Chương 10 THỜI KỲ TAN RÃ
Tôi không thể nói về điều đó, nhưng tôi sẽ cố gắng viết nó ra. Hai mươi năm đã trôi qua vì từ rất lâu rồi tôi vẫn có một nỗi đau dai dẳng không chịu được. Tôi vẫn nghĩ không bao giờ còn có thể an ủi được mình, nhưng giờ đây đã gần chín mươi tuổi, tôi đã hiểu được điều mà bà ấy muốn nói khi đảm bảo với chúng tôi rằng bà ấy không thấy khó khăn gì trong việc thông tin trao đổi với chúng tôi nếu muốn, vì bà ấy đã thực tập điều đó nhiều lần. Trước đây tôi đã đi lạc lõng để tìm kiếm bà ấy khắp mọi nơi. Đêm đêm khi đi nằm, tôi lại mơ mộng tưởng tượng như bà ấy đang ở cạnh mình, như thời kỳ bà ấy còn đầy đủ răng và còn yêu tôi. Tôi tắt đèn, nhắm mắt và trong sự tĩnh mịch của căn phòng tôi cố gắng gợi nhớ hình ảnh bà, tôi gọi tên bà khi còn thức tỉnh, và ngay cả trong khi ngủ, mọi người nói, tôi vẫn gọi tên bà.
Đêm bà ấy ra đi, tôi đã nằm trong buồng cùng bà ấy. Sau bao nhiêu năm không nói với nhau một lời, chúng tôi lại nằm nghỉ cùng nhau trên chiếc thuyền buồm trôi trong làn nước lụa xanh dịu dàng, theo cách bà gọi chiếc giường của chúng tôi như vậy, và tôi đã tận dụng những giờ phút đó để nói với bà ấy tất cả những gì đã không thể nói được với bà ấy trước kia, tất cả những gì tôi đã phải giữ im lặng kể từ sau cái đêm kinh khủng mà tôi đã đánh bà. Tôi cởi áo ngủ của bà ấy và ngắm nhìn cẩn thận để tìm xem một chút dấu vết bệnh tật chính đáng của cái chết của bà, nhưng không tìm thấy một dấu vết gì, tôi chỉ biết có lẽ bà ấy đã hoàn thành sứ mạng của mình trên trái đất nên đã bay trở về nơi khác, nơi mà linh hồn của bà thoát khỏi mọi ràng buộc của vật chất, và như thế bà cảm thấy thích thú hơn. Không có tí chút méo mó, kinh khủng gì trong con người bà ấy khi đã chết. Tôi ngắm nghía vợ tôi thật lâu, vì đã nhiều năm rồi tôi không có dịp được ngắm nghía bà ấy một cách thỏa thích theo ý muốn, và lúc ấy thấy vợ tôi đã thay đổi nhiều, như tất cả chúng ta ai cũng đều như vậy trong độ tuổi đó. Nhưng tôi thấy bà ấy dường như vẫn thật đẹp như trước đây. Người có gầy đi và hình như cao hơn, lớn hơn lên, nhưng sau đấy tôi hiểu rằng ý nghĩ đó chỉ là do tác động ảo giác gây ra bởi sự còm cõi, teo nhỏ đi của chính cái cơ thể của mình. Trước kia tôi như một anh chàng khổng lồ bên cạnh bà ấy, nhưng khi nằm với nhau trên giường, tôi thấy như kích thước chúng tôi chỉ bằng nhau. Bà ấy có một búp tóc loăn xoăn luôn bướng bỉnh xổ tung mà tôi rất thích khi chúng tôi mới cưới nhau, búp tóc mềm mại đó giờ đây đã trở thành mấy búp tóc bạc trắng làm sáng rực khuôn mặt như đang trong giấc ngủ. Làn da xanh tái, xung quanh mắt có quầng thâm, và lần đầu tiên tôi để ý thấy có những nếp nhăn rất tinh tế ở hai bên mép và trên vùng trán. Trông bà ấy tựa như một cô gái nhỏ. Thân thể đã cứng lạnh, nhưng vẫn còn giữ được cái vẻ của một người phụ nữ dịu ngọt như xưa, và tôi có thể nói chuyện với bà ấy một cách bình tĩnh, vuốt ve bà, và ngủ chợp đi khi cơn buồn ngủ lấn át nỗi buồn, không vì cái chết rõ ràng không thể đảo ngược được của bà mà cuộc gặp lại của chúng tôi bị xáo động. Chúng tôi như vậy đã làm lành với nhau.
Rạng sáng tôi sửa sang lại quần áo cho bà ấy, để cho mọi người nhìn thấy bà thật chỉnh tề. Tôi mặc cho bà tấm áo dài trắng lấy trong tủ áo, và tôi ngạc nhiên thấy bà có rất ít quần áo, bởi từ trước tôi vẫn nghĩ rằng một phụ nữ sang trọng như bà ấy không thể ít quần áo như vậy. Tôi tìm thấy đôi tất len liền đi vào chân bà cho đôi chân đỡ lạnh, vì bà ấy là một người yếu chịu rét. Sau đó tôi chải tóc cho bà với ý định cuộn lại búp tóc mà bà thường búi, nhưng khi đưa chiếc bàn chải vào những món tóc loăn xoăn lại lòa xòa quanh khuôn mặt làm cho tôi thấy cứ để như thế lại đẹp hơn. Tôi lục tìm đồ nữ trang của bà ấy để đeo vào cho bà một vài thứ, nhưng không thấy đâu cả, cuối cùng tôi quyết định rút chiếc nhẫn cưới bằng vàng mà tôi đeo từ khi thành hôn, đeo vào tay bà để thay thế vào chiếc nhẫn mà bà ấy đã vất vả bỏ đi khi quyết định không làm lành với tôi nữa. Tôi sắp xếp ngay ngắn lại đôi gối, vuốt nhẵn khăn trải giường, vẩy mấy giọt nước hoa vào cổ bà ấy. Khi mọi việc xong xuôi, tôi mở cửa buồng cho các con, cháu đến vĩnh biệt bà. Chúng thấy Clara tươi tắn, sạch sẽ và xinh đẹp như thể khi còn sống. Còn tôi đã bé nhỏ đi, thấp xuống đến mười phân, chân đi như bơi trong đôi giày, tóc thì bạc trắng hoàn toàn, nhưng tôi đã không khóc nữa.
– Các con có thể đưa bà ấy đi chôn cất - tôi nói - Tiện thể đem chôn cả cái đầu của bà ngoại, vẫn để lạc lõng dưới tầng hầm từ nhiều năm nay - tôi nói thêm và bước đi ra, kéo lê đôi chân để cho giày khỏi tuột rơi xuống đất.
Lúc đó cháu gái tôi mới biết cái thứ đựng trong chiếc hộp mũ bằng da lợn mà nó dùng để chơi trò những lễ misa buồn bã và trang trí cho những gian nhà nhỏ xíu nó xây trong tầng hầm lại là cái đầu của bà cố Nívea, từ bao nhiêu lâu nay vẫn chưa được chôn cất, đầu tiên vì để tránh tai tiếng lôi thôi, sau đó vì những sự lộn xộn mất trật tự trong ngôi nhà, đã bị mọi người quên lãng. Chúng tôi chôn cái đầu ấy hết sức kín đáo, để mọi người không biết được và khỏi bàn tán xì xào. Sau khi nhân viên nhà đám ma đã đặt Clara vào quan tài và sửa soạn căn phòng thành một phòng tang, với rèm che và giải băng đều một màu đen, những ngọn nến và một bàn thờ đặt tạm trên chiếc đàn dương cầm, Jaime và Nicolás mới đặt thêm vào trong quan tài đầu bà Nívea, cái đầu bây giờ chỉ còn như một thứ đồ chơi màu vàng vọt, thật kinh khủng, để cho bà cố được nằm nghỉ bên cạnh người con gái yêu của bà.
Đám tang của Clara là một sự kiện lớn. Ngay chính tôi cũng chẳng thể giải thích nổi cho mình hiểu do đâu mà có nhiều người cảm thấy đau khổ trước cái chết của Clara mà tới để đưa đám bà đông đến thế. Tôi đâu biết bà ấy đã quen biết hầu như tất cả mọi người. Họ đến từng toán, từng toán dài vô tận, diễu hành tới nắm chặt lấy bàn tay tôi chia buồn, và cả một cái đuôi dài bằng một dãy xe hơi cản trở cả giao thông và bịt kín cả một lối vào nghĩa trang tới đưa đám, lại cả những đoàn đại biểu, những người nghèo khổ, những đoàn học sinh, những đại biểu công đoàn, những nữ tu sĩ, những trẻ mắc bệnh si ngốc, những người lang thang và những nhà tinh thần học. Hầu hết tá điền ở đồn điền Ba Cô Maria cũng làm một cuộc hành trình bằng xe camiông và bằng xe lửa, có người lần đầu tiên đến tận thủ đô, để dự đám tang vĩnh biệt bà. Trong đám đông quần chúng đó tôi trông thấy Pedro García, con người mà đã bao nhiêu năm nay tôi chưa từng gặp lại. Tôi lại gần để chào ông ta, nhưng ông không đáp lại cử chỉ của tôi. Ông ấy cúi đầu bước lại gần nấm huyệt còn mở rộng và tung trên quan tài của Clara một bó hoa rừng đã gần héo, thành ra có cái vẻ như hoa hái trộm từ một vườn hoa xa lạ nào. Ông ta khóc.
Alba tay nắm tay tôi, dự vào mọi việc trong đám tang. Nó trông thấy người ta hạ chiếc quan tài xuống lỗ huyệt tạm thời mà chúng tôi có được, nghe những bài diễn văn bất tận khen ngợi mãi những đức hạnh duy nhất mà bà nó không hề có, và khi về đến nhà, nó chạy vào ẩn kín dưới tầng hầm để chờ đợi linh hồn Clara về chuyện trò với nó theo như bà đã hứa. Tôi tìm nó và gặp cháu đang nằm ngủ trên tấm da con Barrabás, miệng nhoẻn cười.
Đêm đó tôi không sao ngủ được. Trong tâm trí, hai tình yêu trong cuộc đời tôi luôn luôn quấn quít lẫn lộn như chộn vào làm một: Rosa, người đẹp tóc xanh, và Clara, người sáng suốt, hai chị em mà tôi đều yêu quý. Đến tảng sáng tôi quyết định: nếu đã không có thể giữ được cả hai trong cuộc sống, ít nhất họ sẽ đi cùng tôi khi chết, cho nên tôi xé một tờ giấy trên bàn viết, phác họa một lăng mộ thật xứng đáng, thật sang trọng bằng đá hoa cương Italia màu hồng, với hai bức tượng cũng bằng thứ đá hoa cương ấy của Rosa và của Clara, có cánh như những cô tiên, bởi vì thực ra hai chị em đã là tiên và sẽ là tiên. Tại lăng mộ đó, một ngày kia tôi sẽ được chôn cất nằm giữa hai người.
Tôi muốn chết càng sớm càng hay, vì cuộc sống không có Clara bên cạnh chẳng còn nghĩa lý đối với tôi nữa. Tôi đâu biết rằng trên cuộc đời này tôi còn nhiều việc phải làm. May ra Clara lại có thể trở về, hoặc bà ấy chẳng bao giờ đã hoàn toàn rứt bỏ ra đi. Đôi lần tôi nghĩ có lẽ tuổi già đã làm cho bộ óc tôi lẫn lộn, và không thể quên rằng tôi đã chôn cất cho bà ấy từ hơn hai mươi năm trước. Tôi ngạc nhiên thấy mình đi đến chỗ trông thấy những hồn ma, như thể một ông già ngớ ngẩn. Nhưng những sự nghi hoặc đó tiêu tan khi tôi trông thấy bà ấy đi ngang bên cạnh, và nghe thấy tiếng cười của bà ấy trên sân cảnh, tôi biết bà ấy ở bên cạnh tôi, đã tha thứ cho tất cả những hành động vũ phu của tôi ngày xưa, và bà ấy đã ở gần tôi như chưa bao giờ Clara gần tôi như vậy. Bà ấy vẫn sống và ở bên tôi. Ôi Clara, vô cùng sáng suốt...
Cái chết của Clara đã đảo lộn hoàn toàn cuộc sống trong ngôi nhà lớn ở góc phố. Thời gian đã thay đổi. Bà ấy mất, tất cả thực khách và những linh hồn ma quái cũng đều bỏ ra đi, kéo theo cả niềm vui sáng lạn luôn luôn được Clara duy trì ở trong nhà, bởi bà ấy không cho rằng cuộc đời là một Thung Lũng, Đau Thương, mà ngược lại, là một trò đùa vui của Chúa, vì vậy thật là ngớ ngẩn nếu coi nó như một tồn tại nghiêm trang, khi mà Thượng Đế không định làm như vậy. Alba nhận thấy sự đổi thay tàn tạ ngay từ những ngày đầu. Cô bé nhận thấy nó tiến lên chầm chậm, nhưng rõ ràng không cưỡng được. Cô nhận thấy nó trước tất cả mọi người, qua những bông hoa úa héo đi trong bình hoa, tỏa lên một mùi thơm ngòn ngọt và buồn nôn, cho tới khi những cánh hoa khô quắt, lá rụng hết, rơi xuống sàn, chỉ còn lại trong bình những thân cành ủng thối, mà rất lâu sau đó cũng chẳng có ai vất bỏ. Alba không hái hoa trong vườn để trang điểm cho căn nhà nữa. Về sau những cây hoa cũng chết cả vì chẳng có ai nhớ đến việc tưới tắm và chuyện trò với chúng như Clara đã làm trước kia. Bày mèo cũng lặng lẽ ra đi y như khi chung kéo đến hoặc sinh ra trên những ngóc ngách của mái nhà. Esteban Trueba mặc quần áo màu tang, và vào một đêm đã chuyển từ cái tuổi đã chín của một con người mạnh khỏe, sang cái tuổi già lom khom, nhạt nhẽo và nói lắp bắp chẳng ra lời, cái tuổi tuy vậy vẫn chưa đủ sức để làm cho tính cáu giận của ông dịu bớt. Ông mặc đồ tang nghiêm chỉnh cho tới hết những ngày còn lại của cuộc đời, ngay cả khi cái lối mặc tang như vậy đã lỗi thời chẳng mấy ai còn theo, ngoài những người nghèo vẫn buộc vào cánh tay một mảnh băng đen tỏ ra dấu hiệu mặc đồ tang tưởng nhớ người đã chết. Ông đeo một túi nhỏ bằng da đê, quai bằng sợi xích nhỏ bằng vàng, đặt trong lần áo lót, sát vào da ngực. Đó là mấy chiếc răng giả của Clara mà ông cho rằng nó đem lại cho ông điềm lành và được giải tội. Không còn Clara, những người còn lại trong gia đình cảm thấy họ đã mất cái lý lẽ để sống bên nhau và thấy hầu như chẳng còn gì để mà chuyện trò cùng nhau nữa. Esteban Trueba thấy điều duy nhất còn giữ được ông ở lại ngôi nhà là sự có mặt của đứa cháu gái ông.
Những năm sau đó, cùng với thời gian trôi đi, ngôi nhà dần dần trở thành một đống hoang tàn. Không còn ai trông nom săn sóc cho khu vườn, tưới tắm cho cây hoa, hoặc xén rẫy cho sạch cỏ, đến độ nó như bị chìm nghỉm trong lãng quên, bị lấn chiếm bởi chim muông và cỏ dại. Khu vườn hoa mà Esteban Trueba kiến thiết theo đường nét kỷ hà, đúng như mẫu của những khu vườn hoa của các lâu đài cổ Pháp, cả cái khu kỳ tuyệt mà trước kia Clara ngự trị và xây dựng nên một cách tùy hứng giữa nơi sum suê hoa lá và ríu rít chim muông, tất cả đều dần dần tàn tạ, rữa héo, chìm ngập trong cỏ dại. Những bức tượng mù và những vòi phun nước bị lá khô, phân chim và rêu xanh chẹn tắc. Những dàn hoa giờ đây gẫy đổ, bẩn thỉu làm nơi che cho côn trùng ẩn náu và đống rác cho những nhà ở lân cận. Cả khu vườn trở nên một vùng bụi gai rậm rạp của một thị trấn bỏ hoang, muốn đi qua phải dùng đến mã tấu phát quang để mở lối. Những bụi cây cảnh mà trước kia tỉa xén theo phong cách ba-rốc cuối cùng đi đến một kết thúc tuyệt vọng, bị sên ốc và cỏ cây thối rữa phá hư. Trong mấy phòng khách, rèm cửa dần dà tuột rơi khỏi vòng móc treo lơ lửng như những chiếc váy lót của bà già, đầy bụi bậm và phai lạt. Những chiếc bàn ghế mà trước kia Alba dùng chơi trò nhà cửa, hầm hố và thường nhẩy lên cưỡi, giờ đây đã biến thành những thây ma, những bộ xương toàn lò so, cho đến cả khung mặt nguyệt lớn của phòng khách lớn cũng đã mất cái giá trị tuyệt vời của khung cảnh đồng quê kiểu Versailles vì đã bị Nicolás và Alba dùng làm đích phóng phi tiêu. Gian bếp đầy vết mỡ và bồ hóng, lổng chổng những bình, lọ rỗng tuếch và hàng chồng báo, tại đó đã không còn nấu những liễn thịt ướp sữa nướng và những món hầm thơm phức thuở xưa. Người trong gia đình ngày nào cũng vậy đành chịu ăn mỗi một món đậu hầm và cơm nấu với sữa, vì chẳng ai dám chống đối lại với cái đội các mụ bếp khó chịu, cau có và rất lộng hành thay phiên nhau ngự trị nhà bếp giữa những soong, chảo đen nhẻm vì chẳng chịu lau chùi. Những chấn động địa chất, cộng những tiếng dập cửa vì những cú ba-toong của Esteban Trueba đã làm vỡ nứt những kẽ lớn trên bốn bức tường, và những mảnh vỡ trên bục cửa, những chiếc lề cửa chớp bung ra mà chẳng có ai nghĩ đến việc tu sửa lại. Vòi nước bắt đầu chảy nhỏ giọt, những đường ống dẫn bị dò rỉ, ngói trên mái vỡ lỗ chỗ, tường loang đầy những vết ẩm mốc xanh xanh. Chỉ riêng có gian phòng che phủ lụa xanh của Clara vẫn còn giữ được nguyên vẹn y như trước. Bên trong vẫn còn bàn ghế gỗ mầu hung, hai bộ quần áo váy bằng vải bông trắng, chiếc chuồng sơn ca rỗng tuếch, chiếc giỏ đựng mấy món đồ thêu còn dang dở, và những quân bài bói toán, chiếc bàn quả tim gọi hồn, cùng những tập vở ghi chép cuộc đời trong suốt năm mươi năm, mà một thời gian dài sau đó, trong nỗi cô đơn của ngôi nhà trống rỗng và sự lặng lẽ của những người chết và những hồn ma, tôi ngồi sắp xếp lại và đọc một cách trân trọng để tái dựng nên câu chuyện này.
Jaime và Nicolás dần dần mất sự quan tâm của họ đối với gia đình: và chẳng có lòng thương hại bố, ông già trong nỗi cô đơn đã cố tìm cách xây dựng một tình bạn với chúng để lấp cho đầy chỗ trống tạo nên bởi những quan hệ xấu trong cuộc đời của họ, nhưng cố gắng của ông cũng vô ích. Hai anh em họ vẫn sống trong ngôi nhà vì không có nơi nào thích hợp hơn để họ có thể ăn uống và ngủ nghê không phải lo lắng, nhưng họ sống trong nhà như thể những bóng đen hờ hững đi qua, không dừng lại để nhận thấy rõ nó đang tan rã. Jaime thực hiện nghề nghiệp đã học của anh với khuynh hướng của nhà truyền đạo, và với cái kiên trì như của cha anh dùng để lôi đồn điền Ba Cô Maria ra khỏi cảnh bị bỏ hoang để vén xây dựng nên cả một gia sản lớn; anh dành hết sức lực làm việc tại bệnh viện và chăm sóc cho những người nghèo trong những giờ nghỉ của mình không lấy một xu.
– Con là một anh chàng lạc lõng, con ạ - Esteban Trueba thở dài - Con không hiểu biết gì về thực tế. Hãy còn chưa nhận thấy cuộc đời là thế nào. Con đặt cuộc vào những giá trị không tưởng, không thể có trong cuộc sống.
– Giúp đỡ người là một giá trị có thực cha ạ.
– Không, sự từ thiện, giống như cái chủ nghĩa xã hội của con, là một chuyện bịa đặt của những kẻ yếu đuối dùng để đánh gục và sử dụng những người khỏe mạnh.
– Con không tin được cái lý thuyết về kẻ mạnh người yếu của cha - Jaime đáp lại.
– Trong thiên nhiên bao giờ cũng như vậy đấy. Chúng ta đang sống trong một khu rừng mà.
– Vâng, và những người làm ra luật lệ hiện nay là những người suy nghĩ giống hệt như cha, nhưng thực ra không phải bao giờ cũng như thế cả.
– Sẽ như thế, vì chúng ta là những người chiến thắng. Chúng ta biết xoay xở phát triển trong cuộc đời và nắm giữ được quyền lực. Hãy nghe cha con ạ, phải biết điều hợp lý và lập lấy một bệnh viện tư, ta sẽ giúp cho con. Nhưng, hãy cắt đứt với những tên xã hội lầm lạc của con đi! - Esteban Trueba thuyết lý nhưng không có chút nào kết quả.
Sau khi Amanda đã biến dạng khỏi cuộc đời của Nicolás, anh chàng tự ổn định mình một cách xúc động. Những kinh nghiệm sống của anh trong thời gian ở Ấn Độ đã để lại cho anh cái ưa thích những công việc tinh thần. Anh từ bỏ những ý định buôn bán phiêu lưu kỳ quặc đã từng xáo động sức tưởng tượng của anh trong những năm đầu của thời kỳ thanh niên, cũng như cái mong muốn được ngủ với tất cả những người phụ nữ, mà anh gặp đi ngang qua trước mặt, và lao cả tâm hồn sức lực vào cái ao ước mà bao giờ anh cũng có là được gặp Thượng Đế bằng những con đường ít giống với thông thường. Vẫn với cái ma lực quyến rũ mà trước kia anh dùng để có được những cô học trò đến học điệu nhẩy flamenco, bây giờ anh dùng để tập hợp quanh mình một số tín đồ mỗi ngày một nhiều. Phần đông là những thanh niên đã chán ngấy cuộc sống sung túc, họ đi lang thang như Nicolás để tìm một thứ triết lý cho phép họ tồn tại mà không cần tham dự vào những biến động xáo trộn của thế gian. Họ tập hợp thành một nhóm sẵn sàng tiếp thụ những hiểu biết lâu đời mà Nicolás đã học tập được tại phương Đông. Thời kỳ đó, họ tập hợp trong những căn phòng bỏ hoang tại phía sau ngôi nhà, ở đó Alba phân phối cho họ những nắm hạt dẻ và đun cho họ những ấm nước lá cỏ, trong lúc họ ngồi tham thiền trầm tư, chân sắp bằng tròn. Khi Esteban Trueba biết rằng ở phía sau ngôi nhà ông vẫn thường đi lại những người đồng thời và những người anh hùng thời đại thở hít bằng bụng và sẵn sàng vất bỏ quần áo trước một đề nghị chẳng thiết tha, thì ông già mất bình tĩnh giơ ba-toong đuổi tất cả và dọa sẽ trình cảnh sát. Lúc đó Nicolás mới nhận ra rằng nếu chẳng có tiền thì không thể tiếp tục giáo dục Sự Thật cho mọi người, nên anh bắt đầu thu những món tiền học phí nho nhỏ. Với số tiền đó anh có thể thuê một căn nhà, tại đó anh thiết lập học viện những nhà sáng suốt của mình. Do những yêu cầu hợp pháp và sự cần thiết phải có một cái tên pháp lý, anh liền đặt tên cho nó là Viện Đồng Tâm cùng Cái Không Không (IDUN). Nhưng cha anh vẫn không sẵn lòng để cho anh yên, vì những môn đồ của anh bắt đầu xuất hiện trên mặt báo với những tấm ảnh đầu cạo trọc, đóng khố, vẻ mặt ngớ ngẩn, làm trò bêu riếu tên tuổi nhà Thượng nghị sĩ Trueba. Vừa được biết rằng nhà tiên tri của Viện Đồng Tâm với Cái Không Không là con trai của Thương nghị sĩ Esteban Trueba, phe đối lập liền triệt để khai thác vấn đề đó để riễu cợt ông, sử dụng những hoạt động tinh thần của đứa con trai làm vũ khí chính trị chống lại nhà nghị sĩ đẻ ra hắn. Esteban Trueba lạnh lùng kiên nhẫn chịu đựng cho tới một hôm trông thấy cô cháu gái Alba đầu cạo trọc như một hòn bi trên bàn bi-a, đang ngồi lẩm nhẩm không mệt những lời kinh Om, thì cơn lôi đình của ông bỗng kinh khủng nổi lên như chưa bao giờ từng thấy. Ông bất thần kéo theo hai tên giết người thuê, xục vào Viện Đồng Tâm cùng Cái Không Không của con trai, đập phá tan hoang hết những món đồ gỗ ít ỏi trong đó, và đang sắp đập luôn cả những con chiên hiền lành đương thời thì một lần nữa ông già lại nhận thấy mình đã quá tay, liền hạ lệnh cho hai tên côn đồ thôi đập phá và ra chờ ông ở ngoài cửa. Còn một mình với con trai, ông đã ghìm được cơn điên giận dữ dội trong người, để làu bàu bằng một giọng đã được kiềm chế rằng ông đã chán ngấy những trò hề của anh.
– Ta không muốn trông thấy mặt mày trước khi cháu gái ta mọc lại tóc! - ông nói tiếp trước khi đập cánh cửa bước ra.
Ngày hôm sau Nicolás phản ứng. Anh bắt đầu bằng thu dọn tất cả đống đổ nát mà hai tên côn đồ cho thuê đến đập phá, rồi lau chùi sạch sẽ căn nhà, vừa làm vừa thở một cách điều hòa mà theo nhịp để tống khứ ra ngoài hết cơn điên dại trong người và thanh thoát tinh thần. Sau đó, cùng với bọn đồ đệ, mỗi người chỉ vận độc một chiếc khố che hạ bộ, mang theo biểu ngữ đòi tự do tín ngưỡng và tôn trọng quyền công dân, họ kéo nhau đến tận hàng rào sắt bao quanh nhà Quốc Hội. Tới đó họ lôi ra những chiếc sáo gỗ, chuông nhạc và mấy chiếc cồng tự tạo đập gõ inh ỏi khiến cho người đi lại phải dừng xem. Khi họ đã tụ tập được một số đông công chúng dừng lại xem, Nicolás liền cởi chiếc áo và, trần truồng như một đứa bé con, nằm lăn ra giữa đường phố, hai cánh tay giang rộng thành chữ thập. Rồi tức thì tiếng bánh xe phanh rít, tiếng tù và, tiếng la ó, và tiếng còi nổi lên ầm ĩ, và tiếng báo động đó bay vào tận trong sảnh đường của tòa lâu đài. Trong đại sảnh của Thượng Viện cuộc thảo luận về quyền của những nhà địa chủ và việc rào giây thép gai những con đường địa phương phải dừng lại, và các vị nghị sĩ bước ra ban công để hưởng cái thú ngắm cái quang cảnh lạ lùng đang diễn bởi con trai Thượng nghị sĩ Esteban Trueba, đương nghêu ngao tụng những bài kinh châu Á, cơ thể thỗn thộn. Esteban Trueba bước như chạy xuống những bực thang rộng của lâu đài Quốc Hội, lao ra đường phố sẵn sàng để giết cậu con trai, nhưng chưa bước ra khỏi hàng rào sắt ông đã thấy cơn điên giận trong quả tim như nổ tan tành và có một màn mây bưng lấy mắt. Ông ngã lăn xuống đất.
Một toán lính cảnh vệ tới lôi Nicolás đi, còn Thượng nghị sĩ Esteban Trueba thì được một chiếc xe cấp cứu Hồng thập tự đến chở. Cơn ngất của ông kéo dài ba tuần lễ và thiếu chút nữa đã tống ông sang bên kia cuộc đời. Khi ông vừa ra khỏi giường bệnh, liền nắm lấy cổ áo Nicolás, lôi anh ta lên một chiếc máy bay tống anh đi ra nước ngoài, với mệnh lệnh là đến chết cũng không được để ông nhìn thấy mặt. Tất nhiên, ông cho anh tiền nong đầy đủ để có thể thiết lập một cuộc sống lâu dài ở ngoại quốc, vì theo như Jaime giải thích, đó cũng là một cách để tránh cho chú em khỏi phải làm những việc rồ dại khác nó có thể phá hoại uy tín của ông ngay cả ở nước ngoài.
Những năm sau đó nhờ được sự liên lạc thư ín của Blanca với Nicolás, Thượng nghị sĩ Esteban Trueba biết được tin tức của con chiên ghẻ của gia đình. Ông biết được Nicolás đã xây dựng trên đất Mỹ một Viện Đồng Tâm với Cái Không Không với thắng lợi rực rỡ đến độ đã trở nên giầu có mà không cần phải cưỡi khinh khí cầu bay lên không, hoặc mở hiệu bán bánh mỳ kẹp thịt. Cuối cùng anh cùng lũ môn đồ đã có thể đầm người tắm trong bể bơi riêng xây bằng sứ mầu hồng, sống trong sự kính nể của dân chúng, phối hợp một cách không hề có dự tính trước, việc tìm kiếm Thượng Đế với việc kinh doanh phát đạt làm giàu. Esteban, đương nhiên chưa bao giờ tin vào chuyện đó.
Thượng nghị sĩ đợi cho tóc của cô cháu gái mọc đều, để không ai có thể nghĩ rằng cô bé bị chốc đầu, lúc đó ông mới đích thân đưa cháu đến ghi tên theo học tại một trường trung học cho thiếu nữ của người Anh mở, vì ông vẫn cho rằng đó là nơi có phương pháp giáo dục tốt nhất, mặc dù đối với hai đứa con trai ông, kết quả học tập ở đấy lại thật trái ngược. Blanca đồng ý với ông vì chị biết cả một quần thể tinh cầu trên tấm bản đồ thiên văn dù có thuộc lòng cũng không đủ để cho Alba có thể tiến thân trong cuộc đời. Tại trường trung học, Alba học tập ăn rau xanh nấu chín và cơm cháy, biết cái lạnh ở ngoài sân, học hát quốc ca và học kiêng tất cả những thói hợm hĩnh của cuộc đời, trừ sự hợm hĩnh thuộc về lĩnh vực thể thao. Người ta dạy cô bé đọc Kinh Thánh, đánh quần vợt và đánh máy chữ. Môn học cuối cùng này là môn duy nhất có ích đối với cô bé trong suốt mấy năm dòng mà cô phải học tập tiếng ngoại quốc. Đối với Alba, từ bé đến lúc đó chưa hề nghe nói đến tội lỗi hoặc những thể thức của các cô thiếu nữ, không biết được giới hạn giữa con người và thần thánh, giữa cái có thể và cái không có thể, và cô vẫn thường trông thấy cậu Nicolás trần truồng đi ngang qua hành lang nhẩy những bước nhẩy của võ sĩ ca-ra-te và cậu Jaime giam mình trong hầm sách, và ông ngoại vung ba-toong đập vỡ những chiếc máy điện thoại và những chậu cây cảnh trên sân cảnh, và bà mẹ cô lẩn đi với chiếc va-li nhỏ kiểu của anh hề, và bà ngoại dùng ý chí sai khiến cho chiếc bàn trái tim gọi hồn chuyển động và dạo nhạc của Chopin không cần phải mở nắp đàn dương cầm, thì những lệ tục của trường trung học khiến cô không chịu được. Cô thấy buồn chán trong lớp học. Trong giờ chơi, cô ngồi vào một só xa nhất và kín đáo nhất ở trong sân để cho khỏi bị trông thấy, và run lên bởi mong muốn được bọn bạn đến rủ chơi đùa, đồng thời cũng thầm cầu khẩn đừng có ai chú ý đến mình làm gì. Mẹ cô bé dặn cô không được nói cho bạn bè những gì mà cô đã trông thấy về sinh chất con người đã được xem trong sách y học của cậu Jaime, cũng không được nói với các cô giáo về những ưu thế của tiếng Esperanto so với tiếng Anh. Dù đã có những lời dặn dò đề phòng đó, bà giám hiệu của trường vẫn phát hiện ra không khó khăn gì ngay từ những ngày đầu, những tính cách quái lạ của cô học trò mới của trường. Bà quan sát cô trong hai tuần lễ và khi thấy những phán đoán của mình đã có sở cứ chắc chắn, bà liền gọi Blanca Trueba tới văn phòng và giải thích bằng cách hết sức lịch sự rằng chị có thể đưa con gái vào học tại một trường trung học của các nữ tu sĩ Tây Ban Nha, tại đó may ra có thể thuần phục được trí tưởng tượng ngớ ngẩn của cô bé và sửa chữa được cho cô sự quá tối ư bất lịch sự, vì cô đã hoàn toàn thoát ra khỏi những giới hạn thông thường của sự đào tạo của người Anh. Nhưng Thượng nghị sĩ Esteban Trueba không sẵn sàng để cho một Miss Saint John vớ vẩn nào đó bịt miệng, và ông dùng đến hết sức mạnh ảnh hưởng của mình để người ta không thể đuổi được cháu gái ông ra khỏi trường học đó. Ông muốn, bằng mọi giá, cháu gái ông phải học được tiếng Anh. Ông tin tưởng chắc chắn về cái ưu thế của tiếng Anh so với tiếng Tây Ban Nha, thứ ngôn ngữ mà ông cho như ngôn ngữ thuộc loại hai, chỉ dùng trong những công việc nội trợ, trong những trò ma thuật và những việc kinh doanh vô ích, chứ không thích hợp với thế giới khoa học và kỹ thuật, nơi mà ông chờ mong Alba thành đạt. Như vậy cuối cùng ông đã chấp nhận - hay là chịu đầu hàng trước làn sóng của thời đại mới dâng lên - rằng một số phụ nữ không phải đều ngu muội, và ông cho rằng Alba, quá vô nghĩa lý để có thể thu hút được một người đàn ông có địa vị cao, nhưng có thể có được một nghề nghiệp và kiếm được miếng ăn trong cuộc sống như thể một người đàn ông. Và điểm đó Blanca ủng hộ cha, bởi chị đã có kinh nghiệm bản thân về những hậu quả của một sự chuẩn bị học hành không tốt để có thể đương đầu được với cuộc sống.
– Mẹ không muốn con nghèo khổ như mẹ, cũng như không muốn con phải dựa dẫm vào một người đàn ông để có được cái ăn trong cuộc đời - chị nói với con gái mỗi khi thấy nó khóc, không muốn đến lớp học.
Người ta không đuổi Alba ra khỏi trường, và như vậy cô bé phải chịu đựng học trong đó mười năm liên tục.
Theo con mắt của Alba, chỉ có mẹ cô, sau khi bà Clara chết, là người duy nhất ổn định vững vàng trong ngôi nhà lớn góc phố, ngôi nhà đã trở nên một con tàu lênh đênh trôi nổi. Blanca chiến đấu chống lại sự tan rã và suy tàn của ngôi nhà như một con sư tử cái dữ tợn, nhưng rõ ràng chị đã thua trong trận chiến đấu chống lại bước tiến của sự hủy hoại, vì chỉ có mình chị định cố sức làm cho ngôi nhà có được cái hình dáng của một căn hộ gia đình. Thượng nghị sĩ Esteban Trueba vẫn sống trong ngôi nhà, nhưng ông đã thôi không mời bạn bè và những người có quan hệ chính trị đến nhà nữa, ông đóng cửa các phòng khách, chỉ còn dùng có phòng thư viện và phòng ngủ. Ông không nghe và nhìn thấy gì về những yêu cầu cần thiết của cuộc sống gia đình. Rất bận bịu với công việc chính trị và kinh doanh, ông du hành đây đó luôn luôn, dốc tiền ra cho những chiến dịch tranh cử mới, mua thêm ruộng đất và máy kéo, nuôi thêm ngựa đua, tích trữ đường và giấy. Ông không nhận ra rằng những bức tường của ngôi nhà lớn đang thèm khát một lớp sơn mới, những giường tủ, bàn, ghế đã lung lay, và căn bếp đã biến thành một chuồng lợn bẩn thỉu. Ông cũng chẳng thấy những tấm áo len nặng chịch của cô cháu gái, những bộ váy áo cũ kỹ hoặc đôi bàn tay tàn tạ bởi công việc nội trợ và nặn nhồi đất sét của con gái. Ông xử sự như vậy không phải vì hà tiện, mà đơn giản chỉ vì đối với ông gia đình đã thôi không còn phải là điều quan trọng. Đôi lần sự lơ đãng của ông nghiêng ngả, và ông về nhà với một món quà tặng kỳ lạ, tuyệt diệu cho cô cháu gái, món quà chỉ làm tăng thêm sự tương phản giữa cái giầu có vô hình của những tài khoản của ông đặt tại ngân hàng và sự thanh đạm khắc khổ của ngôi nhà. Ông giao cho Blanca những món tiền không nhất định, nhưng không bao giờ đầy đủ để chi cho việc điều hành mọi công việc nội trợ trong ngôi nhà lớn lộn xộn và tối tăm, bên trong hầu như trống rỗng, chỉ có những luồng gió bay đi thổi lại gặp nhau trong đó cái chỗ ở ngày xưa đã hoàn toàn biến tính. Blanca không bao giờ đủ tiền chi tiêu trong nhà, chị phải vay mượn Jaime để sống, và thêm nữa phải cắt ngân quỹ để chắp vá chỗ này chỗ khác, đến cuối tháng bao giờ cũng có một khoản chi khá lớn còn nợ lại, và món nợ chồng chất mãi lên, đến độ chị phải quyết định đi tới khu phố những nhà buôn bán kim hoàn người Do Thái để bán một vài món đồ trang sức mà một phần tư thế kỷ trước đây chúng đã được mua ở chính chốn này, mà Clara đã cất giấu chúng trong một chiếc tất len để lại cho chị thừa hưởng.
Ở trong nhà, Blanca vận chiếc tạp dề và đi dép, lẫn lộn với một số nhỏ người hầu còn ở lại giúp việc, còn khi đi ra phố chị mặc bộ đồ đen độc nhất đã là đi là lại nhiều lần, và bên ngoài khoác chiếc áo lụa trắng. Sau khi ông ngoại góa vợ, ông không chú ý chăm sóc Alba, cô cháu gái phải mặc những quần áo của mấy người chị em họ để lại, nên cái áo rét khoác ngoài của cô như thể áo capote của nhà binh rộng thùng thình, và những bộ váy áo thì lại ngắn cũn cỡn và chật cứng. Jaime muốn làm một cái gì đó để giúp đỡ hai mẹ con chị, nhưng rồi lương tâm của anh lại chỉ dẫn cho anh tới ý nghĩ thấy mang tiền kiếm được để mua thức ăn cho những người đang đói còn tốt hơn là dùng nó để sắm sửa đồ đạc mặc sang trọng cho chị và cháu gái.
Sau khi bà chết, Alba bắt đầu có những cơn ác mộng khiến cô choàng tỉnh kêu thét lên và phát sốt. Cô mơ thấy tất cả mọi người trong gia đình đều chết hết, chỉ còn lại mình cô đi lang thang khắp ngôi nhà, không có ai bầu bạn ngoài những hồn ma, nhợt nhạt đi đi lại lại trong những dãy hành lang. Jaime gợi ý nên chuyển cháu gái sang ở cùng buồng với Blanca để cho nó được yên tâm hơn. Từ khi cô bé bắt đầu ở chung phòng với mẹ, cô bé luôn luôn nóng chờ đợi giờ phút đi nằm. Cuộn tròn trong tấm chăn mỏng, cô nhìn mẹ kết thúc một ngày bằng một số cử chỉ quen thuộc trước khi chui vào trong chăn. Blanca lau sạch mặt bằng loại kem Harem, một thứ mỡ màu hồng có hương thơm của hoa hồng, loại kem đã nổi tiếng trong việc làm cho da dẻ phụ nữ có thể trở thành huyền ảo; rồi mẹ chải đi chải lại bằng chiếc bàn chải nhỏ hàng trăm lần món tóc dài mầu hạt dẻ đã bắt đầu có điểm một vài sợi bạc mà chỉ riêng Blanca biết, còn người ngoài không ai thấy được. Để đề phòng cảm lạnh nên mùa rét cũng như mùa hè Blanca đều vận một chiếc váy lót bằng len mà chị đan trong những giờ rảnh việc. Khi trời mưa chị đeo găng tay cho dịu bớt cái rét Nam cực thấm vào đến tận xương qua làn ẩm ướt của đất sét, mà mọi thứ thuốc tiêm của Jaime và những mũi châm cứu của Nicolás đều vô hiệu lực. Alba ngắm nhìn mẹ đi đi lại lại trong căn phòng, chiếc áo lót rộng lòe xòe quanh cơ thể, tóc buông xõa phủ lên tấm áo sạch sẽ làn hương thơm nhè nhẹ, hòa với làn hương của lượt kem Harem, đắm mình trong một cuộc độc thoại nội tâm không đầu không cuối, trong đó thỉnh thoảng xen kẽ những lời phàn nàn vì giá rau quả lên cao, hàng lô những việc khó chịu, rồi nỗi mệt nhọc phải gánh cả cái gánh nặng của ngôi nhà, và những chuyện ly kỳ thơ mộng cùng với Pedro García Con, con người mà chị tưởng tượng như đang lơ lửng ở giữa những tầng mây buổi hoàng hôn, hoặc nhớ đến anh giữa những cánh đồng lúa mì vàng rực của đồn điền Ba Cô Maria. Làm xong công việc lau rửa hóa trang thường lệ đó rồi, Blanca chui vào trong chăn, tắt đèn. Chị đưa tay qua lối ngăn cách giường nhau, cầm lấy tay con gái và kể cho con nghe những câu chuyện trong các cuốn sách huyền bí đựng trong những chiếc hòm kỳ lạ của ông cậu Marcos, nhưng trí nhớ tồi của chị đã biến chúng thành những câu chuyện thật mới mẻ. Cứ như vậy Alba biết có một ông hoàng xưa đã ngủ trăm năm, những cô tiểu thư chiến đấu sáp lá cà với những con rồng, một con chó sói lạc lõng trong rừng bị một đứa con gái mổ bụng, moi ruột ra. Khi nào Alba muốn nghe lại những câu chuyện hay lạ đó, Blanca không thể nào kể lại được đúng, vì chị đã quên cả, và cũng vì vậy, cô bé có thói quen ghi chép những câu chuyện mẹ kể. Sau dần dà cô cũng ghi chép lại cả những chuyện cho là quan trọng, y như thể ngày xưa bà Clara của cô vẫn thường làm.
Công việc xây dựng lăng mộ bắt đầu tiến hành ngay sau khi Clara chết, nhưng tiến độ việc làm chậm trễ đến gần hai năm, bởi lẽ nó được bổ xung thêm nhiều chi tiết sang trọng và đắt tiền mới nữa: những bia mộ viết bằng chữ Gothic mạ vàng, một vòm mái bằng thủy tinh để cho mặt trời soi ánh nắng vào bên trong và một cơ cấu kiến trúc sao chép mẫu những vòi nước phun kiểu La Mã, cho phép tưới tắm liên tục và điều độ một khu vườn tí hon ở bên trong lăng mộ, tại đó có trồng hoa hồng và hoa trà, hai thứ hoa yêu thích của hai chị em gái đã chiếm trọn vẹn trái tim tôi. Mấy bức tượng trở nên cả một vấn đề. Tôi đã bác bỏ một số đề án, vì tôi không thích mấy hình tượng tiên nữ làng nhàng, mà phải là tượng của Rosa và Clara, với đầy đủ mặt mũi, bàn tay và kích thước to bằng người thật. Một nhà điêu khắc người Uruguay đã làm thỏa mãn ý thích của tôi và những bức tượng cuối cùng được tạo ra đúng như tôi muốn. Khi tất cả đã hoàn thành, tôi lại gặp phải một trở ngại không ngờ tới: tôi không được phép chuyển di hài của Rosa tới lăng mộ mới, vì gia đình họ hàng del Valle phản đối. Tôi ra sức thuyết phục họ bằng tất cả mọi thứ, từ biện luận đến quà biếu và sức ép, và dùng đến cả cái quyền lực chính trị nữa, nhưng tất cả đều vô ích. Những anh chị em vợ tôi một mực không thay đổi ý kiến. Tôi nghĩ có lẽ họ đã biết việc cái đầu lâu của Nívea, và đã bực bội ghét tôi, vì đã để nó mãi trong tầng hầm lâu đến như vậy. Trước sự bướng bỉnh của họ, tôi đành gọi Jaime đến bảo nó sẵn sàng để theo tôi tới nghĩa trang ăn trộm xác chết của Rosa. Nó không tỏ một dấu hiệu ngạc nhiên sửng sốt nào cả.
– Đã chẳng tử tế được với nhau, đành phải xấu chơi với nhau vậy - tôi giải thích cho con trai.
Trong những trường hợp như thế này đương nhiên chúng tôi phải tiến hành ban đêm, và đến đút lót mua chuộc anh chàng gác nghĩa trang như thể trước kia tôi đã làm để được ở lại với Rosa đêm đầu tiên cô nằm trong nghĩa địa. Đem theo dụng cụ chúng tôi vào nghĩa trang theo con đường hai bên trồng cây trắc bách diệp, tìm ngôi mộ của họ hàng nhà del Valle và hì hục làm cái việc buồn thảm mở nó ra. Chúng tôi cẩn thận nhấc tấm cửa mộ trong đó có di hài của Rosa và lôi từ trong khoang ra chiếc quan tài trắng, nặng hơn chúng tôi tưởng rất nhiều, cho nên phải nhờ đến sự giúp đỡ của người gác nghĩa trang. Việc làm thật khó nhọc trong nơi chật chội, dụng cụ va vấp dưới ánh sáng lù mù của một ngọn đèn dầu. Sau đó chúng tôi đặt lại nắp mộ để không ai có thể ngờ được bên trong rỗng tuếch. Làm xong chúng tôi đều đẫm mồ hôi. Jaime đã lo xa chuẩn bị từ trước một bi đông rượu mạnh, và chúng tôi mỗi người làm một ngụm để tinh thần thêm phấn chấn. Dù chẳng ai trong chúng tôi mê tín, nhưng cái nghĩa trang đầy cây thập tự, nắp vòm bia mộ này cũng khiến cho chúng tôi mất bình tĩnh. Tôi ngồi bên thành mộ để lấy lại sức và nghĩ mình đã không còn trai trẻ chút nào, di chuyển có chiếc quan tài mà đã loạn nhịp tim và mắt đã thấy đom đóm nở trong bóng tối. Tôi nhắm mắt và hồi tưởng đến Rosa, khuôn mặt tuyệt mỹ, làn da như sữa đặc, mớ tóc như nàng tiên cá đại dương, đôi mắt màu mật ong gây nên những xáo động, đôi bàn tay quấn quít trong vòng tràng hạt sà cừ, và vòng mũ hoa chanh của cô dâu. Tôi thở dài mường tượng đến cái nhan sắc trinh tiết đã chạy khỏi tay tôi và đang ở đây kia, suốt bao nhiêu năm dòng đã chờ đợi tôi tìm đến để mang tới nơi ở xứng đáng với cô.
– Con ạ, chúng ta mở nắp quan tài ra. Ta muốn nhìn lại Rosa - tôi nói với Jaime.
Con trai tôi không cố để khuyên tôi từ bỏ ý định đó vì hẳn biết qua giọng nói của tôi khi tôi đã quyết định thì không thể nào trái được. Chúng tôi vặn cho to ánh lửa đèn dầu, con tôi kiên nhẫn xoáy những chiếc đinh ốc bằng đồng mà thời gian đã làm cho sám đen, rồi sau chúng tôi có thể nâng tấm nắp đậy quan tài nặng như thể bằng chì. Dưới làn ánh sáng của cây đèn dầu tôi trông thấy Rosa, người đẹp, với vòng mũ hoa chanh của cô dâu, với món tóc xanh, với sắc đẹp không hề thay đổi, y như tôi đã trông thấy rất nhiều năm trước, nằm trong chiếc quan tài trắng đặt trên chiếc bàn lớn trong phòng ăn của bố mẹ vợ tôi. Tôi đứng lặng mê mẩn nhìn Rosa, như bị thôi miên, không lấy làm kinh ngạc thấy thời gian không hề xâm phạm đến thi thể cô, vì cô vẫn là con người đẹp trong những giấc mơ của tôi. Tôi cúi mình đặt một cái hôn trên mặt tấm kính phủ trên khuôn mặt Rosa, một chiếc hôn trên đôi môi xanh tái của người tôi yêu vô cùng ấy. Đúng lúc đó một cơn gió nhẹ nổi lên chạy trên ngọn hàng cây trắc bách diệp, phản bội lọt vào quan tài qua một kẽ hở từ trước vẫn kín bưng, và chỉ trong một thoáng người yêu không biến đổi của tôi kia, tự tiêu tan như một sự diệu kỳ, trở thành một đống bụi nhẹ nhàng, mầu xám. Khi tôi ngửng lên và mở mắt, trên môi còn đọng chiếc hôn lạnh giá, thì đã không còn thấy Rosa người đẹp, mà trong quan tài chỉ còn có chiếc đầu lâu với những lỗ sâu trống rỗng, một vài mảnh da mầu vàng ngà dính chặt trên đôi gò má, và một bím tóc như chiếc bờm ẩm ướt quanh sau gáy.
Jaime và người gác nghĩa trang vội vàng đậy nắp quan tài, đặt Rosa lên một chiếc xe kéo tay, mang thi thể cô đến nơi đã dành cho cô, bên cạnh Clara, trong ngôi lăng mộ bằng đá hoa cương Italia mầu hồng. Tôi ngồi lặng trên một ngôi mộ bên con đường giống hai hàng cây trắc bách diệp, ngắm nhìn mặt trăng.
– Férula nói đúng - tôi nghĩ bụng - Mình chỉ còn lại một mình cô đơn, và cả cơ thể lẫn tinh thần mình đang teo bé lại. Mình chỉ còn thiếu có cái chết như một con chó.
Thượng nghị sĩ Esteban Trueba đấu tranh chống bọn kẻ thù chính trị của ông, họ đang mỗi ngày một tiến thêm trên con đường nắm được quyền lực. Trong lúc những nhà lãnh đạo khác của Đảng Bảo Thủ béo đẫy ra, già yếu đi và mất tất cả thì giờ vào những cuộc thảo luận tầm phào vô bổ liên miên vô tận thì Esteban Trueba dốc sức vào làm việc, nghiên cứu và đi lại từ Bắc xuống Nam suốt đất nước trong một chiến dịch vận động cá nhân, liên miên không bao giờ kết thúc, không kể gì đến tuổi tác và những tiếng kêu thầm lặng của những gióng xương thương tật trong cơ thể mình. Người ta bầu lại ông làm Thượng nghị sĩ trong mỗi lần bầu cử Quốc Hội. Nhưng ông không quan tâm đến quyền lực, giầu sang hoặc uy tín. Cái ám ảnh ông chỉ là sự tàn phá của cái mà ông gọi là “bệnh ung thư Marxist” nó đang thấm dần dần vào trong đất nước.
– Cứ nhấc một viên đá lên là thấy xuất hiện một tên cộng sản! - ông nói.
Không có ai tin ông về điều đó. Ngay cả những người cộng sản. Họ chế riễu ông một chút về những cơn điên khùng cáu kỉnh của ông, về cái hình dáng con quạ đen tang tóc của ông, về chiếc ba-toong vô niên biểu và những lời dự đoán đến thời kỳ tận thế của ông. Khi ông khuơ lên trước mũi những bạn đồng sự với ông những bản thống kê và những kết quả thực tiễn của những cuộc bầu cử mới đấy, họ sợ hãi cho đó là những lời rồ dại của một ông già.
– Tới ngày mà chúng ta không có thể thọc tay vào hòm phiếu trước khi người ta kiểm phiếu, chúng ta sẽ đi tiêu thôi! - Esteban Trueba đưa ra ý kiến đó.
– Không có ở đâu mà bọn Marxist thắng cử vì phiếu bầu của nhân dân. Ít nhất chúng cũng cần có một cuộc cách mạng, nhưng trong đất nước này, những việc đó không thể xẩy ra được - người ta đáp lại ông.
– Cho tới khi xẩy ra được! - Esteban Trueba mãnh liệt bảo vệ ý kiến.
– Hãy bình tĩnh, người ạ. Chúng tôi không cho phép điều đó qua đâu - người ta an ủi ông - Chủ nghĩa Marx không có lấy một ly nào cơ hội để có thể xẩy ra ở châu Mỹ La-tinh. Ông bạn không thấy là ông không quan sát kỹ đến mặt huyền ảo của mọi sự vật sao? Đó là một chủ nghĩa vô thần, thực tế và biến động. Cái đó ở đây không thể dành thắng lợi được.
Ngay cả đại tá Hurtado, người chuyên lùng tìm bọn kẻ thù của tổ quốc ở khắp mọi địa hạt, cũng không cho rằng bọn cộng sản là một mối nguy hiểm. Hơn một lần đại tá đã chỉ cho Esteban Trueba thấy Đảng Cộng Sản chỉ bao gồm có bốn tên quèn chẳng có nghĩa lý gì đứng về mặt thống kê, và bọn chúng chịu sự điều khiển của những người lãnh đạo ở Moscow một cách ngu tín xứng đáng được tuyên dương.
– Moscow ở xa lắc xa lơ mít tịt về những điều ở đây - đại tá Hurtado bảo ông. - Họ không hiểu biết tí gì về những điều kiện của đất nước chúng mình, chứng cớ là họ càng đi càng lạc hơn cả Cô Bé Quàng Khăn Đỏ. Mới đây thôi họ xuất bản một bản tuyên ngôn kêu gọi nông dân, thủy thủ và những người India hãy thành lập một xô-viết dân tộc đầu tiên, điều đó, xét về mọi quan điểm, chỉ là một trò hề. Bọn nông dân ở đây biết thế nào là một xô-viết? Còn thủy thủ bao giờ cũng ở ngoài biển khơi, họ quan tâm đến những nhà chứa đĩ ở các bến cảng ngoại quốc hơn là chú ý đến chính trị. Còn những người India ư! Họ chỉ còn sót lại khoảng hai trăm người tất cả. Tôi không tin rằng họ còn sống sót tới con số như vậy sau những vụ tàn sát thổ dân ở thế kỷ trước, nhưng nếu như họ có muốn thành lập một xô-viết tại vùng đất dành cho họ, thì cứ mà lập ở đó - viên đại tá lên tiếng riễu cợt.
– Phải, nhưng ngoài bọn cộng sản còn có bọn xã hội, bọn cấp tiến, và nhiều nhóm nhỏ khác nữa. Tất cả bọn chúng ít nhiều đều giống nhau như một - Esteban Trueba trả lời.
Đối với Thượng nghị sĩ Trueba, tất cả các đảng phái chính trị, trừ có đảng của ông, đều nặng về Marxist, và ông không thể nào phân biệt được ý thức hệ chính trị của các đảng phái đó. Ông không ngần ngại trong việc trình bày quan điểm lập trường của mình trước công chúng mỗi lần ông có dịp, vì vậy đối với tất cả, chỉ trừ có những người cùng đảng với ông, người ta đều coi Thượng nghị sĩ Trueba như một loại phản động điên cuồng, gia trưởng, rất hoạt động. Đảng Bảo Thủ phải ghìm giữ ông, không để ông nói quá nhiều và để cho tất cả rõ được mọi việc. Ông là một kiếm sĩ điên cuồng sẵn sàng chiến đấu trong những cuộc hội họp, trên báo chí, trong trường đại học, nơi mà không một ai dám ló mặt tới, tại đó ông xuất hiện với bộ quần áo tang không thay đổi, với mái tóc như bờm sư tử và chiếc ba-toong bằng bạc. Ông trở thành cái đích của mọi nhà họa sĩ châm biếm, và do vẽ riễu cợt ông nhiều quá lại làm cho ông trở thành rất được quần chúng biết và trong mọi cuộc bầu cử lại thu đầy tràn hòm phiếu bầu cho Đảng Bảo Thủ, ông cuồng tín, thô bạo và cổ lỗ, nhưng đại diện xứng đáng cho những giá trị của gia đình, của truyền thống, của sở hữu và trật tự hơn bất kỳ ai. Tất cả mọi người đều nhận ra ông ở ngoài đường phố, họ sáng tác ra những câu chuyện khôi hài về ông, và những câu chuyện tếu mà họ gán cho ông cứ truyền từ miệng người này sang người khác. Họ nói rằng trong một trường hợp lên cơn đau tim, khi con trai ông trần truồng trước cửa trụ sở Quốc Hội, ngài Tổng Thống gọi ông tới văn phòng, mời ông đi làm việc tại tòa đại sứ ở Thụy Sĩ, tại đó ông có một chức vụ thích hợp với tuổi tác của ông, nó cho phép ông phục hồi sức khỏe. Họ nói rằng Thượng nghị sĩ Trueba đã trả lời bằng một nắm đấm xuống mặt bàn giấy của vị nguyên thủ quốc gia, làm đổ nhào quốc kỳ và bức tượng vị Cha già của dân tộc.
– Thưa ngài Tổng Thống, đến chết tôi cũng không ra khỏi đất nước - ông gầm lên. - Bởi vì chỉ một phút tôi lơ là, bọn Marxist sẽ tước mất của ngài chiếc ghế mà ngài đang ngồi đó.
Ông đã có cái giỏi là con người đầu tiên gọi phái tả là “kẻ thù của dân chủ”, mà không ngờ rằng sau đó ít lâu, câu đó trở thành khẩu hiệu của chế độ độc tài. Ông dành tất cả thì giờ và một phần lớn tài sản của mình vào công việc đấu tranh chính trị. Ông nhận thấy cơ nghiệp của ông giảm sút dần từ sau khi Clara chết đi, dù cho ông luôn luôn nghĩ ra những mưu mẹo kinh doanh mới, nhưng điều đó không làm cho ông hốt hoảng bởi ông đã cho rằng về mặt tự nhiên có việc rõ ràng không thể chối cãi được là trong cuộc sống của ông, Clara tựa như một luồng gió may mắn, đến bây giờ nó đã mất không còn có thể mang phước lành đến cho ông sau khi bà chết. Thêm nữa ông tính nhẩm với số tài sản hiện nay, ông có thể sống như một người giầu có đến hết thời gian còn lại của mình trong cõi thế gian này. Ông cảm thấy già nua và nghĩ chẳng có đứa nào trong ba đứa con ông xứng đáng được thừa kế gia tài đó, và ông định sẽ để lại cho đứa cháu gái cai quản đồn điền Ba Cô Maria, dù cho lợi tức của đồn điền bây giờ không còn được nhiều như trước. Nhờ có những con đường mới mở và xe ô-tô chuyên nhở, nên những nông nỗi khốn khổ và sự chậm chạp trên xe lửa trước kia bây giờ rút lại chỉ còn có sáu giờ hành trình từ thủ đô về tới đồn điền Ba Cô Maria, nhưng ông bao giờ cũng bận rộn, không tìm được thời giờ làm cuộc hành trình về thăm đồn điền. Thỉnh thoảng ông gọi viên quản lý đồn điền tới để tường trình công việc, nhưng những cuộc tường trình của anh ta chỉ để lại cho ông một sự khó chịu kéo dài đến mấy ngày. Viên quản lý đồn điền của ông là một người bị nỗi bi quan của chính anh ta đánh quỵ. Những tin tức anh ta mang tới là cả một loạt những thiên tai bất ngờ: đồng dâu bị băng lạnh, gà bị toi bệnh cứt đỏ, nho bị ủng thối. Cứ như thế, đồn điền trước kia là nguồn tích tụ tài sản của ông, giờ đây trở nên một gánh nặng mà nhiều lần Thượng nghị sĩ Trueba phải rút tiền từ những công việc kinh doanh khác để tiếp sức cho mảnh đất không bao giờ thỏa mãn, dường như muốn quay trở lại thời kỳ bị bỏ rơi, trước khi ông ra sức phục hồi cho nó thoát khỏi cảnh điêu tàn cùng khổ.
– Ta phải về để xắp đặt lại trật tự cho nó. Tại đó đang cần có con mắt của ông chủ trông nom đến, - ông lẩm bẩm.
– Mọi sự việc ở nông thôn bây giờ đảo lộn lung tung thưa ông chủ - nhiều lần viên quản lý báo cho ông như vậy. - Nông dân đã nổi dậy. Mỗi ngày họ đưa ra một yêu cầu mới. Một số trong họ muốn được sống như ông chủ. Tốt hơn hết là bán cái tài sản đó đi.
Nhưng Esteban Trueba không bao giờ muốn nghe nói đến việc bán ruộng đất. “Đất ruộng là thứ duy nhất còn lại khi tất cả mọi thứ khác đều đã hết”, ông nhắc lại như ông đã nói lúc ông hai mươi lăm tuổi, khi mẹ và chị thúc ép ông bán ruộng đất. Nhưng với tuổi tác và công việc chính trị bận bịu, đồn điền Ba cô Maria cũng như nhiều việc khác mà trước kia ông coi như những việc cơ bản, nay đã thôi không còn thu hút được sự thích thú của ông. Nó chỉ còn lại một giá trị tượng trưng đối với ông già Thượng nghị sĩ.
Viên quản lý đã nói đúng sự thực: mọi việc đều đảo lộn trong những năm đó. Giọng hát như nhung của Pedro García Con, nhờ được cái huyền diệu của máy radio đã bay tới tận những nơi thật xa xôi hẻo lánh trên khắp đất nước. Với ba mươi lăm tuổi anh vẫn giữ được dáng vẻ của một người nông dân thô kệch, nhờ cái tác phong của mình, và nhờ có được hiểu biết về cuộc đời và thắng lợi trong nghệ thuật nên cái thô kệch trong anh được dịu bớt, những tư tưởng trong anh được tinh tế hơn. Anh để bộ râu của người rừng núi, và món tóc như nhà tiên tri mà anh tự cắt sén lấy một cách thuộc lòng bằng một con dao cạo trước kia thuộc của cha anh; anh đã dấy lên một phong cách riêng nhiều năm trước khi cái đó trở thành cái mốt của những ca sĩ phản kháng cuồng nhiệt đua theo. Anh mặc quần len sợi thô. Đó là trang phục chiếc đấu của anh. Cứ như vậy anh bước vào sân khấu và xuất hiện trên những tấm các-tông vỏ bọc của những đĩa hát của anh. Không còn ảo tưởng về những tổ chức chính trị, anh đi tới vũ trang cho triết học của mình bằng kết tinh mấy lý tưởng thiết yếu hàng đầu. Là một con người vô chính phủ, từ những bài hát về Gà mái và Cáo, anh phát triển thành những bài ca về cuộc sống, về tình hữu nghị, về tình yêu và cả về tính mạng. Âm nhạc của anh rất phổ biến trong quần chúng, và chỉ có người nào quá ngang ngạnh như Thượng nghị sĩ Trueba mới có thể không biết đến sự tồn tại của nó. Ông nghị sĩ già đã cấm không đặt radio trong nhà để tránh cho cô cháu gái khỏi nghe những vở hài kịch và những câu chuyện của báo hàng ngày, những thứ đã khiến cho các bà mẹ mất cả con gái và chỉ dành lại chúng rất nhiều năm sau, cũng như để tránh khỏi phải nghe những bài hát lật đổ của thù địch nó gây ra cho ông bệnh khó tiêu hóa. Ông già có một chiếc radio tối tân đặt trong phòng ngủ, nhưng ông chỉ dùng nó để nghe tin tức mà thôi. Ông không ngờ rằng Pedro García Con lại là người bạn tốt nhất của cậu con trai Jaime của mình, cũng như không ngờ tới việc anh ta vẫn gặp gỡ Blanca mỗi lần chị sách chiếc va-li con kiểu của anh hề, lúng búng những lý do của cuộc đi chơi vắng nhà của mình. Ông cũng chẳng biết rằng một số ngày chủ nhật nắng đẹp, Pedro García Con vẫn dẫn Alba đi trèo đồi, vẫn ngồi với cháu gái ông trên đỉnh đồi để ngắm nhìn thành phố và ăn bánh mỳ kẹp phó mát, và trước khi thả mình lăn xuống sườn đồi, phá lên cười sặc sụa như những con chó con hạnh phúc, anh ta nói chuyện với Alba về những người nghèo, những người bị áp bức, những người thất vọng và nhiều vấn đề khác mà ông Thượng nghị sĩ không muốn cháu gái mình biết đến.
Pedro García Con nhìn th?