← Quay lại trang sách

Chương 3 -CLARA, NGƯỜI SÁNG SUỐT

Khi Clara đã quyết định chả cần thiết phải nói làm gì và nhất định tự giữ mình trong trạng thái câm lặng, cô vừa đúng mười tuổi. Bác sĩ của gia đình, ông Cuevas béo mập, đáng mến, cố sức chạy chữa cho cô bé bằng những viên thuốc do ông sáng chế, cộng với các loại vitamin sắc uống, và nạo cuống họng bằng mật ong trộn với muối borax; nhưng những thứ thuốc đó của ông chẳng mang lại kết quả khả quan. Ông bác sĩ nhận thấy chẳng những thuốc của ông không công hiệu, mà sự có mặt của ông lại gây ra cho cô bé bệnh tật đó một trạng thái kinh sợ lạ lùng. Cứ trông thấy ông, Clara lại kêu lên như một con vật bị dồn đuổi, đến độ ông bác sĩ phải từ bỏ việc chạy chữa, và khuyên ông Severo và bà Nívea nên đưa cô bé đến khám chữa tại nhà một người Rumania tên gọi Rostipov lúc đó đang nổi danh và nhiều tài. Rostipov sinh sống bằng nghề làm những trò ảo thuật tại các nhà hát tạp kỹ và đã thực hiện được một chiến tích không thể tưởng được: ông đã đi trên một sợi dây căng từ vòm nóc nhà Galician Brotherhood sang đến tận cuối quảng trường, trong tay chỉ có một chiếc sào cầm ngang để giữ thăng bằng. Mặc dù có đôi chút phù phiếm trong những việc làm, Rostipov cũng đã gây nên một chấn động trong giới khoa học bởi đã chữa được lành bệnh sung huyết bằng những chiếc đũa nam châm của ông và những buổi điều trị bằng thôi miên. Nívea dẫn Clara đến phòng khám của ông Rostipov lập tạm trong khách sạn mà ông trú ngụ. Rostipov quan sát, nghiên cứu, khám nghiệm con bệnh thật kỹ lưỡng, rồi cuối cùng ông tuyên bố trường hợp này không thuộc phạm vi chạy chữa của ông, bởi vì cô bé không nói chẳng qua cô không thích nói, chứ không phải do không thể nói. Tuy vậy, trước lời khẩn khoản của hai vị cha mẹ bệnh nhân, ông thầy người Rumania cũng chế một số thuốc viên như kẹo ngọt, nhuộm màu tím để cho cô bé uống, và cho biết rằng đó là thứ thuốc chữa bệnh câm điếc của người dân vùng Siberia. Nhưng loại thuốc tự kỷ ám thị đó thật không có tác động trong trường hợp này và những viên kẹo thuốc đó bị con Barrabás ngốn sạch trong một buổi người ta vô ý không cất giữ cẩn thận, con vật ăn hết hộp thuốc nhưng không thấy có phản ứng gì. Severo và Nívea bèn thử chữa cho con gái bằng phương pháp truyền thống của gia đình, nghĩa là dọa nạt, cầu xin, rồi đến cả cách không cho ăn uống xem cái đói có bắt buộc cô bé phải mở miệng để đòi ăn, nhưng tất cả mọi cách đó đều không có kết quả.

Vú Em chợt nẩy ra ý nghĩ có lẽ bị sợ hãi cô bé sẽ bật nói, nên Vú giành suốt chín năm trời sáng tạo ra bao nhiêu phương pháp tuyệt vọng để dọa Clara, và công lao của Vú chỉ đạt được mỗi một việc miễn trừ cho cô bé được khỏi mọi điều bất ngờ, dọa nạt. Chỉ sau một thời gian bị dọa nạt, Clara, đã không còn thấy sợ hãi bất cứ cái gì, không hoảng hốt trước những bóng dáng ma quái xanh sao tái mét, đói khát lởn vởn hiện lên, không run sợ khi nghe thấy tiếng đập cánh của những con dơi hút máu người ngay bên cửa sổ. Vú Em mặc giả làm tên hải tặc không đầu, làm tên Đao Phủ của Tháp Nhà Thờ London, làm ma chó sói và thần mọc sừng, theo đúng như sự tưởng tượng của dân gian thời kỳ đó, và dựa theo một vài hình ảnh rút ra từ một số chuyện rùng rợn đăng báo mà Vú Em mua dùng vào mục đích dọa Clara. Vú có thói quen bí mật nấp trong dãy hành lang để từ bóng tối xồ ra vồ cô bé, hoặc gầm gừ sau cánh cửa, hoặc bỏ những con sâu bò nghều ngào trên giường cô bé. Có đôi lần Clara không chịu được nữa, nằm lăn ra sàn gạch, chân tay đập vẫy và lên tiếng la thét, nhưng những tiếng la thét đó không hề mang một âm thanh ngôn ngữ mà người ta có thể hiểu được; hoặc có lần cô không la thét mà chỉ ghi lên tấm bảng con bao giờ cô cũng mang theo, những lời chửi mắng thậm tệ nhất với Vú Em; người phụ nữ tội nghiệp đó không còn cách nào khác đành bước vào trong bếp để rấm rứt khóc vì cô bé không hiểu được mình.

– Ta làm thế để mong con khỏi thôi, cô tiên của ta ạ. - Vú Em rấm rứt khóc, người cuộn tròn trong tấm chăn có vấy máu và mặt đeo một tấm mặt nạ bằng nút chai cháy sém.

Bà Nívea phải ra lệnh cấm Vú không được tiếp tục dọa nạt Clara nữa. Bà nhận thấy trạng thái hỗn loạn tinh thần có thể lại làm cho mãnh lực tinh thần của con gái bà tăng lên và khiến cho cô cảm thấy ồn ào lộn xộn giữa những linh hồn ma quái mà cô thường tưởng tượng bao quanh mình. Thêm vào đó là việc con Barrabás, bị những cuộc diễu hành của những nhân vật ma quái do Vú Em đóng giả làm cho thần kinh hỗn loạn, khiến cho nó đâm ra đi tiểu ngồi như một con chó cái, và luôn luôn nghiến răng ken két... Mặc dù bị cấm, Vú Em vẫn lợi dụng mọi sơ hở của bà mẹ để tiếp tục những mưu toan chữa bằng những phương pháp cũ căn bệnh câm lỳ của Clara.

Ông bà Severo del Valle quyết định cho Clara bỏ trường trung học của các nữ tu sĩ, nơi mà tất cả con gái nhà Valle đều học tập cho tới khi tốt nghiệp, và mời giáo sư về để dạy cho cô bé tại nhà. Severo tìm được một cô giáo mời từ nước Anh sang, Miss Agatha, một cô gái người cao, toàn thân đều một mầu hổ phách, đôi tay to như tay thợ nề; nhưng cô gái không chịu đựng được khí hậu trong vùng, không chịu được món ăn cay vì tiêu ớt, và sự tự di chuyển trên bàn ăn của chiếc bình muối nhỏ, nên cô phải quay trở về Liverpool. Cô giáo thứ hai là một cô người Thụy Sĩ, số phận cũng không khác cô giáo trước; sau đến cô giáo người Pháp, do có liên hệ trực tiếp của gia đình với sứ quán Pháp nên mới mời tới được; đó là một cô gái thật hồng hào; tròn trĩnh và ngọt ngào; cô giáo đã có thai sau mấy tháng tới dạy học, và khi tìm hiểu căn nguyên vụ này, mọi người mới hiểu người cha của cái thai trong bụng cô là Luis, anh trai của Clara. Severo liền cho hai người lấy nhau ngay không cần lấy ý kiến của họ, và trái với mọi điều dự đoán của Nívea và mấy bè bạn, đôi vợ chồng trẻ này sống với nhau rất hạnh phúc. Biết được những kinh nghiệm đó rồi, Nívea cố thuyết phục để ông chồng thấy việc học tiếng nước ngoài không phải là điều quan trọng đối với một đứa con gái có cái biệt tài về thần giao cách cảm, mà tốt hơn hết nên cho con gái học dương cầm và những món thêu thùa, nữ công gia chánh.

Cô bé Clara đọc rất nhiều. Sự say mê đọc sách của cô không hề có một chút kỳ thị đối với bất cứ loại sách vở gì, và cô đã đọc say sưa như nhau tất cả những cuốn sách về ảo thuật trong những chiếc rương lớn của cậu Marcos để lại cũng như những tài liệu của Đảng Tự Do mà cha cô bầy biện trong văn phòng của ông. Cô ghi đầy hàng quyển vở những sự kiện xẩy ra trong thời kỳ đó, và chính cũng nhờ có việc ghi chép ấy mà những sự kiện xưa đã không mất đi trong màn sương mù của quên lãng, và ngày nay tôi đã có thể sử dụng để phục hồi lại những hồi ức của cô.

Clara rất sáng suốt, hiểu được ý nghĩa của những giấc mơ. Biệt tài cô có một cách tự nhiên, chẳng cần nhờ đến những khổ công nghiên cứu học tập về đoán mộng như cậu Marcos đã phải gắng sức bỏ ra mà hiệu quả lại ít chính xác hơn những lời đoán của cô nhiều. Người đầu tiên phát hiện ra biệt tài đó là Honorio, bác làm vườn thuê cho gia đình; một hôm bác nằm mơ thấy một lũ rắn bò toài bên chân bác, bác đã lấy chân dẵm để tống khứ chúng đi, và bác đã dẵm được mười chín con. Bác vừa tỉa sén những cây hồng vừa kể điều đó cho Clara nghe, cốt để cho cô bé vui, vì bác rất thương hại cô bé bị câm. Clara lôi trong túi chiếc tạp dề ra chiếc bảng con và viết những lời đoán giấc mơ của Honorio: bác sẽ có nhiều tiền, nhưng tiền sẽ ở với bác ít lâu thôi, bác được số tiền đó không vất vả gì, hãy đi đánh số, đặt vào ô số mười chín. Honorio không biết đọc, nhưng Nívea nửa cười nửa trêu đùa, đọc cho bác nghe nội dung lời giải. Bác làm vườn làm theo như Clara chỉ dẫn và bác đã được tám mươi peso trong một bàn quay số bí mật thiết lập bên trong một cửa hiệu bán than củi. Bác dùng số tiền được cuộc đó mua một bộ quần áo mới, uống một bữa say mèm cùng với mấy ông bạn nhậu và mua một con búp bê bằng sứ tặng cho Clara. Từ hôm đó trở đi, sau khi mọi người biết được câu chuyện của Honorio, cô bé thật vất vả trong công việc giải, vụng trộm sau lưng mẹ, những giấc mơ mà người ta đến hỏi cô: nằm mơ thấy bay trên một ngọn tháp với đôi cánh của thiên nga là nghĩa ra sao, thấy đi lênh đênh trên một chiếc thuyền và nghe thấy một người cá hát bằng một giọng của một quả phụ là nghĩa thế nào; thấy hai anh em sinh đôi dính liền lưng nhau, khi sinh ra trong tay mỗi đứa trẻ cầm một thanh kiếm là thế nào; và Clara ghi ngay lập tức trên chiếc bảng con của cô không một phút lưỡng lự: cái tháp tức là cái chết, người bay trên tháp tức là thoát được trong một tai nạn; còn người bị đắm thuyền và nghe tiếng hát của nàng tiên cá sẽ mất công việc và đi vào cảnh thiếu thốn, nhưng sau lại được một người phụ nữ giúp đỡ và công việc làm ăn sẽ khá; còn hai anh em sinh đôi là đôi vợ chồng bị buộc trong một số phận giống nhau, làm thương tổn lẫn nhau bằng những nhát dao, nhát kiếm.

Clara không phải chỉ biết riêng có việc đoán mộng. Cô bé còn có thể đoán trước được những gì sắp xẩy ra, và đoán được ý nghĩ của người xung quanh cô, cái tài năng mà cô giữ được trong suốt cuộc đời, và cứ mỗi năm một tăng tiến sáng suốt hơn. Cô đã báo trước cái chết của người cha đỡ đầu, Don Salomón Valdes, người môi giới của thị trường chứng khoán, ông này tưởng đã bị thua thiệt mất hết tài sản, nên treo cổ dưới chùm đèn lưới nhện trong căn phòng làm việc sang trọng của mình; theo lời đoán của Clara, người ta thấy ông dáng vẻ như một con cừu câm lặng, hệt như cái dáng điệu cô Clara đã tả trong tấm bảng con. Cô đã báo trước bệnh sa đì của ông Severo, báo trước những cuộc động đất và một số biến động thiên nhiên trong địa phương, báo trước trận mưa tuyết duy nhất tại thủ đô, đã làm chết nhiều người nghèo trong các khu dân cư nghèo khổ và phá hủy nhiều vườn hồng trong những trang viên của bọn nhà giàu; đã báo trước tên tuổi của kẻ đã ám hại các cô nữ sinh trong trường trung học trước khi cảnh sát phát hiện ra tử thi thứ hai rất nhiều ngày; nhưng không một ai tin cô về những điều đó, và Severo không muốn con mình đoán định cái gì dính líu đến những vụ án hình sự, không liên quan gì đến gia đình mình. Ngay từ lần gặp đầu tiên Clara đã nhận thấy Getulio Armando, người bạn buôn, sẽ lừa gạt cha cô trong việc kinh doanh xuất nhập cừu nước Australia, vì cô đã nhận thấy điều đó hiện rõ trên thần sắc của con người lừa đảo. Cô viết cho Severo báo cho cha cô biết điều đó, nhưng ông bố, không để ý đến ý kiến của con gái út, cho tới khi ông nhớ tới lời báo trước đó của con gái thì ông đã bị lừa mất nửa tài sản, và ông bạn buôn kia đang trên đường du ngoạn sang vùng Caribe, lúc đó trở nên một nhà buôn giầu sụ, có cả một cấm phòng đầy cung nữ để dâm loạn, và một chiếc thuyền biển riêng để tắm nắng ngoài khơi.

Tài năng chuyển dịch một số đồ đạc nhỏ không cần phải động tay vào chúng của Clara không mất đi khi cô bắt đầu thấy kinh như thể Vú Em đã nói mà trái lại hình như nó mỗi ngày một phát triển hơn, đến độ cô có thể làm cho những chiếc phím của cây dương cầm vẫn đóng nắp phải đụng đậy bật lên thành tiếng; dĩ nhiên không bao giờ cô có thể làm cho chiếc dương cầm chuyển động theo như mãnh lực tinh thần cô vẫn muốn làm như vậy. Phần lớn thì giờ và nghị lực đặc biệt đó cô dùng vào những trò chơi kỳ lạ kiểu như vậy. Cô phát triển tài năng đoán định của mình một cách đáng kinh ngạc trong việc đoán quân bài, và dùng những trò chơi quái lạ đó để giải trí cho mấy anh chị cô. Cha cô cấm không cho cô được đoán tương lai trong những quân bài và không được gọi hồn ma quái để làm cho mọi người trong gia đình phải bực dọc và khiến cho bọn người làm trong nhà phải khiếp hãi; nhưng Nívea hiểu rằng càng bị hạn chế nhiều và càng phải chịu đựng nhiều dọa dẫm cô gái út của bà càng trở nên lơ đãng, mơ mộng nhiều thêm lên mà thôi, cho nên bà quyết định để cho cô được tự do yên ổn với những trò chơi đồng bóng, bói toán và cái câm lặng như hang sâu của cô, và bà hết sức yêu chiều cô vô điều kiện và chấp nhận cho cô muốn sao làm vậy. Clara lớn lên như một cây hoang dại, thản nhiên trước những lời khuyên bảo ân cần của ông bác sĩ Cuevas, về cái phương pháp tân kỳ tắm nước lạnh đã mang từ châu Âu sang và truyền những dòng điện nhẹ vào người cô để chữa bệnh điên.

Barrabás đi theo cô gái bé suốt ngày đêm, trừ những thời kỳ phát dục bình thường của nó: con chó bao giờ cũng quanh quẩn bên cô bé như một chiếc bóng khổng lồ và cũng thật lặng lẽ y như cô gái chủ; khi cô ngồi, nó nằm soãi dưới chân, và đêm đêm nó ngủ dưới sàn bên giường cô bé, cất tiếng ngáy to như tiếng chuyển động của một đầu máy xe lửa. Dần dà nó tới chỗ hiểu thật sâu sắc cô chủ bé của nó, nên khi cô đi ra khỏi buồng, bước đi những bước mộng du, con chó cũng đi theo sau cô khắp căn nhà, dáng điệu in hệt dáng mộng du của chủ. Những đêm trăng tròn, cô gái và con chó thường dạo quanh dãy hành lang như thể hai hồn ma bay lơ lửng trong ánh trăng tái nhạt. Theo thời gian con chó lớn dần lên và theo thời gian, tính đãng trí của nó cũng tăng lên rõ rệt. Không bao giờ nó hiểu được tính chất trong veo của thủy tinh, cho nên trong những giây phút cao hứng nó thường nhẩy lên cửa sổ với cái ý định vô tội bắt một con ruồi qua khuôn kính, làm kính vỡ loảng soảng, còn nó thì dáng vẻ ngạc nhiên, buồn bã. Thời kỳ đó thủy tinh phải mua từ bên Pháp đem sang, và cái việc con chó cứ lao vào kính để phá vỡ chất trong veo quý hiếm đó trở nên một vấn đề, khiến Clara phải đưa ra một ý kiến về một phương pháp thật cực đoan là vẽ những con mèo lên trên cửa kính khi đã trở thành một con chó lớn, Barrabás thôi không gặm chân đàn dương cầm nữa và bản năng sinh sản của nó chỉ bộc lộ rõ rệt khi nó ngửi thấy có một con chó cái đương thời kỳ động hớn ở gần cận. Trong những trường hợp đó, chẳng có xích nào, cửa nào có thể ngăn giữ được nó; nó lao mình ra ngoài đường phố, vượt qua tất cả mọi trở lực mà người ta giăng ra trước mặt rồi mất hút hai ba ngày liền. Bao giờ nó cũng quay trở về nhà, kéo theo sau một con chó cái khốn khổ đi giật lùi bằng hai chân trước, cả thân hình treo lơ lửng trên không ở phía đuôi con Barrabás bằng cái bộ phận đực tính đồ sộ của nó. Trong nhà phải lôi tất cả bọn trẻ vào ẩn kín trong buồng để không cho chúng nhìn thấy cái cảnh kinh khủng mà bác làm vườn tưới nước lạnh vào hai con vật, và sau nhiều cái đạp và những trò thật nhục nhã, con Barrabás rứt được ra khỏi cô chó cái, để cho cô chó nằm hấp hối trên sân, tại đó Severo phải bồi cho nó một viên đạn làm phúc cho chết hẳn.

Thời niên thiếu của Clara nhẹ nhàng trôi trong ngôi nhà có ba nếp vườn của cha mẹ, được anh chị chiều chuộng và được ông Severo yêu quý hơn cả trong số mấy anh chị em, được Nívea và Vú Em xen kẽ chăm chút cho bằng những trò dọa nạt kỳ dị giả dạng quái ma, khi thì những săn sóc thật âu yếm nhất. Hầu hết các anh, chị cô đều đã lấy vợ lấy chồng, hoặc đi xa, người thì đi du lịch, người thì đi làm ở các tỉnh, và ngôi nhà lớn, nơi cư trú cho một gia đình đông con, bây giờ trở nên hầu như vắng vẻ trống rỗng, nhiều phòng luôn luôn đóng cửa. Clara dùng thời gian những vị gia sư cho nghỉ vào việc đọc sách, di chuyển những vật dụng trong nhà mà không cần phải đụng bàn tay tới, hoặc dắt con Barrabás đi dạo, tiến hành những trò chơi đoán trước, và học tập thêu đan, thứ nghệ thuật nội trợ duy nhất mà cô đã có thể học thuần thục. Từ cái hôm thứ Năm thần thánh mà đức cha Restrepo kết tội cô bị ma quỷ ám, lời nguyền đó như một cái bóng ác phủ trên đầu cô gái mà chỉ có tình yêu của cha mẹ cô và sự thận trọng của các anh chị cô mới có thể khống chế được; nhưng tiếng đồn về cái biệt tài đoán trước kỳ lạ của cô cứ lan rộng trong những tiếng rì rầm của các bà trong những buổi dạ hội luận bàn văn hóa. Nívea nhận thấy cô gái út Clara của bà không được ai mời mọc, đón rước, kể cả những anh chàng anh em họ của cô bé cũng không đếm xỉa đến cô. Bà bèn trút tất cả tình yêu của mình cho cô để bù vào chỗ thiếu bạn bè của con gái; sự chăm sóc yêu thương ấy của bà có kết quả tốt, Clara vui vẻ lớn lên, và những năm sau đó, cô đã nhớ đến thời kỳ niên thiếu đó như một thời kỳ sáng lạn trong cuộc đời, mặc dầu đó là thời kỳ cô đơn và câm lặng. Cô nhớ mãi cho đến hết cuộc đời những buổi chiều sống bên cạnh mẹ trong gian phòng khâu may nho nhỏ, tại đó Nívea may quần áo cho những người nghèo và kể cho con gái nghe lịch sử và những câu chuyện vui của gia đình, họ hàng. Bà chỉ cho Clara xem những bộ ảnh treo trên tường và kể cho cô nghe về quá khứ.

– Con trông cái ông thật nghiêm nghị, với chòm râu cướp biển kia, thấy không? Đó là ông chú Mateo, đã từng đến tận nước Brazil để buôn bán ngọc thạch, bị một cô gái lai nồng nàn như lửa làm cho mê mệt đến hỏng cả mắt. Ông bị rụng hết tóc, bong hết móng tay và sộc sệch lung lay cả hàm răng. Ông phải tìm đến một thầy phù thủy dòng voodoo, một người da đen lai, người đó cho ông một lá bùa, khiến cho hàm răng ông chắc lại, móng tay lại mọc đủ và tóc cũng vậy lại mọc dầy. Đấy, ông đấy, con gái mẹ nhìn xem, ông còn nhiều tóc hơn cả một người India; ông là người hói tóc duy nhất trên đời, đã có tóc mọc lại để phủ đầy chỗ hói.

Clara mỉm cười không nói một lời, và Nívea lại tiếp tục nói, vì bà đã quen với sự im lặng của cô con út. Thêm nữa bà có hy vọng cứ kể thật nhiều chuyện để đưa thật nhiều ý nghĩ vào đầu cô óc cô, sớm muộn rồi cô gái sẽ phải đưa ra một câu hỏi, và sẽ lấy lại được giọng nói.

– Và ông này - bà nói tiếp, - là chú Juan. Mẹ yêu quý chú vô cùng. Một lần chú phát ra một tiếng trung tiện, và cái đó đã trở thành tội chết của chú, một nỗi đại bất hạnh cho mọi người. Chuyện đó xảy ra trong một bữa ăn trưa tại đồn điền. Tất cả bọn chị em gái họ của chú, trong đó có mẹ, trong một ngày thơm ngát mùa xuân, đều mặc quần áo cờrếp mỏng và đội mũ có đính hoa và tua lụa, còn bọn anh em trai đều diện quần áo ngày chủ nhật. Chú Juan cởi chiếc áo ngoài mầu trắng, giờ đây hình như mẹ vẫn còn đương trông thấy chú! Chú sắn tay áo sơ-mi và đánh đu người lên một cành cây, định dùng những chiến công nhào lộn của mình để khêu gợi lòng kính phục của Constanza Andrade, lúc đó là Hoa Hậu của Mùa Hái nho, người mà ngay từ lần gặp ban đầu chú đã yêu mê mệt đến mất hết cả nghỉ ngơi, yên tĩnh. Juan nhún tay co gập hai lần thật tuyệt đẹp, rồi cả người quay một vòng trên sà, và đến vòng quay thứ hai liền phát ra một tiếng bủm rất to. Đừng cười Clara con! Thật là khủng khiếp. Một sự im lặng lạ lùng khó tưởng, rồi cô Hoa Hậu mùa Hái Nho bắt đầu cười phá lên, tiếng cười không sao kìm giữ được. Juan mặc vội chiếc áo ngoài, mặt tái ngắt, không một chút vội vàng, lặng lẽ bước ra xa khỏi toán người đang ngồi, và chúng ta không bao giờ còn được trông thấy chú nữa. Đi tìm chú ở mãi tận đội quân Lê dương ngoại quốc, hỏi thăm chú tại khắp các lãnh sự quán, nhưng từ đó chúng ta không bao giờ còn biết được chút xíu gì về cuộc sống của chú nữa. Mẹ cho rằng chú đã nhập vào đoàn giáo sĩ đi chăm sóc chữa cho những người mắc bệnh phong ở đảo Easter, một nơi xa nhất có thể đến để quên đi và để mọi người quên mình, bởi vì hòn đảo đó ở ngoài những tuyến giao thông trên biển và cũng chẳng có hình dạng trên những tấm bản đồ của người Hòa Lan. Kể từ đó mọi người nhớ đến chú trong một cái tên hiệu là Juan Rắm Rít.

Nívea dẫn con gái út đến bên cửa sổ và chỉ cho cô thấy một gốc cây bạch dương khô trụi.

– Trước kia đó là một cây bạch dương rất lớn - bà nói - Mẹ cho chặt đi trước khi đẻ anh cả con. Mọi người đều bảo cây đó thật cao, từ trên đỉnh ngọn của nó có thể nhìn thấy toàn bộ thành phố, thế nhưng người duy nhất leo được tới độ cao đó lại không có mắt để mà nhìn thành phố. Tất cả những người con trai trong gia đình del Valle, một khi đến tuổi trưởng thành đều phải leo cây đó để thử thách can đảm. Việc đó đã thành tục lệ của lễ thành niên. Thân cây mang đầy những dấu vết ghi khắc. Chính mẹ đã khẳng định cái đó, khi người ta chặt nó đổ xuống. Bắt đầu từ cành ngang thứ nhất, to như một ống khói lò sưởi, đã thấy có những chữ ghi lại bởi những bậc ông cha đã leo lên đó trong thời kỳ thành niên của các cụ. Cứ theo những chữ cái đầu tên ghi khắc trên thân cây thì biết ngay những người nào leo được lên cao nhất, những người có đảm lược nhất, và đồng thời cũng biết được những vị đã dừng lại vì sợ hãi. Một hôm đến lượt Jerónimo, một người mù đầu tiên trong dòng họ. Ông đã lần theo các cành, leo lên không chút lưỡng lự, bởi vì không trông thấy độ cao và không cảm thấy khoảng trống giữa không trung. Ông leo lên đến đỉnh ngọn cây, nhưng không thể khắc trọn vẹn được chữ J. đầu tên ông trên ngọn cây, vì bị tuột tay rơi xuống như thể một quả khô rơi rụng đầu đâm xuống đất, ngay bên chân của người cha và mấy người anh em của ông. Lúc đó ông mới mười lăm tuổi. Thi thể ông cuộn trong tấm chăn đưa đến chỗ mẹ ông, bà mẹ khốn khổ tức thì nhổ vào mặt hết thẩy mọi người, chửi bới tất cả bằng những lời chửi tục tĩu và nguyền rủa giống người đã xúi dục con trai bà leo lên cây đó, cho tới khi mấy bà tu sĩ của dòng Charity tới khoác vào người bà tấm áo trói người điên bà mới chịu thôi. Mẹ biết rằng rồi một ngày nào đó những đứa con trai của mẹ phải tiếp tục cái truyền thống dã man đó, vì thế mẹ sai người chặt nó đi. Mẹ không muốn Luis và những thằng bé khác lớn lên dưới bóng rợp của cái cây đó bên cửa sổ.

Thỉnh thoảng Clara đi theo mẹ cùng vài ba bà bạn trong đảng đòi quyền bầu cử ứng cử cho phụ nữ tới thăm một số xưởng máy, tại đó các bà trèo lên mấy chiếc hòm kê làm bục để hiệu triệu công nhân nữ, trong khi đó bọn cai và ông chủ đứng cách đó một chút lặng lẽ quan sát các bà với vẻ vừa diễu cợt vừa thách thức. Dù còn bé và dốt đặc về mọi điều diễn ra trên thế giới, Clara vẫn có thể nhận ra cái vẻ tức cười của quang cảnh đó và ghi chép vào trong những cuốn vở ghi chép cuộc đời sự tương phản giữa mẹ cô và các bà bạn, mặc áo choàng lông thú, đi ủng da dê, nói về sự đè nén áp bức, về bình đẳng và bình quyền với một toán nữ công nhân buồn rầu và nhẫn nhục, mặc những chiếc tạp dề bằng vải thô và đôi bàn tay đỏ rực lên bởi xưng tấy vì lạnh giá. Ở nhà máy ra, các bà rủ nhau tới hiệu bánh kẹo tại Quảng Trường Vũ Khí để uống trà và ăn bánh ngọt, và bình luận về những tiến triển của chiến dịch vận động, không vì cuộc giải trí thoáng qua này mà rời xa một ly những lý tưởng cháy rực của các bà. Có những bận mẹ cô dẫn cô tới các làng xóm ngoại ô và cả những tu viện, trên chiếc xe ngựa kéo, chở những thức ăn và quần áo mà Nívea và các bà bạn may cho những người nghèo. Trong những trường hợp đó cô gái cũng ghi, với một trực giác lạ lùng, rằng công việc từ thiện chẳng thể làm dịu bớt được một sự bất công đồ sộ. Quan hệ giữa hai mẹ con thật vui vẻ và thân mật, và Nívea, dù có cả thảy mười lăm người con, đã chăm non Clara như thể cô con gái độc nhất và sự thân mật thật sâu sắc ấy của hai mẹ con đã kéo dài đến tận những thế hệ sau đấy như một truyền thống gia đình.

Vú Em trở thành một người phụ nữ không tuổi tác, vẫn giữ nguyên được sức khỏe thời thanh niên và có thể nhẩy tới khắp các só sỉnh để dọa nạt sự câm lặng của Clara, cũng như có thể để hàng ngày ngồi quấy món phật thủ chưng trong một chiếc nồi đồng đặt trên bếp lửa âm ỉ cháy ở giữa sân, rồi đổ vào khuôn to nhỏ khác nhau để tới khi nguội chúng trở thành những viên mứt mà Nívea đem phân phát cho những người nghèo. Đã quen được bao bọc quanh mình bởi những đứa bé mà Vú nuôi nấng, nên khi tất cả bọn chúng đã lớn và rời khỏi nhà, Vú Em dốc vào cho Clara tất cả lòng thương yêu chăm sóc của mình. Dù cô bé không còn ở độ tuổi để phải tắm rửa cho, nhưng Vú vẫn tắm cho cô như một cô bé tí, dầm người cô vào bồn tắm tráng men ngập đầy nước thơm mùi hương cam tùng và hương nhài, rồi kỳ cọ cho cô bằng một miếng bọt bể, sát xà phòng vào người cô thật tỉ mỉ không bỏ sót đến một kẽ tai, kẽ chân, sức nước hoa cho cô và rắc phấn thơm vào cô bằng một cái húp bằng lông thiên nga, và chải tóc cho cô thật tỉ mỉ, kiên nhẫn cho đến lúc cô gái sáng bóng và mềm mại như một thứ cây mọc trong nước biển; Vú mặc quần áo cho cô, sửa soạn giường ngủ, mang thức ăn điểm tâm đến tận giường cho cô, bắt cô phải uống nước sắc lá bồ đề để dịu thần kinh, nước táo sắc để nhuận tràng, nước chanh để da dẻ trong sáng, nước cam cúc để khỏi tiểu tiện vàng, và nước bạc hà để cho hơi thở cô thơm mát: cứ thế cô gái nhỏ biến thành một cô tiên xinh đẹp bước dạo quanh mấy lớp sân và những dãy hành lang, tỏa ra xung quanh hương thơm của hoa, tiếng sột soạt của những nếp váy lót hồ cứng và một vòng hào quanh của những nếp tóc loăn soăn và những giải lụa. Clara sống suốt thời kỳ niên thiếu và bước vào tuổi thanh niên trong bốn bức tường của ngôi nhà cô, một thế giới đầy những câu chuyện lạ lùng, kỳ quặc và trong sự lặng lẽ bình yên, tại đó thời gian không ghi nhận bằng những tờ lịch hoặc chiếc đồng hồ, nơi mà mọi vật dụng đều như có đời sống riêng của nó, như những hồn ma vẫn ngồi tại chỗ xưa của họ bên bàn ăn và chuyện trò cùng những người còn sống, quá khứ và tương lai là bộ phận của cùng một sự vật, và hiện thực ngày nay là một ống kính lăng trụ lắp những mảnh gương lộn xộn vô trật tự, tại đó có thể xảy ra tất cả mọi điều. Tôi rất lấy làm thú vị đọc những cuốn vở ghi chép về thời kỳ đó. Clara sống trong một thế giới do chính cô sáng tạo nên, được bảo vệ chống mọi gió sương đầy đọa của cuộc đời tại đó sự thật trần tục trộn lẫn giấc mơ, tại đó không phải lúc nào những quy luật của vật lý và logic có tác động. Clara sống thời kỳ đó thật sung sướng nên cô không thấy cần thiết phải nói trong suốt chín năm liền. Tất cả mọi người đều hết hi vọng được nghe thấy cô lại cất lên tiếng nói, thì một hôm, vào đúng ngày sinh của cô, sau khi thổi tắt mười chín ngọn nến nhỏ trên chiếc bánh kem sô-cô-la sinh nhật cô, cô lại biểu diễn lần đầu một giọng nói mà cô đã giữ kín trong suốt thời gian dài đó, giọng nói có âm vang như tiếng đàn dương cầm.

– Sắp tới tôi sẽ lấy chồng - cô nói.

– Lấy ai? - Severo hỏi.

– Lấy vị hôn phu của Rosa - cô trả lời.

Lúc đó tất cả mọi người xung quanh mới nhận ra rằng cô đã nói lần đầu tiên sau những năm dài câm lặng; sự kỳ lạ huyền diệu ấy làm rung chuyển đến nền móng của ngôi nhà làm cho tất cả mọi người trong gia đình đều bật lên tiếng khóc. Người nọ gọi người kia, tin tức đó lan nhanh khắp thành phố, mọi người kéo đến hỏi ông bác sĩ Cuevas, ông này cũng không thể tin là có điều đó xảy ra; và trong sự ồn ào, lộn xộn vì việc Clara đã lên tiếng nói, tất cả mọi người đều đã quên mất cả điều mà cô vừa thốt lên, mãi hai tháng sau đó người ta mới lại nhớ đến, khi Esteban Trueba, anh chàng Esteban từ sau đám tang của Rosa đã mất tích, đột nhiên xuất hiện để hỏi Clara làm vợ.

Esteban Trueba hai tay xách hai chiếc va-li bước xuống sân ga. Vòm cửa sắt người Anh xây dựng theo kiểu của ga xe lửa Victoria từ thời kỳ họ còn nhượng quyền về đường xe lửa quốc gia, không thay đổi một chút nào so với lần anh rời nơi đây về nông thôn chín năm trước, và vẫn những khuôn kính bẩn thỉu, những đứa trẻ đánh giầy, những người phụ nữ bán bánh xốp và kẹo kiểu dân gian địa phương, và những người phu khuân vác đầu đội mũ nồi mầu sẫm có phù hiệu vương miện Anh quốc, mà chưa hề có ai nghĩ đến việc thay nó bằng mầu cờ của đất nước. Anh lên một chiếc xe ngựa, cho phu xe biết địa chỉ ngôi nhà của mẹ. Thành phố đối với anh như xa lạ chưa hề quen biết, nó có một sự thay đổi tân kỳ và lộn xộn, một sự lạ về những người phụ nữ phô bầy những bắp chân trước mắt thiên hạ, những người đàn ông áo khoác ngoài, quần có nếp, một đám lộn xộn công nhân huyên náo đào hố trên vỉa hè, đào những thân cây đi để thay vào đó những chiếc cột, rồi vất bỏ những chiếc cột để xây dựng những ngôi nhà, rồi lại đào bỏ những ngôi nhà để trồng vào đấy cây cối; một thứ chướng ngại gồm những người rao hàng bán rong gào lên sự tuyệt diệu của chiếc máy mài dao, của lạc rang, của con búp bê tự nó cử động được, không cần giây giật, xin các ngài cứ việc đích thân đến xem xét, sờ mó; một thứ mùi của bãi rác, của thịt cá nướng quá lửa, của nhà máy, của xe ô tô va chạm với xe ngựa kéo, và những chiếc xe chạy bằng sức máu đó - theo cách gọi của người địa phương thời kỳ đó gọi những con ngựa kéo già - làm cản trở sự đi lại của mọi người; một sự ồn ào huyên náo của đám đông, một tiếng vang rung của đường xá, của bước chân đi đi lại lại vội vàng, sự nôn nóng và thời khóa biểu đã định. Esteban cảm thấy buồn nản. Anh căm ghét cái thành phố này hơn cả sự căm ghét nó trong ký ức, anh nhớ đến những cây bạch dương ở đồn điền, thời gian đo tính bằng những trận mưa, sự cô đơn lặng lẽ mênh mông của những khoang chăn ngựa, sự yên tĩnh mát mẻ của dòng sông và ngôi nhà lặng lẽ của anh.

– Thật là một thành phố cứt - anh thốt lên kết luận.

Chiếc xe ngựa đi nước kiệu tới ngôi nhà, nơi xưa kia anh đã chào đời. Anh run run khi trông thấy thật nhiều đổi thay tàn tạ trong khu phố ít năm nay, kể từ khi những nhà giầu nhất chuyển đi sống ở những nơi cao ráo hơn những người khác, và thành phố cứ thế nẩy nở phát triển mãi thêm về phía sườn dãy núi. Tại quảng trường, nơi anh chơi đùa khi còn nhỏ giờ đây không còn gì nữa, chỉ còn lại một mảnh đất hoang lổng chổng những chiếc xe ngựa, cạnh những đống rác trên đó những con chó hoang lởn vởn, cào bới. Ngôi nhà của mẹ thật vắng lạnh tàn tạ. Anh trông thấy tất cả mọi dấu hiệu của thời gian đã đi qua trong đó. Trên mặt cửa ra vào có lắp khuôn kính, chạm trổ những hoa văn chim muông ngoại lai đã lỗi thời và đã ọp ẹp, có một chiếc nắm gõ cửa bằng đồng thau, hình dáng một bàn tay phụ nữ cầm một nửa quả cầu. Anh cầm nắm đó, dập dập vào cửa, và phải chờ một lúc mà anh tưởng chừng như vô tận cửa mới mở, theo sợi giây kéo từ trên xuống tận chân cầu thang. Bà mẹ anh ở tầng thứ hai còn tầng một cho một xưởng làm khuy áo thuê. Esteban bước trên những bực thang cót két mà từ lâu không ai ghép chữa cho kín. Một người hầu rất già, mà sự thật anh đã quên hoàn toàn, chờ anh trên đầu thang ở tầng hai đón anh bằng những dấu hiệu yêu mến đầy nước mắt, giống như mười lăm năm trước bà đã đón anh như vậy khi anh ở Văn phòng Công chứng viên, nơi anh làm nghề sao chép lại các chứng khoán tài sản và quyền lợi của những người không quen biết, trở về nhà. Không có gì thay đổi cả, kể cả sự sắp đặt những thứ đồ gỗ, bàn ghế trước ở đâu nay vẫn đó, nhưng đối với Esteban tất cả đều như đã đổi khác, từ dãy hành lang sàn gỗ đã cũ mòn, đến một khuôn kính vỡ, phải vá lại bằng những mảnh các-tông, mấy cây dương sỉ đầy bụi buồn thảm trong mấy chiếc lọ sắt gỉ và những chậu hoa bằng sứ đã rạn nứt từng mảng bề mặt; một mùi hôi ủng của thức ăn, của nước tiểu làm cho quặn ruột gan: “Ôi, thật nghèo cực!” - Esteban chợt thấy lời đó lóe lên trong óc cùng với ý nghĩ không hiểu tất cả số tiền mà anh gửi về cho chị đủ để sống tương đối sung túc đã chạy vào đâu.

Férula ra đón anh với vẻ buồn rầu. Chị đã thay đổi rất nhiều, giờ đây không còn là một người phụ nữ béo tốt mà anh đã từ biệt những năm trước đây; chị đã gầy đi và mũi chị hình như to ra trên khuôn mặt quắt lại, dáng điệu của chị buồn nản, bối rối, và từ người chị tỏa ra mùi nước giặt và quần áo cũ kỹ. Hai người lặng lẽ ôm hôn nhau.

– Mẹ ra sao? - Esteban hỏi.

– Vào thăm mẹ đi, mẹ chờ em đấy. - Férula nói.

Hai người bước qua một dãy hành lang trước những căn phòng có cửa thông nhau, tất cả giống nhau như in, đều tối sẫm, tường màu tang tóc, vòm mái cao, những khuôn cửa sổ hẹp, giấy hoa dán tường đã bạc mầu và hình ảnh những cô gái gầy yếu, vấy mầu bồ hóng đen nhèm và mầu thời gian trôi qua và mầu nghèo khổ. Từ rất xa vẳng đến giọng nói của một phát thanh viên đang rao chào quảng cáo những viên thuốc chuyên trị táo bón, bệnh mất ngủ và bệnh hôi mồm. Hai người dừng lại trước cửa buồng ngủ của bà Ester Trueba.

– Mẹ trong này - Férula nói.

Esteban mở cửa và phải mất mấy giây mới nhìn được lờ mờ trong bóng tối. Mùi thuốc và hôi thối xộc vào mặt anh, một mùi mồ hôi, ẩm ướt, tù túng và có một mùi gì đó mới đầu không nhận ra được nhưng ngay lập tức nó quyện vào anh như thể một mùi thối rữa của thịt xương đang bị tiêu hủy. Ánh sáng như sợi chỉ lọt qua khe cửa sổ nửa khép nửa mở, đủ cho anh trông thấy chiếc giường lớn xưa kia cha anh nằm chết trên đó, nơi mẹ anh vẫn nằm ngủ từ đêm cưới đến nay, chiếc giường bằng gỗ chạm trổ công phu, mầu đen, có một khung viền chạm nổi những cô tiên và riềm bằng lụa gấm đỏ đã phai nhạt theo thời gian sử dụng. Mẹ anh nửa nằm nửa ngồi trên giường. Đó là một khối thịt đã quắt lại, một hình trụ quái đản bằng mỡ và giẻ rách, thót lại bằng một cái đầu nhỏ hói tóc, có đôi mắt dịu dàng, sống động một cách đáng ngạc nhiên, đôi mắt mầu xanh và sáng sủa. Bệnh sưng khớp đã biến bà thành một người nguyên khối thẳng đứng, không thể co duỗi được tứ chi và ngón tay ngón chân đều không thể co quặp, đầu không thể nghiêng ngả được, tất cả đều như vật hóa thạch cứng nhắc; để có thể ngồi như vậy trên giường, bà phải tựa lưng vào một chiếc hộp có then ngang đâm vào tường để giữ chặt. Năm tháng trôi qua đã để lại rõ ràng những dấu vết trên tấm then ngang có một đầu dính vào tường ấy, những dấu vết của đau thương, của một con đường đau khổ.

– Mẹ... - Esteban thì thầm gọi và giọng nói của anh vỡ tan trong lồng ngực bật thành một tiếng khóc nức nhẫn nhục, như một nhát chổi lông xóa mờ những kỷ niệm buồn rầu về thời niên thiếu nghèo nàn, những mùi hôi mù nặng nề, những buổi sáng lạnh giá và những đĩa súp béo của những ngày còn thơ, bà mẹ đau ốm, người cha vắng mặt, và cả nỗi điên dại vẫn gặm nhấm gan ruột anh từ cái ngày anh bắt đầu biết suy nghĩ; anh đã quên hết cả, chỉ trừ có những giây phút sáng rực duy nhất mà người phụ nữ không còn nhận ra được nữa trên giường kia, đã ru anh trong vòng tay, đã đưa tay sờ trán anh xem có nóng sốt, đã hát cho anh nghe một bài hát ru, đã cùng anh cúi xuống những trang sách, đã sụt sùi buồn đau nhìn anh trở dậy lúc bình minh để đi làm khi còn trong độ tuổi thiếu niên, đã khóc sụt sịt vì sung sướng nhìn thấy anh trở về buổi chiều tối, đã sụt sịt khóc vì con, mẹ ơi.

Bà Ester chìa bàn tay, nhưng không phải một cử chỉ chào mà là dấu hiệu ngăn anh đứng lại.

– Đừng lại gần, con - giọng bà vẫn nguyên vẹn như giọng nói vẫn vang trong trí nhớ của anh, cái giọng như hát và lành mạnh của một người con gái trẻ.

– Do mùi hôi đấy - Férula khô khan giải thích.

Esteban nhấc tấm chăn phủ bằng lụa thêu damask đã sờn chỉ và trông thấy đôi chân của bà mẹ. Đó là hai cây cột mầu tím ngắt, to như chân voi, đầy những vết loét, trong đó giòi bọ làm tổ và đào những đường hầm, hai cái chân thối rửa ngay khi còn sống, với hai bàn chân khác thường mầu tái xanh, với những ngón chân không có móng, xưng phồng trong vòng mủ và máu đen, trong đó những con trùng khốn kiếp đang ăn thịt, mẹ ơi Chúa ơi, thịt của con.

– Bác sĩ muốn cắt nó đi cho mẹ đấy, con ạ - bà Ester giọng bình thản nói - nhưng mẹ đã quá già rồi, quá mệt với đau đớn rồi, vì vậy mẹ chết còn hơn. Nhưng mẹ không muốn chết khi chưa được trông thấy con, vì những năm vừa rồi mẹ đã đi đến chỗ nghĩ rằng có lẽ con đã chết, và những bức thư con gửi về là do chị con viết để cho mẹ đỡ đau khổ. Thắp đèn lên, con, để mẹ trông thấy con được rõ hơn. Lạy Chúa! Con giống như một người rừng!

– Đó là do cuộc sống ở nông thôn, mẹ ạ - anh thì thầm.

– Được rồi! Con trông vẫn khỏe. Bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?

– Ba mươi lăm.

– Tuổi đã chín để lấy vợ và ổn định gia đình rồi đấy, để mẹ được yên tâm khi chết.

– Mẹ chưa chết đâu mẹ ạ - Esteban nói như van xin.

– Mẹ muốn được đảm bảo sẽ có cháu, một đứa cháu mang dòng máu của mẹ, mang họ của mẹ. Férula đã chẳng còn hi vọng lấy chồng, còn con cần phải tìm cưới một người vợ. Một phụ nữ đứng đắn, theo đạo. Nhưng trước hết con cần đi cắt bộ tóc và bộ râu kia đi, con nghe mẹ nói không?

Esteban đồng ý. Anh quỳ bên cạnh mẹ và vùi đầu vào lòng bàn tay xưng tấy của bà, nhưng mùi hôi đã đẩy anh lùi lại. Férula cầm cánh tay anh kéo ra khỏi căn phòng đầy mùi xú uế đó. Ra đến ngoài anh thở một hơi dài, với cái hương vị ốm đau vẫn còn vương trong lỗ mũi, và tự nhiên chợt cảm thấy nổi điên lên, cơn điên giận quen thuộc của anh bốc lên như một luồng sóng nóng trào lên trong óc, bơm đầy mắt anh, đặt những tiếng lầu bầu chửi bới trên đôi môi anh, nổi giận vì cả một thời gian qua đã không nghĩ đến mẹ, nỗi giận vì đã bỏ rơi không chăm sóc bà, không yêu quí và chăm lo cho bà đúng mức, nỗi giận vì đã là một đứa con khốn khổ, tồi tệ, không, xin mẹ tha lỗi, con không muốn nói vậy, mẹ kiếp, mẹ đang chết rũa, già nua, và con không có thể làm gì, dù chỉ để làm cho mẹ đỡ đau, làm cho mẹ được đỡ hôi thối, vất bỏ cho mẹ cái mùi kinh tởm, cái mùi chết chóc nó đang ninh nấu mẹ, mẹ ơi.

Hai ngày sau đó bà Ester chết trên chiếc giường tra tấn mà bà đã bị liệt trên đó những năm cuối của cuộc đời. Bà chết cô đơn, vì cô con gái lúc đó, cũng như mọi ngày thứ Sáu khác, đã đi tới tu viện những người nghèo, tại xóm nhà Từ Thiện, để lần tràng hạt cầu nguyện cho những người thiếu thốn, cho những kẻ vô thần, cho những cô gái trụy lạc và những trẻ mồ côi, những kẻ ném rác rưởi vào người cô, đổ cả ống nhổ và nhổ cả nước dãi vào cô, trong khi cô quỳ trong cái hẻm của tu viện, kêu lên những lời van xin lạy Chúa tôi, lạy Đức Mẹ, cầu nguyện không mệt mỏi, khắp người đẫm những thứ bẩn thỉu của bọn thiếu thốn, bọn trụy lạc, bọn mồ côi ném vào... cô vẫn than khóc cầu xin tha thứ cho những kẻ không hiểu biết việc làm của họ, và cảm thấy xương cốt trong người như mềm đi, một sự đau buồn đến chết đã biến đôi chân cô thành mềm như bông, một thứ nóng mùa hạ truyền tội lỗi ngay giữa bẹn, ôi lạy Chúa, hãy rứt con ra khỏi cái tội lỗi này; trong bụng cô như lóe lên những ngọn lửa địa ngục, chao ôi, lạy Chúa, vì thánh thần vì sợ hãi, xin Chúa đừng để con phải rơi vào cái tội ham muốn đó, ôi Jesus!

Esteban cũng không ở bên bà Ester khi bà chết lặng lẽ trên chiếc giường tra tấn đó. Anh đến thăm gia đình del Valle để xem còn cô gái nào chưa chồng có thể cho mình, bởi vì bao nhiêu năm vắng mặt và bao nhiêu năm sống dã man, anh không biết bắt đầu từ nơi đâu để hoàn thành lời hứa với mẹ sẽ cho bà có đứa cháu chính thức, và kết luận rằng nếu Severo và Nívea thời kỳ những năm Rosa, người đẹp, đã nhận anh lúc đó còn hàn vi làm rể được, thì không có lý gì bây giờ họ lại không chấp nhận anh lần nữa, nhất là bây giờ anh đã giầu có, không còn phải đào bới hàng núi đất để bòn vàng, mà anh đã có tất cả những gì cần thiết nằm trong tài khoản của mình tại ngân hàng.

Đêm hôm đó về đến nhà, Esteban và Férula thấy mẹ đã chết trên giường. Bà chết với một nụ cười bình thản, như thể trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời bà, bệnh tật đã muốn cho bà thoát khỏi được nỗi đau tra tấn hàng ngày.

Hôm Esteban đến xin được tiếp, Severo và Nívea del Valle chợt nhớ đến những lời mà Clara đã thốt lên để chấm dứt sự câm lặng kéo dài chín năm của cô, cho nên hai người không tỏ vẻ ngạc nhiên khi người khách hỏi có người con gái nào đã đến độ tuổi có thể kết hôn. Hai ông bà tính nhẩm, rồi báo cho anh biết rằng Ana đã mặc áo nhà tu, Teresa thì bệnh tật, đau yếu, còn những cô gái khác đều đã đi lấy chồng, chỉ còn Clara, cô gái út, chưa có ai nhằm, nhưng đó là một con bé hơi lơ đãng, không sẵn sàng thích hợp với những nhiệm vụ vợ chồng và đời sống nội trợ. Bằng tất cả tấm lòng thành thực, ông bà kể cho Esteban nghe những chuyện lạ lùng của cô con gái út, cũng chẳng dấu cả việc cô đã nhất định không nói một lời dòng dã một nửa thời gian sinh sống của cô, bởi vì không muốn nói chứ không phải vì không thể nói được, theo như ông Rostipov người Rumania nhận định và được bác sĩ Cuevas chấp nhận sau nhiều cuộc khám nghiệm. Nhưng Esteban Trueba không phải loại người chịu để cho những chuyện ma quái đi đứng quanh hành lang, những vật nhỏ động đậy theo mãnh lực tinh thần của cô, hoặc những lời đoán về số phận không may, cả cái thời gian câm lặng kéo dài của cô kia nữa, làm cho run sợ. Anh kết luận rằng chẳng một cái gì trong những việc đó có thể cấm không cho phép sinh ra những đứa con lành mạnh, chính thức, nên cuối cùng xin được gặp Clara. Nívea bước ra ngoài tìm Clara và trong phòng khách chỉ còn lại hai người đàn ông, hoàn cảnh thật thuận lợi cho Esteban Trueba, với sự ngay thẳng thông thường của anh, liền lợi dụng luôn lúc đó để bàn luôn giải pháp kinh tế trong việc này không úp mở, rào đón.

– Đừng vội vàng đặt trước vấn đề thế, Esteban! - Severo ngắt lời anh - Trước hết cần gặp con bé đã, cần hiểu biết nó thật rõ hơn, và chúng tôi cũng cần thăm dò xem ý thích của Clara. Có phải nên như thế không?

Nívea quay vào cùng Clara. Cô gái bước vào phòng khách với đôi má đỏ rực và móng tay đen nhẻm, vì cô vừa giúp cho bác làm vườn trồng hoa thược dược, và chính lần này cô đã quên mất cái sáng suốt đoán trước để sửa soạn trang phục cẩn thận hơn, để đón tiếp người yêu tương lai. Khi trông thấy cô, Esteban kinh ngạc đứng lên. Anh vẫn tưởng đến cô như một cô bé gầy gò và hen suyễn, không có tí chút duyên dáng, nhưng cô gái trẻ đứng trước mặt anh kia lại là một con người ngọc ngà, có một khuôn mặt dịu hiền và một mớ tóc màu hạt giẻ sáng, loăn soăn và rối tung, đôi mắt buồn buồn của cô trở thành riễu cợt và ranh mãnh khi cười, một cái cười thẳng thắn và cởi mở, đầu hơi nghiêng về phía sau. Cô bắt tay chào anh, không một chút rụt rè, bẽn lẽn.

– Tôi đương chờ anh - cô nói thật giản dị.

Mấy tiếng đồng hồ thăm viếng xã giao đã trôi qua, chuyện trò với nhau về thời kỳ thơ mộng, những cuộc du ngoạn sang châu Âu, tình hình chính trị, những đợt rét mùa đông, uống nước ngô ủ men và ăn bánh đá ngọt. Esteban kín đáo chú ý ngắm Clara, dần dần cảm thấy bị quyến rũ bởi cô gái. Anh không nhớ đã từng thích thú ai như thế kể từ sau ngày vinh quang mà anh được trông thấy Rosa, người đẹp, đang mua kẹo bạc hà trong cửa hàng bánh kẹo cạnh Quảng Trường Vũ Khí. Anh so sánh hai chị em và đi tới kết luận là Clara trông có cảm tình hơn chị, dù Rosa rõ ràng trội hơn em nhiều về sắc đẹp. Đêm đổ xuống và hai người hầu gái bước vào phòng, kéo rèm che cửa và thắp đèn, lúc ấy Esteban mới chợt nhận thấy cuộc viếng thăm của mình đã kéo quá dài. Cung cách giao tiếp của mình có nhiều khiếm khuyết quá. Anh ngượng nghịu chào Severo và Nívea và xin phép được tiếp tục đến thăm Clara.

– Tôi mong không làm cô bực dọc, Clara - anh đỏ mặt nói. - Tôi là một người thô lỗ, một người thôn dã và ít nhất cũng hơn cô tới mười lăm tuổi. Tôi không biết cách đối xử với một người trẻ tuổi như cô...

– Anh muốn cưới tôi phải không? - Clara hỏi và Esteban nhận thấy có một tia sáng riễu cợt nhấp nhánh trong đôi đồng tử mầu hạt dẻ.

– Clara con! Lậy Chúa! - Mẹ cô gái kinh hoảng kêu lên - Xin thứ lỗi, Esteban, cái con bé này bao giờ cũng vẫn rất vô ý tứ.

– Con muốn biết điều đó, mẹ ạ, để khỏi mất thì giờ - Clara nói.

– Đối với tôi cũng vậy, tôi thích những chuyện thẳng thắn - Esteban mỉm cười sung sướng trả lời - Phải Clara ạ, tôi đến đây vì việc đó.

Clara nắm lấy tay anh và sóng vai tiễn anh ra đến tận cửa ra vào. Qua cái nhìn sau chót mà hai người trao đổi, Esteban hiểu rằng cô đã chấp nhận lời hỏi của anh và, một niềm vui sướng tràn ngập trong lòng. Khi bước lên xe ngựa, anh mỉm cười, chẳng thể tin được vào cái số may của mình, không biết tại sao một cô gái thật đáng quý như Clara lại nhận lấy mình, một người chưa từng quen biết. Anh không hiểu được rằng cô gái đã trông thấy trước số phận của chính mình, vì thế cô đã gọi anh tới trong suy nghĩ và sẵn sàng để lấy chồng không cần có tình yêu.

Họ để cho thời gian trôi qua một số tháng, bởi cái tang mà Esteban Trueba đang mang, và trong thời gian ấy anh đã tán tỉnh Clara theo lề thói cũ, cũng giống như cách anh đã dùng đối với Rosa, mà không biết rằng Clara ghét cay ghét đắng cái món kẹo bạc hà, và những bài thơ ghép thủ ghép vĩ của anh đều làm cho cô bật cười ngặt nghẽo. Vào cữ cuối năm, gần đến ngày Năm Mới, lễ ăn hỏi được chính thức tổ chức, họ trao nhẫn cho nhau trước mặt họ hàng và những người bạn thân tín, tổng cộng hơn một trăm người, trong một tiệc mừng thịnh soạn và thừa thãi, trong đó những mâm đầy chim công nhồi nấm, lợn quay nhân kẹo, lươn biển băng giá, tôm hùm tẩm bột bỏ lò, sò tươi nướng tái, bánh rán cam chanh của Carmelite, bánh hạnh nhân và hạt dẻ của Dominica, sôcôla và kẹo sữa của Clarisas, hàng két rượu champagne mua của lãnh sự quán Pháp - ông lãnh sự đã dùng những đặc quyền ngoại giao để buôn lậu theo nhau diễu hành trên bàn tiệc, một cách thật đơn giản bởi những bà hầu già trong gia đình, tất cả đều mặc tạp dề màu tang như những ngày thường, cốt để cho tiệc cưới có cái bề ngoài như một bữa cơm sum họp gia đình thật khiêm tốn, bởi vì mọi thứ kệch cỡm đều chứng tỏ kém ý thức thẩm mỹ và là dấu hiệu của thói kiêu ngạo huênh hoang bị cái xã hội hậu sinh con cháu của những cụ tổ tiên khắc khổ và hơi buồn thảm bị cưỡng bức di cư từ miền Castilla và Basque sang lên án. Clara như thể linh hồn của những tấm thêu ren Chantilly trắng toát và những bông trà thiên nhiên, đòi lại chín năm câm lặng của mình bằng những lời nói dồn dập như một con vẹt sung sướng, nhẩy với người yêu dưới ánh sáng của đèn lồng, xa lạ hoàn toàn với những lời cảnh cáo của những hồn ma đang làm dấu hiệu với cô sau những tấm rèm che cửa, vì trong đám đông ồn ào nhảy nhót đó cô đâu có trông thấy chúng. Cuộc lễ trao nhẫn vẫn được giữ đúng như từ thời kỳ thuộc địa. Vào khoảng mười giờ đêm, một người hầu đi len lỏi trong đám khách, lắc một quả chuông nhỏ bằng thủy tinh, tức thì âm nhạc ngừng bặt, cuộc nhảy dừng lại, và tất cả tân khách vào tụ hội trong phòng khách chính. Một vị cố đạo bé nhỏ bình thường, mặc trang phục của những ngày lễ lớn, đọc bản kinh thề dài lê thê mà ông đã chuẩn bị để khích lệ những đức tính khó hiểu và khó thực hành. Clara không nghe ông, bởi vì lúc âm nhạc và những bước chân của khách nhẩy ngừng bặt, cô liền chú ý đến những hồn ma hình như đang sì sào sau những tấm rèm, và chợt nhận ra đã mấy tiếng đồng hồ qua không trông thấy con Barrabás. Cô đưa mắt tìm nó, mọi giác quan đều căng thẳng, nhưng một cái hích khuỷu tay của bà mẹ làm cho cô trở lại với những việc cần thiết phải làm trong buổi lễ. Ông cố đạo kết thúc bài diễn văn giảng dậy, làm dấu thánh trên đôi nhẫn cưới bằng vàng và Esteban lập tức sỏ một chiếc vào ngón tay cô dâu và chiếc kia đeo vào ngón tay mình.

Giữa lúc đó một tiếng kêu thất thanh làm xôn xao cả cử tọa trong cuộc lễ. Mọi người hoảng hốt dãn ra để một lối đi cho con Barrabás chạy xộc vào, con vật đen và to lớn hơn bất kỳ lúc nào khác, ngang lưng bị một con dao mổ lợn cắp ngập đến tận chuôi, máu chảy lênh láng như máu của một con bò, bốn chân dài như chân ngựa run run, mõm phùn ra một đống dãi, đôi mắt hấp hối như có làn sương che phủ, con vật kéo lê từng bước đi lên theo một đường quanh co như một con khủng long bị thương. Clara ngã ngất trên chiếc sô-pha bọc lụa Pháp. Con chó khổng lồ lết đến gần Clara, đặt cái đầu to lớn như của con thú thời tiền sử trên nếp váy của cô rồi lặng nhìn cô bằng đôi mắt yêu mê, đôi mắt đang dần dần mờ ám, mù đi, và những mảnh viền đăng ten miền Chantilly, nền lụa Pháp bọc chiếc sô-pha, tấm thảm Ba Tư và cả nền sàn gỗ ghép đều đẫm máu. Lúc đó mọi người dường như vừa tỉnh khỏi một cơn ác mộng, và bắt đầu có tiếng rì rầm hoảng sợ lan khắp gian phòng khách, những vị tân khách vơ vội chiếc áo choàng lông, chiếc mũ hình cái đấu, chiếc ba-toong, chiếc ô, chiếc túi đạn súng phụ nữ và hấp tấp từ biệt ra về, cố tránh không dẫm chân vào vũng máu. Trong phòng lễ chỉ còn lại Clara và con vật nằm dưới chân, và cha mẹ cô, ôm chặt lấy nhau như tê liệt bởi điềm quái gở, và chú rể tương lai không hiểu nguyên do của sự huyên náo lộn xộn chỉ vì một con chó chết gây ra, nhưng khi nhận ra rằng Clara như thể mất hồn, vội đưa hai tay nâng cô lên và ẵm cô trong trạng thái nửa hôn mê đến tận buồng ngủ, tại đó sự chăm sóc của Vú Em và mấy thứ thuốc của bác sĩ Cuevas đã giữ cho cô không hôn mê trở lại, và không rơi vào trạng thái câm lặng. Esteban Trueba nhờ bác làm vườn giúp một tay, hai người khiêng xác con Barrabás lên một chiếc xe, đặt nó giữa sàn xe; con vật khi chết sức nặng lại tăng lên tưởng chừng như khó có thể khiêng nổi nó.

Một năm chuẩn bị cho lễ cưới trôi qua. Nívea lo liệu quần áo cưới của Clara, còn cô gái chẳng quan tâm mảy may tới những thứ bên trong của những chiếc hòm gỗ bạch đàn hương, vẫn tiếp tục thực hiện những cuộc gọi hồn và những quân bài bói toán. Những tấm khăn trải giường thêu tuyệt khéo, những chiếc khăn bàn đăng ten và bộ đồ lót mà mười năm trước mấy bà tu sĩ đã làm cho Rosa, có thêu hai chữ cái đầu họ của del Valle và Trueba quấn quít ôm nhau, bây giờ dùng làm bộ đồ cưới cho Clara. Nívea gửi mua tại Buenos Aires, tại Paris, tại London những bộ quần áo du lịch, quần áo mặc tại nông thôn, quần áo lễ hội, mũ hợp thời trang, giầy và túi sách bằng da cá sấu và da dê rừng, và rất nhiều vật dụng khác nữa, tất cả đều gói kín trong những tờ giấy lụa và bảo vệ bằng hương cam tùng và băng phiến; nhưng cô dâu tương lai cũng chỉ nhìn chúng bằng đôi mắt lơ đãng một vài lần.

Esteban Trueba chỉ huy một toán thợ nề, thợ mộc và thợ ống nước để xây dựng một ngôi nhà kiên cố nhất, to rộng nhất và dãi nắng nhất mà người ta có thể hình dung nổi, để có thể lâu bền hàng nghìn năm và lưu trú được tho?