, mời tất cả những nhà điền chủ quanh vùng, không quên những vị kỳ hào kỳ mục ở thị trấn. Họ chuẩn bị cho bữa tiệc mất đến cả tuần lễ: một con bò thui ở giữa sân, bánh nhân bầu dục, gà tần, bánh bột ngô, nem rán, giò chả, lườn gà hầm sữa, hồng xiêm, và những loại rượu vang ngon nhất của mùa nho. Vào khoảng giữa trưa khách mời đi xe ngựa hoặc cưỡi ngựa bắt đầu tới, tiếng chuyện trò và tiếng cười vang ầm ĩ ngôi nhà lớn bằng gỗ sồi. Férula xin lỗi một lát để chạy vào phòng tắm, một trong số những phòng tắm rộng lớn của ngôi nhà, tại đó cái chậu đi tiêu đặt ở giữa phòng, vây bọc xung quanh là cả một khoảng trống lát bằng gốm trắng. Cô đang ngồi trên chiếc bồn cô độc như một chiếc ngai đó, chợt cánh cửa bật mở tung và một vị khách bước vào, vị đó chính là ông trưởng trấn, dáng điệu có vẻ đã bừng bừng vì men rượu khai vị, ông từ từ cởi khuy quần. Khi nhìn thấy cô gái, ông đứng sững lại như tê liệt vì bất ngờ và nhầm lẫn, tới khi ông bắt đầu có thể phản ứng thì việc duy nhất mà ông làm là tiến bước lại gần với một nụ cười ngượng nghịu, rồi bước vội qua suốt gian phòng, giơ tay chào và xin lỗi.
– Tôi, Zorebabel Blanco Jamasmié, xin vui lòng nghe lệnh của cô - ông ta tự giới thiệu.
“Lậy Chúa! Không ai có thể sống được giữa những con người thô lỗ đến như thế. Nếu các người muốn, xin cứ việc ở lại nơi trừng giới của những kẻ thiếu văn minh này, còn tôi, tôi sẽ trở về thủ đô, tôi muốn sống như một người theo đạo Chúa, như bất cứ lúc nào tôi cũng muốn như vậy”, Férula la lên khi cô đã có thể nói được về chuyện ấy mà không bật khóc. Nhưng rồi cô cũng không về thủ đô. Cô không muốn xa Clara, vì cô đã đi đến chỗ yêu quý cả cái không khí mà cô em dâu thở ra, và dù bây giờ không còn dịp để tắm và ngủ cùng giường với em dâu, Férula vẫn cố gắng tìm mọi cách để biểu lộ lòng âu yếm của mình với em dâu trong hàng nghìn chi tiết nhỏ mà cô dành cả cuộc sống của mình vào đó. Người phụ nữ nghiêm khắc và thật ít khoan dung với cả chính mình cũng như với mọi người đó, có thể trở nên rất dịu dàng và vui vẻ với Clara, và đôi khi lan rộng ra cả đối với Blanca. Férula chỉ cho phép mình nhân nhượng trước cái ý muốn tràn trề được phục vụ và được yêu của em dâu, và chỉ riêng với em dâu cô mới có thể biểu lộ, với đôi chút che dấu, những mong muốn thầm kín và tế nhị nhất của tâm hồn. Nỗi cô đơn và buồn bã lâu ngày trong cuộc sống của cô đã gạn cất những niềm rung động và tẩy rửa mọi tình cảm, đến độ rút gọn tất cả những thứ đó lại thành một vài khát vọng ghê gớm và kỳ lạ nó chi phối hoàn toàn tâm hồn cô. Trong con người cô không có những xáo động nhỏ nhen, những mối thù oán vặt, những thèm khát che đậy, những công việc từ thiện, những dấu hiệu yêu thương nhợt nhạt, những cử chỉ lịch sự đáng yêu hoặc những sự chú ý quan sát hàng ngày. Cô là một trong số những con người chỉ có một mối tình duy nhất, một lòng căm thù luôn quá đáng, một sự trả thù hủy diệt, một tính anh hùng rất cao thượng, nhưng cô đã không có thể thực hiện được số phận mình cân xứng với ý chí lãng mạn của cô, và số phận cô đã sám sịt và tẻ nhạt trôi đi trong bốn bức tường của một căn buồng người ốm, trong những tu viện, trong những buổi thú tội quanh co, và từ một người con gái cao to, có dòng máu nồng nhiệt, sinh ra để làm mẹ, đẻ nhiều con, để hoạt động và hăng say, cứ mòn mỏi sút dần. Lúc bấy giờ cô gần bốn mươi lăm tuổi, nhưng dòng giống huy hoàng của ông bà người Moorish xa xôi vẫn giữ trong cô cái bóng bẩy thanh sạch, món tóc vẫn đen và mượt như lụa, chỉ có một búp trắng chớm nở trên chân trán, thân hình khỏe khoắn, thanh nhẹ và dáng đi dứt khoát của loại người lành mạnh; nhưng dù sao nỗi cô đơn trong cuộc sống đã khiến cho cô có vẻ mặt già hơn tuổi khá nhiều. Tôi có một bức chân dung của Férula chụp trong những năm đó, nhân dịp lễ sinh nhật của Blanca. Đó là một tấm ảnh cũ, mầu nâu, đã nhợt nhạt bởi thời gian, tuy vậy vẫn trông rõ cô. Trong đó cô trông như một bà chủ gia đình vương giả đã đứng tuổi, nhưng có một cái nhếch mép cay đắng hiện trên khuôn mặt nó tố cáo tấn bi kịch nội tâm. Những năm sống cùng Clara có lẽ là những năm sung sướng duy nhất của đời cô, bởi vì cô có thể tâm sự thân mật cùng em dâu. Clara là người cô có thể thổ lộ tất cả những cảm xúc tế nhị nhất và có thể dành cho toàn bộ lòng hi sinh và yêu mến của mình. Có lần Férula đã dám nói ra điều đó với Clara, và cô em dâu đã ghi trong cuốn sổ ghi chép cuộc đời rằng Férula yêu mình hơn cả mình xứng đáng được yêu và không thể đủ sức yêu trả lại. Vì tình yêu vô bờ đó mà Férula không muốn rời khỏi trang viên Ba Cô Maria ngay cả khi nạn giặc kiến bắt đầu xẩy ra, khi bắt đầu có một tiếng rào rào trong các chuồng bò ngựa, một đám vết đen sẫm di chuyển thật nhanh, đi đến đâu gặm nuốt tất cả chỗ đó, từ bắp ngô, cây lúa mì, cây cỏ linh lăng, đến cỏ cam cúc. Đem ét-săng dội vào rồi đốt, nhưng chúng lại xuất hiện nhiều hơn. Lấy vôi quét vào thân cây nhưng chúng vẫn không ngừng bò lên và không kiêng nể bất cứ cây gì, từ lê, táo, cam, quít gặm chén tuốt; rồi chúng xâm chiếm đến vườn hoa, lan vào các kho chứa, ăn hết đến cả dưa giống, chui vào thùng sữa và sữa trở nên chua loét và đen đầy xác kiến mỗi buổi sáng ra; chúng đột nhập vào chuồng gà, gặm nuốt đến con gà con cuối cùng, để lại từng đống lông và những đốt xương thảm hại. Chúng bò vào trong nhà, men theo đường dẫn nước, phá hoại bếp nước, mọi thứ ăn nấu nướng phải ăn ngay lập tức, vì đặt trên bàn chỉ vài phút sau kiến đã bò vào hàng đàn như đám rước và chìm ngập đen đặc trong đó. Pedro García dùng nước và lửa để chống lại, thấm mật vào những miếng bọt biển rồi vùi xuống đất giữ cho kiến đến hàng đàn để có thể giết chúng hàng loạt, nhưng tất cả những phương sách đó đều vô ích. Esteban Trueba chạy lên thị xã và khi về đem theo đủ mọi loại thuốc trừ sâu đã có, từ loại ở dạng bột, loại ở dạng lỏng cho đến loại viên, Esteban đem rắc thuốc vào khắp các xó xỉnh, mọi ngóc ngách trong nhà, ngoài vườn, ngoài sân, đến độ rau xanh trong vườn còn sót lại cũng không ăn được nữa vì sợ thuốc sâu gây đau bụng. Nhưng kiến vẫn tiếp tục xuất hiện một cách nhân lên, càng ngày càng nhiều, mỗi ngày một thêm dữ tợn và ghê gớm. Esteban Trueba lại phải lên thị xã một lần nữa để đánh một bức điện về thủ đô cầu viện. Ba ngày sau Mr. Brown, một người Mỹ thấp lùn, đem theo một chiếc va-li bí hiểm, mà Esteban giới thiệu là chuyên viên kỹ thuật về trừ sâu bệnh, bước xuống sân ga. Sau khi giải khát bằng một vại rượu vang nhắm với trái cây, ông mở va-li, bầy tất cả đồ nghề trên mặt bàn. Ông lôi ra một kho những dụng cụ chưa ai từng trông thấy, rồi tìm bắt một con kiến, quan sát nó thật kỹ lưỡng dưới một chiếc kính hiển vi.
– Thưa mister, sao ngài phải quan sát nó kỹ lưỡng thế, khi tất cả bọn chúng nó con nào cũng giống con nào? - Pedro García hỏi.
Người Mỹ lạ đó không trả lời. Khi ông tìm hiểu được rõ loài kiến, tác phong sinh hoạt của nó, nơi chúng làm tổ, những thói quen của chúng và cả đến những ý định bí mật của chúng nữa, thì đã mất một tuần lễ trôi qua và bọn kiến đã xâm nhập gần đến giường nằm của bọn trẻ con, đã ăn hết thức ăn dự trữ dành cho mùa đông, và bắt đầu tấn công vào những chị bò sữa và những chú ngựa. Lúc đó Mr. Brown mới tuyên bố rằng phải diệt trừ bọn kiến này bằng một chất thuốc do mister chế tạo ra, nó có công dụng làm cho bọn kiến đực mất khả năng sinh sản, cộng thêm một loại thuốc độc nữa cũng do ông chế tạo, có tác dụng làm cho bọn kiến cái mắc một căn bệnh chỉ có chết, và như vậy là có thể kết thúc được tai họa.
– Như vậy thời gian mất bao lâu? - Esteban Trueba, từ chỗ kiên nhẫn đã chuyển sang cáu bực, hỏi.
– Một tháng - Mr. Brown nói.
– Đến lúc đó thì tụi kiến đã ăn hết cả người ở đây rồi, thưa Mr. Brown - Pedro García nói - Nếu ông chủ cho phép, tôi sẽ đi gọi cha tôi. Ba tuần trước ông cụ có nói ông biết một phương thuốc chữa cái nạn này. Tôi cho rằng đó là thứ thuốc của một ông già cổ lỗ, nhưng tôi thấy chúng ta chẳng mất mát gì khi thử xem sao.
Ông già Pedro García liền được gọi đến; ông lê đôi chân, đen đủi, nhỏ bé và đã rụng hết răng, khiến cho Esteban Trueba phải giật mình nhận thấy sự thay đổi do thời gian tạo ra. Ông già một tay cầm mũ đứng nghe, mắt nhìn xuống đất và đôi hàm lợi không răng nhóp nhép nhai không khí. Sau đó ông hỏi mượn một tấm khăn trắng do Férula lấy từ trong tủ áo của Esteban mang tới, rồi ông bước ra khỏi nhà, đi qua sân, tiến thẳng tới vườn rau; tất cả mọi người đều theo sau ông già, cả Mr. Brown, người Mỹ lùn thấp cũng vừa đi vừa nở một nụ cười khinh miệt “cái bọn man rợ này, oh God!*” Ông già ngồi xổm một cách hơi khó khăn, và bắt đầu lấy tay vun kiến lại thành một đống. Khi đã vun được một nắm kiến lớn, ông già hót tất cả vào trong chiếc khăn trắng, buộc chéo bốn góc lại và đặt vào trong lòng mũ của ông.
Tiếng Anh trong nguyên bản, có nghĩa: Ôi Chúa ơi!
– Ta sẽ chỉ đường cho bọn mi đi, hỡi lũ kiến, và hãy đem theo cả lũ kiến khác - ông già nói.
Sau đó ông trèo lên lưng một con ngựa và vừa cho ngựa đi vừa lẩm bẩm những lời khuyên nhủ, dặn dò lũ kiến, những lời cầu nguyện sự sáng suốt thông minh và những định thức ma thuật. Mọi người nhìn theo ông già cưỡi ngựa đi cho tới khi quá địa phận đồn điền của Esteban Trueba. Người Mỹ lạ mặt ngồi trên nền đất cười như một người mất trí, cho tới khi Pedro García đến lay ông ta.
– Xin ngài về mà cười với bà nội ở nhà, mister ạ, ngài không biết rằng ông già đó là cha tôi hay sao? - viên quản lý cảnh cáo.
Đến chiều ông già Pedro García quay trở về. Ông từ từ xuống ngựa, nói với ông chủ rằng ông đã chỉ cho lũ kiến biết đường đi rồi, và ông già bước về nhà, ông có vẻ mệt mỏi. Sớm hôm sau người ta thấy trong bếp không có kiến, trong những gian nhà phụ cũng hết kiến, mọi người sục tìm trong vựa ngũ cốc, trong chuồng bò ngựa, trong chuồng gà, ra tận các khoang chăn bò ngựa, lục soát khắp nơi đều không còn thấy một con kiến nhỏ nào nữa. Nhà kỹ thuật người Mỹ phát cuồng lên.
– Cần phải nói cho tôi biết làm thế nào mà lại như thế được! - ông ta kêu rống.
– Mister ạ, hãy nói với bọn kiến. Nói với bọn kiến rằng nên cút đi, đừng ở đây làm phiền mọi người, ấy thế là chúng nó hiểu đấy - ông già Pedro García giải thích.
Chỉ có Clara là người duy nhất thấy việc làm của ông già rất tự nhiên và thường tình. Férula thì vin ngay vào đấy để nói rằng cả gia đình này đang sống trong một cái hố, trong một vùng đất dã man, tại đó những luật phép của Chúa không hoạt động, cả mọi quá trình khoa học cũng vậy, và một ngày nào đó tất cả sẽ bay lên trên cán chổi; nhưng Esteban buộc chị phải câm ngay; anh không muốn vợ anh bị nhồi thêm những ý nghĩ mới lạ vào đầu nữa. Và một số ngày sau đấy Clara quay trở lại mơ mộng đãng trí, lại chuyện trò vơ vẩn cùng những hồn ma tưởng tượng, và để hàng giờ vào việc viết trong tập vở ghi chép cuộc đời. Khi cô đã thấy chán cả trường học lẫn xưởng may và những cuộc hội họp phụ nữ, và lại nhìn nhận mọi thứ đều rất đẹp, mọi người biết ngay cô lại có thai.
– Lỗi tại em đấy! - Férula kêu lên với em trai.
– Em đang mong thế đấy - anh trả lời.
Ít ngày sau, khi thấy Clara rõ ràng không thể sống ở nông thôn suốt thời kỳ mang thai, nhất là không thể sinh nở tại thị trấn này được, nên mọi người sửa soạn để quay về thủ đô. Việc đó an ủi Férula một phần nào, bởi cô vẫn cảm thấy việc thai nghén của Clara như một sự lăng nhục cá nhân cô. Férula trở về trước với phần lớn hành lý và những người hầu hạ, để mở cửa ngôi nhà lớn ở góc phố, chuẩn bị mọi thứ chờ đón Clara về. Esteban cùng đi với vợ và con gái trở về thủ đô mười ngày sau đó, để lại đồn điền Ba Cô Maria vào tay cai quản của Pedro García, người đã trở thành viên quản lý, mặc dù cái chức danh đó chẳng mang lại cho anh ta nhiều đặc quyền đặc lợi hơn mà chỉ tổ lắm việc hơn.
Cuộc hành trình từ nông thôn ra thủ đô kết thúc thì Clara kiệt sức. Tôi thấy em gầy đi, tái thêm, nổi hen suyễn, mắt thâm quầng. Nhịp chạy gập ghềnh của xe ngựa, sau đến sự rung chuyển của toa xe lửa, rồi bụi đất đường trường và cái tính choáng váng nôn mửa tự nhiên của em đã làm em suy kiệt rõ ràng trông thấy, mà tôi cũng chẳng có thể làm gì để giúp đỡ em, bởi khi em đau yếu thường không muốn ai đến nói chuyện với mình. Khi xuống ga tôi phải xốc nách đỡ, vì chân em như mềm nhũn không còn sức lực.
– Có lẽ em sẽ bay lên được - em nói.
– Ở đây không được! - tôi vội quát lên vì sợ hãi nghĩ có lẽ em sắp bay qua đầu mọi người hành khách để ra khỏi bục lên xuống trên sân ga.
Nhưng em không có ý nói cụ thể đến sự bay lên bằng ý lực mà muốn nói đến việc em đã bước lên tới chỗ nó cho phép em thoát khỏi mọi điều bất tiện, không thấy sự nặng nề của cái bụng thai nghén và sự mệt mỏi sâu lắng nằm trong tận cùng những đốt xương trong người. Em bước vào một thời kỳ im lặng mới, tôi nhớ dường như nó kéo dài mấy tháng, trong thời kỳ đó em lại sử dụng đến tấm bảng con, như thể trong thời kỳ câm lặng xưa kia. Nhưng trong dịp này tôi không hoảng sợ, vì tôi biết em sẽ trở lại trạng thái bình thường, như thể lần trước sau khi sinh nở Blanca, và một mặt khác tôi đã biết sự im lặng là nơi ẩn náu bất khả xâm phạm cuối cùng của vợ tôi, chứ không phải một căn bệnh tâm thần như ông bác sĩ Cuevas chẩn đoán. Férula săn sóc cho em dâu vẫn với cái kiểu ám ảnh như trước kia đã săn sóc mẹ, đối với em dâu như đối với một người bị tàn phế, không muốn để em dâu ở một mình, và Férula chẳng còn chú ý chăm sóc cho Blanca, nên con bé suốt ngày chỉ khóc đòi được trở về trang viên Ba Cô Maria. Clara tha thẩn trong nhà như thể một bóng đen to béo và âm thầm, dáng vẻ vô tư như đức Phật đối với mọi sự vật xung quanh. Em không cả nhìn đến tôi, đi ngang bên cạnh tôi như thể đi bên một món đồ gỗ, và khi tôi nói với em một lời, em cứ như ở trên mây xanh không nghe thấy tiếng tôi nói hoặc không nhận ra tôi. Chúng tôi không ngủ chung với nhau nữa. Những ngày nhàn rỗi trong thành phố và cái không khí phi lý thở hít trong ngôi nhà làm cho thần kinh tôi căng thẳng. Tôi cố tìm một việc gì cho bận bịu, nhưng chả có việc gì đủ cả, nên lúc nào tôi cũng thấy cáu kỉnh. Ngày nào tôi cũng lao vào việc kiểm soát công việc kinh doanh. Vào thời gian đó, tôi đã bắt đầu hoạt động tích trữ trong Thị trường chứng khoán và để hàng giờ nghiên cứu mức lên xuống của tiền tệ thế giới, rồi tôi quyết định đầu tư vốn liếng và trang bị cho những công ty xuất nhập cảng. Tôi dành nhiều thì giờ trong những hoạt động tại Câu lạc bộ. Đồng thời tôi cũng bắt đầu chú ý tới vấn đề chính trị; đến độ tôi đi tới chỗ gia nhập một hội thể dục thể thao, tại đó một tay huấn luyện viên khổng lồ buộc tôi phải tập luyện cho nổi lên một số bắp thịt mà tôi không ngờ mình cũng có trong người. Anh ta khuyên tôi nên dùng phương pháp xoa bóp, nhưng môn đó tôi không thích: tôi rất ghét những bàn tay thuê mướn xoa bóp vào cơ thể mình. Nhưng tất cả những thứ đó đều chẳng có thể làm cho tôi bận bịu suốt ngày được, tôi vẫn thấy bực bội, khó chịu, muốn quay về nông thôn, nhưng lại không dám rời bỏ ngôi nhà hiện nay rõ ràng cần thiết sự có mặt của một người đàn ông biết điều bên cạnh đám phụ nữ mắc bệnh xung huyết này. Hơn nữa Clara to ra quá sức tưởng tượng. Bụng em to quá khổ, hầu như bộ xương mảnh dẻ của em khó mà mang nổi. Em thẹn không muốn để ai nhìn thấy mình trần truồng, nhưng em là vợ tôi nên em không thể xấu hổ trước mặt tôi. Tôi giúp em tắm và mặc quần áo trước khi Férula định làm việc đó; và tôi cảm thấy thương em vô cùng vì em quá bé bỏng, gầy yếu cộng thêm cái bụng to kinh khủng, gần tới ngày sinh nở vô cùng nguy hiểm. Nhiều lúc tôi lo lắng nghĩ rằng em có thể chết khi sinh nở, và đã kín đáo bàn cùng bác sĩ Cuevas tìm phương pháp tốt nhất để giúp đỡ em. Chúng tôi thống nhất với nhau rằng nếu việc sinh nở của em có thể khó khăn thì tốt hơn hết lại mổ lấy thai ra lần nữa, nhưng tôi không muốn đưa em đến bệnh viện, còn bác sĩ lại không chịu mổ lấy thai một lần nữa trong căn buồng ăn như trước. Ông nói ở nhà thiếu mọi phương tiện cần thiết, nhưng thật ra trong thời kỳ đó bệnh viện lại là ổ của những thứ viêm nhiễm, và tại đó người đến để chết nhiều hơn là để được chữa khỏi bệnh.
Một hôm, trước ngày đẻ không bao lâu và cũng chẳng có một dấu hiệu nào báo trước, Clara tự nhiên rời bỏ nơi ẩn náu câm lặng để lại nói chuyên bình thường. Em đòi uống một tách cà phê và yêu cầu tôi dẫn đi dạo chơi một vòng. Trái tim tôi như nhẩy lên. Tất cả nhà đều vui mừng, chúng tôi mở nút champagne, cắm hoa tươi vào tất cả các lọ và chậu hoa, tôi tìm mua cho em hoa trà, thứ hoa em ưa thích, và tôi sắp hoa trà như trải thảm suốt căn phòng của em, đến độ em nổi cơn ho suyễn và mọi người vội gấp rút lôi hết hoa ra khỏi buồng. Tôi chạy đi mua cho em một chuỗi kim cương tại khu phố của những nhà kim hoàn người Do Thái. Clara cảm ơn tôi rối rít, khen món quà rất đẹp, nhưng rồi không bao giờ tôi thấy em đeo. Tôi cho rằng em đã bỏ nó vào một chỗ nào đó, rồi sau quên mất không còn biết đã để nó vào đâu, như thể tất cả các món trang sức mà trong cuộc đời chồng vợ tôi đã mua tặng em. Tôi mời bác sĩ Cuevas đến, lấy cớ để uống trà, nhưng thực ra ông đến để khám cho Clara. Ông đưa em về buồng, và sau đó nói với tôi và Férula hình như em đã khỏi bệnh tâm thần, và nếu vậy phải chuẩn bị đón chờ một cuộc sinh nở khó khăn, vì đứa bé trong bụng rất lớn. Vừa lúc đó Clara bước vào phòng khách, và chắc đã nghe thấy câu nói cuối cùng của ông bác sĩ.
– Mọi sự sẽ yên ổn tốt thôi, các ngài không phải lo lắng - em nói.
– Anh muốn lần này là một đứa con trai, để nó được mang tên anh - tôi nói đùa.
– Không phải một, mà là hai - Clara đáp lại, - rồi nói thêm - Hai anh em sinh đôi sẽ mang tên là Jaime và Nicolás.
Đến thế nữa thật quá sức đối với tôi. Tôi nghĩ mình phải phát khùng lên được bởi bao sự đè nén tích tụ trong suốt mấy tháng nay. Tôi nổi khùng, giải thích đó là những tên đặt của người buôn bán ngoại quốc, chứ trong gia đình tôi, cũng như gia đình em không có ai mang những tên như vậy, ít nhất một đứa cũng phải mang tên Esteban như tôi và cha tôi; nhưng Clara đáp lại những tên trùng lắp như thế sẽ gây ra sự nhầm lẫn trong những cuốn sổ ghi chép cuộc đời của em, và nhất định không thay đổi ý kiến. Để dọa em, tôi nắm tay đập vỡ một chiếc lọ sứ, hình như đó là di vật cuối cùng của những thời kỳ huy hoàng của ông cụ tôi, nhưng em vẫn không động tâm, và ông bác sĩ Cuevas mỉm cười sau tách trà, khiến cho tôi càng thêm cáu. Tôi vùng ra khỏi nhà, đóng sập cánh cửa, và bỏ đi đến Câu lạc bộ.
Đêm hôm đó tôi uống đến say. Một phần vì tôi thấy cần, một phần vì để trả thù, tôi mò tới ngôi nhà chứa quen thuộc nhất của thành phố, mang một cái tên lịch sử, Christopher Columbus. Cần phải thanh minh rằng tôi không phải loại người quen chơi đĩ điếm mà chỉ có những thời kỳ nào phải sống đơn chiếc lâu dài tôi mới tìm đến mấy cô gái điếm. Bây giờ tôi cũng không biết chính vì cái gì mà tôi đã làm như thế, vì bực tức với Clara, vì có nhiều điều cáu kỉnh, vì có thừa sức lực, hay vì muốn thử nghiệm. Trong thời kỳ đó công việc làm ăn của tiệm Christopher Columbus này đang phát đạt, tuy chưa đạt được cái uy tín quốc tế mà sau đó nó có, khi tên tuổi nó xuất hiện trên những tấm bản đồ hàng hải của những hãng tàu Anh, và trong những cuốn sách hướng dẫn du lịch, và được quay phim để chiếu trên vô tuyến truyền hình. Tôi bước vào một gian phòng khách có bày biện bàn ghế của Pháp, loại bàn ghế chân cong, tại đó một bà chủ người bản xứ nhưng lại bắt chước một cách khá là hoàn hảo giọng nói Paris, và việc đầu tiên của bà là đưa cho tôi xem giá tiền, sau đó lập tức bà hỏi tôi đã nghĩ đến một ai trong tiệm chưa. Tôi nói với bà ta, kinh nghiệm của tôi chỉ hạn chế trong tiệm Cây Đèn Bão Đỏ và một vài nhà chứa tồi tàn cho thợ mỏ ở miền Bắc, cho nên bất kỳ một người phụ nữ nào trẻ và sạch sẽ đối với tôi đều tốt.
– Ông đã làm cho tôi rất có cảm tình, thưa ông - bà ta nói. - Tôi sẽ đưa đến hầu ông của tốt nhất của tiệm chúng tôi.
Theo lời gọi của bà ta, một người phụ nữ cuốn trong một bộ quần áo sa đen hơi chật khiến cho hầu như không che đủ được cái đẫy đà rậm rạp của cơ thể phụ nữ của mình. Tóc của cô ta chải lệch xuống một bên tai, lối chải tóc tôi vẫn ghét, và khi cô tới gần, bước đi của cô tỏa lên một mùi hương sạ thơm ghê gớm, nó bồng bềnh nổi trong không khí, dai dẳng như một tiếng rên.
– Rất sung sướng được gặp lại ông chủ - người đó chào và ngay lập tức tôi nhận ra cô, bởi giọng nói là thứ duy nhất không thay đổi trong người Tránsito Soto.
Cô nắm tay kéo tôi vào một phòng khép kín bưng như nấm mộ, mấy chiếc cửa sổ đều che rèm kín mít; trong đó từ thời xa xưa lâu lắm chưa hề lọt vào một tia ánh mặt trời, nhưng mặc dầu vậy nó cũng như một lâu đài nếu đem so sánh với những căn buồng nhơ bẩn của tiệm Cây Đèn Bão Đỏ. Tôi cởi quần áo cho Tránsito, tháo rũ cái kiểu tóc kinh khủng của cô và thấy cô đã lớn lên nhiều sau những năm không gặp, béo và đẹp ra.
– Ta thấy em tiến bộ nhiều - tôi bảo cô.
– Nhờ có năm mươi peso của ông chủ đó. Em đã dùng nó để bắt đầu - cô trả lời - Bây giờ em có thể trả lại ông chủ gấp đôi, bởi vì lạm phát làm đồng tiền không còn giá như khi trước.
– Ta muốn em cho ta một đặc ân kia, Tránsito! - tôi cười và nói. Tôi nhận thấy trước mắt không còn chút bóng dáng nào của cô gái gầy guộc, với những khuỷu tay và đầu gối nhọn hoắt, làm việc tại cái tiệm chứa Cây Đèn Bão Đỏ xưa kia, chỉ trừ có sự thuận tình không mỏi mệt và cái giọng khàn khàn vịt đực. Cô có một cơ thể nhẵn nhụi và làn da đã được kỳ cọ bằng chanh và mật con hamamelis, theo như cô cho biết, đến độ thật mịn màng và trắng như thể làn da của một đứa bé. Móng tay, móng chân cô đều nhuộm đỏ, và quanh rốn cô có săm hình một con rắn uốn tròn, có thể tự động rập rềnh uốn khúc trong khi cô vẫn nằm yên bất động.
Vừa biểu diễn tài nghệ làm cho con rắn chuyển động uốn lượn quanh rốn, cô vừa kể cho tôi nghe về cuộc sống của mình.
– Nếu em còn ở lại tiệm Cây Đèn Bão Đỏ, bây giờ không biết em đã ra sao, ông chủ? Có lẽ em đã rụng hết răng, có lẽ đã trở thành một cô gái già. Trong cái nghề này, con người tàn tạ nhanh gấp, cần phải giữ mình ghê lắm. Vì vậy cho nên em không bao giờ đi làm việc ở ngoài đường phố! Không bao giờ em thích việc đó, bởi nó nguy hiểm lắm! Ở ngoài đường phố, cần phải có một tên anh chị bảo vệ, nếu không thì nguy hiểm hết sức. Vì chẳng có ai kính nể loại người con gái như chúng em. Nhưng tại sao lại phải đem cho một người đàn ông cái kết quả mà mình mất bao nhiêu sức lực khổ cực mới kiếm được? Trong vấn đề này, phụ nữ chúng em thật ngu ngốc. Họ sinh ra để cần thiết như vậy mà. Họ cần có một người đàn ông, để có thể cảm thấy đảm bảo được yên ổn, mà không biết rằng điều đáng sợ duy nhất, chính lại là những người đàn ông ấy. Họ không biết tự quản, họ cần thiết phải hi sinh cho một người nào đó. Những cô gái đĩ là những cô tồi tệ nhất, ông chủ ạ, xin ông tin ở em điều đó. Họ để cả cuộc đời làm việc cho một tên anh chị bảo vệ, vui vẻ để cho nó đánh mình, cảm thấy vinh hạnh khi nhìn thấy hắn ăn mặc đẹp đẽ, với răng vàng, vòng vàng đeo lủng liểng, và khi đã chán họ, nó liền bỏ đi theo một con đĩ khác trẻ hơn; thế nhưng họ vẫn tha thứ cho nó bởi vì nó là “đàn ông”. Không ông chủ ạ, em không như vậy. Không ai cai quản, bảo trợ được em cả, bởi em không điên mà đâm đầu vào nuôi một thằng đàn ông. Em làm việc cho em, vì em, kiếm được bao nhiêu em tiêu xài theo ý thích. Em cũng phải vất vả chật vật lắm chứ, vì được thế này đâu phải dễ, các bà chủ tiệm chứa không thích giao dịch thẳng với bọn chúng em, mà thích bàn bạc làm ăn với những tên ma-cô. Các bà ấy không hề giúp đỡ bọn em, cũng chẳng nể nang gì.
– Nhưng hình như ở đây người ta đánh giá em rất cao, Tránsito. Họ nói với ta rằng em là của quý nhất tiệm.
– Đúng như vậy. Nếu không nhờ có em, cái món kinh doanh này đã đi tiêu sạch rồi, phải, nhờ có em, một người làm việc như một con lừa - cô gái nói - Những cô gái khác bây giờ đã như thể đống giẻ rách, ông chủ ạ. Không như ngày xưa đâu, hiện nay tại đây thường đến những ông già. Cho nên cần phải hiện đại hóa vấn đề này, để thu hút những công nhân viên chức, họ không có công việc gì làm vào lúc giữa trưa; cần phải thu hút thanh niên, sinh viên, học sinh. Cần phải mở rộng cơ sở vật chất, làm cho tiệm trở nên vui vẻ và sạch sẽ. Phải tẩy uế đến tận cùng, tận gốc! Như vậy khách hàng mới tin tưởng và không lo nghĩ đến nỗi sợ phải một bệnh hoa liễu nào đó, phải không ông chủ? Ở đây cũng là một chuồng lợn. Không bao giờ họ tẩy uế cả. Đây này, ông chủ cứ nhấc cái gối lên y như rằng sẽ thấy hiện ra một con rệp. Em đã nói điều này với bà chủ, nhưng họ chưa chú ý nghe em. Họ chưa có con mắt nhìn nghề nghiệp.
– Thế em thì có chứ?
– Rõ ràng rồi, thưa ông chủ! Em đã nghĩ ra đến hàng triệu điều để cải thiện tiệm Christopher Columbus. Em đã đặt tất cả cảm tình vào cho nghề này. Em không phải hạng người chuyên chỉ đi ta thán và đổ lỗi cho số phận chẳng may, khi mà họ gặp điều chẳng lành, làm ăn chẳng ra gì. Ông chủ không thấy em đã có tiến bộ đó sao? Bây giờ em đã là một cô gái quý báu nhất. Nếu em cai quản công việc, em có thể sẽ làm cho nó thành một tiệm chứa tốt đẹp nhất trong nước, em thề với ông chủ như vậy.
Tôi rất khoái hoạt, thích thú. Tôi đã biết đánh giá đúng cô, bởi vì bao lần đã nhìn thấy cái tham vọng của mình thể hiện trong gương mỗi buổi sáng cạo râu, cuối cùng tôi đi đến chỗ đã có thể nhận ra được nó trên gương mặt của những người khác.
– Ta vừa nẩy ra một ý nghĩ tuyệt vời, Tránsito ạ? Tại sao em không xây dựng một tiệm kinh doanh việc này của chính em? Ta sẽ giúp em tiền vốn - bị mê hoặc bởi cái ý nghĩa có thể phát triển mở rộng thêm lời lãi theo hướng kinh doanh đó, như một kẻ say rượu tôi hứa tặng như vậy.
– Không, xin cám ơn ông chủ - Tránsito vừa trả lời vừa vuốt ve con rắn săm quanh rốn bằng móng tay quét mầu bóng đỏ - Em không ưng việc bỏ một nhà tư sản này để lại rơi vào tay một nhà tư sản khác. Việc phải làm là xây dựng một hợp tác xã và tống khứ cái bà chủ tiệm này đi. Ông chủ không nghe nói đến điều đó ư? Hãy cẩn thận đó, nghe không ông chủ, hãy nhìn xem nếu thấy tá điền của ông lập một hợp tác xã tại nông thôn, thế là ông chủ sẽ đi đứt. Điều mà em mong có là một hợp tác xã của những cô gái chơi. Có thể là gái chơi, hoặc đĩ đực nữa, để mở rộng kinh doanh. Chúng em sẽ đặt tất cả vào đấy, từ vốn liếng đến công việc. Việc gì mà em cần thiết đến một ông chủ vào đó nữa?
Chúng tôi yêu nhau một cách phũ phàng và man rợ mà tôi hầu như đã quên sau bao nhiêu lâu lênh đênh trên chiếc thuyền buồm giữa làn nước lụa mầu xanh hiền hòa. Trong đống lộn xộn chăn gối, ôm chặt lấy nhau cho đến độ then nút của ý muốn, quằn quại quấn rít vào nhau cho đến sắp chết, tôi lại cảm thấy như hồi mình hai mươi tuổi, thỏa mãn được ôm trong tay cô gái táo tợn, chắc nịch đã không rời như chỉ vụn khi phủ lên trên một con ngựa cái thật khỏe mà tôi cưỡi một cách không thương xót, chẳng hề thấy bàn tay mình quá nặng nề, đôi chân mình quá thô bạo, giọng nói mình quá cứng rắn, bộ râu mình quá cứng ráp, và có thể chịu đựng hàng tràng những tiếng thì thào tục tĩu bên tai, và chẳng cần thiết phải ôm ấp âu yếm hoặc tán tỉnh bằng những lời lừa lọc. Sau đó mệt và sung sướng, tôi nằm nghỉ một lát bên cạnh cô, ngắm nhìn đường cong chắc nịch của hông cô và con rắn trên bụng cô run rẩy.
– Chúng mình sẽ gặp lại nhau, Tránsito - vừa đưa tiền thưởng cho cô tôi vừa nói.
– Em cũng đã nói như thế từ trước kia với ông chủ, ông còn nhớ chăng? - cô trả lời cùng với một cử động uốn khúc cuối cùng của con rắn trên bụng.
Thực ra, tôi không có ý định gặp lại cô nữa, nói đúng hơn là tôi muốn quên hẳn cô.
Tôi sẽ chẳng kể cái đoạn này ra làm gì, nếu như Tránsito không đóng một vai trò thật quan trọng đối với tôi nhiều năm sau đấy, bởi vì, như tôi đã nói, tôi không phải loại người thích đĩ điếm. Nhưng cả cuốn truyện này sẽ không thể được viết ra, nếu không có cô tới can thiệp để cứu thoát chúng tôi và, một mặt khác, cứu cho cả những kỷ niệm của chúng tôi nữa.
Ít ngày sau đó, khi bác sĩ Cuevas chuẩn bị tinh thần để lại mổ bụng Clara ra thì Severo và Nívea del Valle bị chết, để lại một số con và bốn mươi bảy đứa cháu sống trên cõi đời. Clara đã biết việc đó trước khi mọi người biết, qua một cơn mơ, nhưng cô chỉ nói riêng với Férula; người chị dâu cô cố sức làm cho cô bình tĩnh, giải thích cho cô rằng thời kỳ thai nghén thường sinh ra trạng thái hoảng hốt, hay có những giấc mộng kỳ quái không lành. Férula tăng cường chăm sóc em dâu, chà sát người cô bằng dầu hạnh nhân có pha đường để chống những vết nhăn trên da bụng, bôi mật ong vào hai núm vú để khỏi bị nứt, cho cô ăn bột vỏ trứng để cho có nhiều sữa tốt và chắc răng, và cầu kinh Bethlehem cho việc sinh nở được an toàn tốt đẹp. Hai ngày sau cơn mộng của Clara, Esteban Trueba về nhà sớm hơn thường lệ, mặt tái xanh và ủ rũ, nắm chặt lấy cánh tay Férula lôi vào trong phòng thư viện, đóng cửa lại.
– Cha mẹ vợ em vừa chết trong một tai nạn - anh nói gọn với chị - Em không muốn Clara biết chuyện này trước khi sinh nở. Cần phải tổ chức một bức thành kiểm duyệt xung quanh nhà em, không báo chí, không phát thanh, không khách khứa thăm viếng, không gì hết thảy! Chị hãy canh chừng, không cho bọn tôi tớ nói chuyện với nhà em.
Nhưng những dự định tốt đẹp đó của anh tan vỡ ngay khi chạm phải những điềm báo trước mà Clara đã nhận thấy. Đêm đó cô lại mơ thấy cha mẹ bước đi trên cánh đồng trồng hành, và Nívea bước đi nhưng không có đầu, ấy thế là cô biết việc gì đã xảy ra, không cần thiết đến báo chí hoặc đài phát thanh. Cô tỉnh dậy hốt hoảng và yêu cầu Férula giúp cô mặc quần áo, cùng đi với cô để tìm đầu của mẹ. Férula chạy đến chỗ Esteban Trueba và anh lập tức gọi bác sĩ Cuevas; ông bác sĩ, mặc cho có thể nguy hiểm đến cái thai trong bụng, cho cô uống một lọ thuốc cho người điên, nhằm làm cho cô phải ngủ liền trong hai ngày, nhưng lọ thuốc đó không có một chút công hiệu đối với Clara.
Hai ông bà del Valle chết y như Clara đã nằm mơ và đúng như lời đùa mà Nívea vẫn thường nói trước rằng hai vợ chồng sẽ chết.
– Một ngày nào đó chúng tôi sẽ chết trong cái xe địa ngục này thôi - vừa nói Nívea vừa đưa tay chỉ chiếc xe ô-tô cổ lỗ của chồng bà.
Severo del Valle vẫn có cái mê thích những phát minh tiên tiến từ khi còn nhỏ. Chiếc xe hơi cũng vậy, không được loại trừ khỏi cái mê thích đó. Trong thời kỳ mà mọi người đều chuyển dịch bằng đôi chân, hoặc trên xe ngựa, hoặc trên xe đạp, thì ông đã mua chiếc xe đầu tiên nhập vào trong nước và được trưng bầy trong tủ kính ở giữa khu trung tâm thành phố như một thứ kỳ quan. Đó là một thứ máy thần kỳ có thể di chuyển với tốc độ từ từ là mười lăm, có khi đến hai mươi kilômét một giờ, trước sự ngạc nhiên của những người đi bộ và những lời chửi bới của những người bị nó vung bùn đất làm vấy bẩn khi đi ngang qua. Mới đầu chiếc xe bị người ta đấu chẳng khác một mối nguy công cộng. Nhiều nhà khoa học nổi tiếng tuyên bố trên báo chí rằng cơ thể con người sinh ra không phải để chịu đựng nổi một tốc độ di chuyển hai mươi kilômét một giờ, và cái chất mới mà người ta kêu là ét-săng có thể bốc cháy và gây nên một phản ứng giây chuyền, có khả năng dẫn tới sự thiêu hủy toàn bộ thành phố. Đến cả Nhà Thờ cũng lao vào cuộc đấu đó. Cha đạo Restrepo, người vẫn theo dõi dòm dỏ gia đình Severo del Valle từ sau cơn phẫn nộ của ông đối với Clara trong buổi lễ misa ngày Thứ Năm Thần Thánh,ông trở nên người bảo vệ những phong tục tốt đẹp, và mọi người lại nghe thấy cái giọng miền Galicia của ông chống lại những “amicis rerum novarum,”, những bạn bè của mọi thứ tân thời, như kiểu những thứ máy móc của quỷ satan mà ông đem so sánh với chiếc xe hỏa ngục trong đó nhà tiên tri Elias đã mất tích trên con đường đi tới Cõi Trời. Nhưng Severo không để ý đến sự phản đối rùm beng đó, và chỉ sau ông một ít lâu, một số các vị quý tộc theo gương ông, rồi dần dà đến độ những chiếc xe ô tô không còn là chuyện tân kỳ nữa. Ông đã dùng chiếc xe đó mười năm, nhất định không chịu thay đổi lấy một chiếc khác kiểu mới hơn, khi đã tràn đầy thành phố những chiếc xe kiểu mới hơn, công dụng tốt hơn và đảm bảo an toàn hơn, với cái lý do y như của vợ ông, nói rằng không muốn bỏ những chiếc xe ngựa kéo, để có thể được yên ổn chết trong tuổi già. Chiếc xe Sunbeam có rèm đăng ten và hai bình hoa thủy tinh ở hai bên thành xe luôn được Nívea cắm hoa tươi, toàn thân được ghép bằng gỗ mài nhẵn bóng và bọc bằng da thuộc Nga, và tất cả những thứ phụ tùng đều bằng đồng đánh sáng loáng như vàng. Bất chấp cái nguồn gốc Anh của nó, người ta đặt cho xe cái tên là Covadonga, một cái tên rất địa phương. Chiếc xe khá hoàn hảo, thật thế, ngoài việc phanh của nó chưa bao giờ hoạt động tốt. Severo rất kiêu hãnh về sự tài giỏi trong lĩnh vực máy móc của mình. Ông đã tháo nó ra mấy lần để sửa chữa, và từng ấy lần đều phải nhờ đến ông Mọc-Sừng-hạng-gộ, một người thợ máy người Ý, giỏi nhất trong nước lúc bấy giờ. Cái tên hiệu trứ danh đó được đặt ra sau một tấn thảm kịch làm cho cả cuộc đời ông đen sẫm lại. Người ta kể rằng vợ ông, sau khi đã chán việc cắm sừng vào đầu ông mà ông không hề biết, đã bỏ ông mà đi trong một đêm dông bão, nhưng trước khi ra đi bà ta đã buộc mấy chiếc sừng bò, xin được tại lò sát sinh, vào đầu mấy cọc rào ở cửa xưởng máy của ông chồng. Ngày hôm sau, khi người Ý này đến xưởng làm việc đã thấy một đám trẻ và người hàng xóm đang riễu cợt nhìn ông ta. Tuy vậy tấn thảm kịch đó cũng không làm giảm chút nào cái uy tín nghề nghiệp của ông, nhưng chính ông cũng không thể chạy chữa cho bộ phận phanh xe của chiếc Covadonga. Severo đành chọn cách đem theo một tảng đá lớn trong xe, và khi đỗ ở nơi dốc, một người ngồi trên xe giữ chặt phanh chân, còn một người nhanh chóng xuống xe, ôm tảng đá đặt trước bánh xe để chặn. Nói chung phương pháp đó cũng có kết quả tốt, nhưng ngày Chủ nhật bất hạnh đó, đã được chỉ ra trong số phận như ngày cuối cùng của cuộc đời họ, nên phương pháp đó không có kết quả như trước. Hai vợ chồng Severo del Valle đi chơi ra tận ngoại ô thành phố cũng như mọi ngày chủ nhật trời nắng đẹp. Tự dưng bộ phận phanh xe hoàn toàn không hoạt động được và trước khi Nívea bước được xuống đất để chẹn hòn đá tảng trước bánh xe, và trước cả khi Severo giữ được chân phanh, chiếc xe cứ lăn bánh theo con đường dốc đổ xuống. Severo cố sức để lái trệch đi và hãm nó lại, nhưng ma quỉ đã ám ảnh chiếc xe hay sao khiến nó chạy như bay không thể nào kiềm chế được, cho tới khi húc vào một chiếc xe chở sắt xây dựng và bị vỡ tung. Một trong những tấm kính chắn mưa ở trước xe bay qua cắt đứt đầu Nívea một cách ngọt sớt. Chiếc đầu của người phụ nữ văng đi mất và mặc dù cảnh sát đi lùng xục, lính gác rừng đi kiếm, và những người nông dân lân cận đã tình nguyện mang chó săn ra dò tìm suốt hai ngày liền mà vẫn không thấy. Đến ngày thứ ba, hai xác chết bắt đầu có mùi, người ta đành chôn cất dù thiếu một cái đầu, trong một đám ma linh đình, cả bộ lạc gia đình del Valle và một số đông không thể tưởng được, gồm bè bạn và người quen biết, thêm nữa là các đoàn đại biểu phụ nữ đến để vĩnh biệt Nívea, người phụ nữ được coi như người phụ nữ đấu tranh hạng nhất trong đất nước lúc bấy giờ cho quyền lợi của phụ nữ, con người mà những kẻ thù tư tưởng của bà cho rằng nếu bà đã điên đầu trong khi còn sống, chẳng có lý gì bà giữ được nguyên đầu khi bà chết. Clara không tham dự đưa tang, những người hầu hạ bao quanh chăm sóc cô trong căn buồng, có Férula đảm nhiệm việc canh giữ và bác sĩ Cuevas tiêm thuốc an thần. Cô không hé ra một lời bình luận tỏ ra rằng cô đã biết câu chuyện kinh khủng về cái đầu đã mất, bởi lòng kính nể của cô đối với những người đã muốn cất dấu nỗi đau đớn cuối cùng đó cho cô, nhưng khi đám tang đã kết thúc và cuộc sống dường như đã trở lại bình thường, Clara liền thuyết phục Férula đi theo cô để tìm chiếc đầu thất lạc, và cô chị chồng dù có muốn tống vào cho em dâu thêm lọ thuốc và viên thuốc an thần nữa cũng đều vô hiệu, không thể nào cưỡng nổi ý định đi tìm của cô em dâu. Cuối cùng bị thuyết phục, Férula không thể nào tiếp tục cãi rằng cái đầu chỉ là câu chuyện mộng mị, nên tốt nhất là giúp đỡ em dâu trong những dự định của cô trước khi cô mất hết cả lòng tin vào mình