← Quay lại trang sách

Đoạn Hậu

Ông ngoại tôi chết đêm hôm qua. Ông không chết như một con chó như ông thường lo sợ, mà chết êm ái trên cánh tay tôi, lẫn lộn tưởng tôi là Clara, có lúc lại tưởng là Rosa; ông chết không đau đớn, không buồn bực, tỉnh táo và bình thản, minh mẫn hơn bao giờ hết và sung sướng. Giờ đây ông tôi đang nằm trên con thuyền buồm trên làn nước xanh lụa hiền lành, tươi cười bình thản, trong khi tôi ngồi viết bên chiếc bàn bằng gỗ mầu hung trước kia của bà ngoại tôi. Tôi đã mở hết những cánh rèm lụa màu xanh da trời để ánh sáng buổi sớm lọt vào làm vui căn buồng. Trong cái chuồng chim cũ bên cạnh cửa sổ, có một con họa mi mới nuôi đang hót, và ở giữa phòng đôi mắt thủy tỉnh của con Barrabás thao láo nhìn tôi. Ông ngoại tôi kể chuyện bà Clara tôi đã ngất đi ngày mà ông định tặng bà một cái thú bất ngờ, đã đặt da con vật đó xuống làm thảm. Chúng tôi cười chảy nước mắt và quyết định xục vào tầng hầm lấy tấm da con Barrabás đáng thương vẫn còn vẻ kiêu hãnh trong sự cấu thành sinh vật không rõ ràng của nó bất chấp thời gian và sự bị bỏ rơi, và đặt nó vào cái chỗ mà nửa thế kỷ trước ông tôi đã đặt nó để mừng người phụ nữ mà ông yêu quý nhất trong cuộc đời.

– Chúng ta sẽ đặt nó vào đây, nơi mà bao giờ nó cũng phải ở đấy - ông tôi nói.

Tôi về nhà vào một sáng mùa đông, trên một chiếc xe thô sơ kéo bởi một con ngựa gầy. Đường phố với hai hàng cây hạt dẻ cổ thụ và những ngôi nhà kiểu lãnh chúa, tựa như một cảnh tượng không thích hợp với chiếc xe thô sơ khiêm tốn đó, nhưng khi nó dừng lại trước ngôi nhà của ông tôi, nó lại rất hòa hợp ăn ý với cái phong cách của ngôi nhà. Ngôi nhà lớn ở góc phố vẻ rất buồn và cũ kỹ nhiều hơn so với hình ảnh tôi có thể nghĩ đến trong trí nhớ, nó tiêu điều trong phong cách kiến trúc lạ lùng và ý định sao chép của những mẫu kiến trúc Pháp, với cái bề mặt phủ đầy giây leo mùi hôi hắc. Khu vườn hoa là cả một vùng rậm rạp cỏ gai, và hầu như tất cả mọi cánh cửa sổ đều long bản lề treo lửng lơ siêu vẹo. Cổng lớn bên ngoài mở toang như thường lệ. Tôi bấm chuông và sau một lát, có tiếng dép, bước đến gần và một người hầu gái không quen mở cửa cho tôi. Người đó nhìn, không biết tôi là ai, và tôi cảm thấy trong cánh mũi cái hương gỗ thật tuyệt vời và cái mùi tù túng của ngôi nhà mà tôi đã sinh trưởng. Nước mắt trào ra đầy mắt. Tôi chạy đến phòng thư viện, tiên cảm thấy ông ngoại vẫn ngồi lom khom trên chiếc ghế bành lớn như bất cứ lúc nào và có thể đương đợi tôi về. Tôi ngạc nhiên thấy ông tôi thật già, thật bé nhỏ và run rẩy, còn giữ lại của quá khứ chỉ có mấy búp tóc bạc như bờm sư tử và chiếc ba-toong bằng bạc của ông. Ông cháu tôi ôm nhau thật chặt một lúc lâu, tôi thì thào gọi ông, ông thì thào kên Alba, rồi Clara, ông cứ sen kẽ gọi thế, ông cháu tôi hôn nhau và khi ông trông thấy bàn tay tôi, ông òa khóc và chửi rủa và vung ba-toong đạp bàn ghế như thể ông vẫn làm ngày trước, và tôi mỉm cười vì thấy ông không thật già và kiệt quệ như tôi tưởng lúc đầu.

Ngay ngày hôm đó ông tôi muốn hai ông cháu rời ngay đất nước. Ông sợ cho tôi. Nhưng tôi giải thích cho ông biết tôi không thể đi, vì xa cái đất nước này sẽ như những cây mà người ta cắt đứt rễ để chơi ngày Năm Mới, những cây thông đáng thương không có rễ chỉ tươi được một thời gian sau đó chết.

– Ông không ngu dốt đâu, Alba ạ - ông nói và nhìn tôi chăm chăm - Cái cớ thực sự để cháu muốn ở lại là Miguel, phải không?

Tôi giật nẩy mình. Chưa bao giờ tôi nói với ông về Miguel.

– Từ khi ông quen biết nó, ông đã biết rằng sẽ không thể lôi được cháu đi ra khỏi đất nước này, cháu yêu ạ - ông buồn rầu nói.

– Ông quen biết anh ấy? Anh ấy còn sống hở ông? - tôi nắm chặt tay áo ông lắc lắc.

– Phải, đúng thế, tuần lễ trước chúng ta mới gặp nhau - ông tôi nói.

Ông kể cho tôi biết sau khi chúng bắt tôi mang đi, một đêm Miguel xuất hiện trong ngôi nhà lớn ở góc phố. Xuýt nữa ông đã bị một cơn ngất đi vì sợ hãi, nhưng chỉ sau mấy phút ông tôi hiểu ngay rằng hai người có một nhiệm vụ chung là tìm đòi lại tôi. Sau đó Miguel thường trở lại luôn để thăm ông, bầu bạn với ông và chung sức cố gắng để tìm tôi. Chính Miguel là người đưa ra ý kiến phải đến gặp Tránsito Soto, chứ ông ngoại tôi không bao giờ nẩy ra được ý nghĩ đó.

– Thưa ông, hãy nghe tôi. Tôi biết kẻ nào nắm chính quyền trên đất nước này. Người của chúng tôi đã trà trộn vào khắp mọi nơi. Nếu có một ai đó có thể giúp đỡ cho Alba lúc này thì người đó chính là Tránsito Soto - anh đảm bảo với ông như vậy.

– Nếu chúng ta kéo được nó ra khỏi nanh vuốt của bọn cảnh sát chính trị, cháu ạ, cháu phải đi ra khỏi đất nước này. Hai cháu đi cùng nhau. Ta có thể lo được cho các cháu giấy thông hành và không thiếu tiền bạc - ông tôi đề nghị.

Nhưng Miguel nhìn ông như thể ông là một ông già nhỏ bé mất trí, và anh cố giải thích cho ông rõ hiện anh có một sứ mệnh phải hoàn thành và không thể trốn tránh ra nước ngoài.

– Ông đành chịu đựng với cái ý nghĩ rằng cháu sẽ ở lại đất nước này, bất chấp tất cả mọi sự - ông ôm tôi nói. - Và bây giờ kể lại hết mọi chuyện cho ông nghe. Ông muốn biết đến cái chi tiết cuối cùng nhỏ nhất.

Thế là tôi kể lại hết cho ông tôi nghe. Tôi nói với ông rằng khi bàn tay tôi bị nhiễm trùng, chúng đưa tôi đến một bệnh viện bí mật mà chúng thường gửi đến những tù nhân chưa có ý muốn để cho mình chết. Người chữa cho tôi là một người thầy thuốc cao lớn, dáng điệu sang trọng, có vẻ cũng thù ghét tôi như viên đại tá García, và không cho tôi thuốc giảm đau. Hắn lợi dụng mỗi lần khám chữa để thuyết trước mặt tôi cái lý thuyết riêng của hắn về cách thức tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản ở trong nước và, nếu có thể, trên toàn thế giới. Nhưng ngoài việc đó ra hắn để tôi được yên. Rất nhiều tuần rồi, đây là lần thứ nhất tôi có được chăn giải giường sạch sẽ, cơm nước khá đầy đủ và ánh sáng thiên nhiên. Rojas, một người y tá có thân hình to chắc, khuôn mặt tròn trĩnh mặc một chiếc áo khoác mầu xanh da trời luôn luôn dây bẩn, có tấm lòng thật tốt, trông nom cho tôi. Anh ta bón cho tôi ăn tận miệng, kể cho tôi nghe những trận bóng đá đã xa xưa giữa những đội bóng mà chưa bao giờ tôi từng nghe thấy tên, và anh ta tìm được thuốc giảm đau để bí mật tiêm cho tôi, cho tới khi làm ngắt được cơn hôn mê của tôi. Rojas đã từng chăm sóc tại bệnh viện này cho hàng đoàn vô tận những người bất hạnh. Anh ta đã chứng nghiệm rằng phần lớn trong họ không phải là những tên sát nhân hoặc phản bội tổ quốc, vì vậy anh rất sẵn sàng đối xử tốt với mọi tù nhân. Thường thì anh cứ hàn gắn sửa chữa được cho một người thì chúng lại đưa luôn người đó đi. “Việc này như thể rắc cát xuống biển thôi”, anh buồn rầu nói. Anh biết một số người đã xin với anh giúp cho họ chết, và, ít nhất là có một trường hợp, tôi nghĩ anh cũng đã giúp theo yêu cầu ấy. Rojas tính đếm sát sao con số bệnh nhân ra vào bệnh viện này và anh ta có thể nhớ một cách không lưỡng lự tên của họ, ngày tháng và trường hợp họ đến bệnh viện. Anh ta thề với tôi chưa bao giờ anh ta từng nghe thấy nói đến Miguel, và lời ấy của anh đã trả lại cho tôi cái can đảm để tiếp tục cuộc sống, dù cho đôi lần tôi đã rơi xuống vực tối của buồn nản và đã bắt đầu nhắc đi nhắc lại bài ca cầu nguyện rằng tôi muốn chết. Anh ta kể với tôi về Amanda. Chúng bắt giữ chị cùng một thời kỳ với tôi. Khi chúng mang chị tới chỗ Rojas thì anh đã không còn có thể làm gì để giúp chị được nữa. Chị chết không khai báo tố giác em trai, giữ trọn một lời hứa mà chị đã thốt lên từ rất lâu trước kia, trong cái ngày mà chị đưa em trai đến trường học lần đầu tiên. Điều an ủi duy nhất là chị ra đi rất nhanh, nhanh hơn nhiều so với ý của bọn chúng mong muốn, vì cơ thể của chị đã rất suy yếu bởi những liều ma túy và nỗi buồn phiền vô tận mà cái chết của Jaime đã để lại cho. Rojas chữa cho tôi cho đến khi tôi khỏi sốt, bàn tay tôi bắt đầu lên sẹo và tinh thần tôi được ổn định trở lại, và lúc đó anh ta cũng hết cả lý đo để giữ tôi ở lại bệnh viện; nhưng chúng không trả tôi trở về tay của Esteban García như tôi vẫn lo sợ. Tôi đồ chừng lúc đó người phụ nữ đeo chuỗi hạt ngọc hai vòng đã bắt đầu phát huy ảnh hưởng giúp đỡ của mình, con người mà ông cháu chúng tôi đã tới thăm để cảm ơn đã cứu cho tôi được sống. Bốn người đàn ông ban đêm đến tìm tôi. Rojas đánh thức tôi dậy, giúp tôi mặc quần áo và chúc tôi may mắn. Tôi cám ơn và hôn anh ta.

– Vĩnh biệt cô em bé! Thay băng nhé, đừng để nó ướt và lại lên cơn sốt, như thế lại bị viêm nhiễm đấy - đứng trước cửa anh nói với theo.

Bọn họ dẫn tôi vào một sà-lim nhỏ, tại đó tôi ngồi trên một chiếc ghế cho tới sáng. Ngày hôm sau họ mang tôi tới một nơi tập trung toàn phụ nữ. Không bao giờ tôi có thể quên lúc chúng bỏ tấm băng ra khỏi mắt, tôi thấy mình ở giữa một mảnh sân vuông vức và sáng rực, những người phụ nữ vây quanh hát cho tôi Bài Ca Niềm Vui. Chị bạn Ana Díaz có mặt trong số đó, chạy đến ôm lấy tôi. Rất nhanh chóng mọi người đặt tôi vào một chiếc giường nhỏ và nói cho tôi biết mọi luật lệ của cộng đồng này và trách nhiệm của tôi.

– Cho đến khi khỏi hẳn, cậu không phải giặt giũ cũng chẳng phải khâu vá, nhưng cậu phải trông giữ trẻ - mọi người quyết định.

Tôi đã chống chọi với lũ quỷ địa ngục với một chút nghị lực kiên cường, đúng thế, nhưng khi thấy mình có được sự che chở quây quần bên cạnh, tôi bật khóc. Một lời nói yêu thương nhỏ nhoi nhất cũng gây ngay cho tôi một cơn khóc than thảm thiết, suốt đêm tôi mở mắt trừng trừng trong bóng tối, giữa đám đông những người phụ nữ thay phiên nhau thức để chăm sóc và không để cho tôi phải một phút cô đơn. Họ giúp tôi khi những kỷ niệm tồi tệ ám ảnh làm tội tôi, khi tôi tưởng như thấy tên đại tá Esteban García đến tìm tôi trong những trò khủng bố, hoặc thấy Miguel bị tống vào sà-lim trong một tiếng khóc sụt sùi.

– Đừng nghĩ đến Miguel - các chị nói và nhắc đi nhắc lại - Không được nghĩ đến những người thân yêu, cũng như không nghĩ đến cuộc đời đang diễn ra ở bên kia những bức tường nhà giam này. Đó là cách duy nhất để có thể sống được.

Ana Díaz tìm được một cuốn vở học sinh đem tặng tôi.

– Để cậu viết, xem có lôi được từ bên trong người ra những gì đang thối rữa, để có thể mau khỏe mạnh và hát cùng chúng mình và giúp chúng mình khâu vá - chị ấy nói.

Tôi chìa tay cho chị xem và lắc đầu từ chối, nhưng chị đặt chiếc bút chì vào bàn tay bên kia của tôi và bảo tôi viết bằng tay trái. Dần dà tôi bắt đầu viết được. Tôi cố để sắp xếp trật tự cho câu chuyện đã bắt đầu viết từ khi còn ở trong chuồng chó. Những chị em đồng chí giúp đỡ khi tôi mất kiên nhẫn và khi chiếc bút chì run rẩy trong tay tôi. Có nhiều lần tôi vất tất cả bút cũng như vở ra xa, nhưng ngay lập tức tôi lại nhặt vở và vuốt thẳng lại một cách yêu thương, hối hận bởi không biết bao giờ mới có thể có được một cuốn vở khác. Nhiều lần khác nữa tôi dậy sớm, buồn rầu và đầy những linh cảm, tôi quay mặt vào tường và không muốn nói với bất kỳ ai, nhưng các bạn không để cho tôi yên, lay lay tôi, buộc tôi phải làm việc, phải kể chuyện cho trẻ em nghe. Họ cẩn thận thay băng cho tôi rồi đặt giấy ngay trước mặt.

“Nếu cậu muốn, mình sẽ kể chuyện mình để cậu viết” họ bảo tôi, vừa nói vừa cười rũ, vừa trêu ghẹo tôi và nói rằng tất cả mọi câu chuyện đều giống nhau, cho nên tốt hơn hết là viết chuyện tình, bởi cái đó ai cũng thích. Họ còn bắt buộc tôi ăn nữa. Họ chia sẻ phần ăn rất công bằng, từng người theo sự cần thiết, và đối với tôi họ cho nhiều hơn một chút, vì họ nói tôi gầy trơ xương, đến cả một người đàn ông đang cần thiết nhất cũng chẳng chú ý đến tôi. Tôi rùng mình, nhưng Ana Díaz nhắc cho tôi biết không phải tôi là người phụ nữ duy nhất bị hiếp ở đây, và cái đó, cũng như rất nhiều điều khác nữa, cần phải quên đi. Các chị hát suốt ngày, hát cao giọng. Bọn lính cảnh sát đập đập vào tường.

– Câm đi, lũ đĩ!

– Cứ vào mà bắt chúng tao câm đi, đồ dê đực, thử xem chúng mày có dám không nào! - và họ tiếp tục hát to hơn, và bọn chúng chẳng dám vào, vì chúng đã biết không thể tránh được những điều không thể tránh.

Tôi định viết về những sự kiện nho nhỏ của bộ phận tù nữ, chuyện bọn chúng bắt giữ chị gái của Tổng Thống, chuyện chúng ăn chặn thuốc lá của chúng tôi, chuyện có nhiều tù nhân nữ mới tới, chuyện Adriana lại lên cơn điên nữa và đã nhẩy xổ vào mấy đứa con để giết chúng, bọn tôi phải gỡ tụi trẻ con ra khỏi tay mẹ chúng và tôi phải ngồi mỗi tay ôm một đứa để kể những chuyện huyền ảo trong những cuốn sách đựng trong mấy chiếc hòm kỳ lạ của ông cố Marcos cho chúng nghe tới khi chúng ngủ, và tôi nghĩ đến số phận của những đứa nhỏ sinh trưởng trong nhà tù, với người mẹ bị điên dại lên vì tra tấn, chúng được săn sóc bởi những người mẹ không quen biết nhưng cũng không thiếu một giọng hát ru, không thiếu một cử chỉ an ủi, và tôi tự hỏi để viết, rồi mai đây không biết những đứa con của Adriana sẽ trả nợ bài hát ru và những cử chỉ an ủi kia cho những đứa con hoặc đứa cháu của những người mẹ đã từng hát ru an ủi chúng bằng cách thức sao đây.

Tôi ở trong trại tập trung đó một ít ngày. Một chiều thứ tư, mấy tên lính cảnh sát đến tìm tôi. Tôi kinh hoàng mất một phút, nghĩ rằng chúng lại dẫn tôi tới chỗ Esteban García, nhưng các chị bạn tôi bảo khi chúng mặc đồng phục đến thì không phải bọn cảnh sát chính trị và điều đó làm tôi yên lòng một chút. Tôi để lại cho các chị tấm áo khoác bằng len để các chị tháo ra đan lại cái gì đó ấm áp cho mấy đứa con của Adriana, và tất cả số tiền tôi có khi chúng bắt giữ tôi mà bọn lính đã hoàn lại. Tôi nhét cuốn vở vào túi quần và ôm hôn tất cả, từng người một. Những tiếng cuối cùng mà tôi nghe thấy khi đi ra là bản đồng ca mà những chị bạn bè đồng chí hát để cho tôi có thêm tinh thần chịu đựng, như vẫn hát cho tất cả mọi nữ tù nhân khác mới đến hoặc rời khỏi trại. Tôi vừa đi vừa khóc. Ở đó tôi đã có được một phần hạnh phúc.

Tôi kể cho ông tôi biết bọn chúng đem tôi đi trong một chiếc xe hòm kín, đôi mắt bị bịt băng kín mít, trong giờ giới nghiêm. Tôi run đến độ hai hàm răng va vào nhau lập cập. Một trong mấy người ngồi cùng với tôi ở mé sau xe đặt vào tay tôi một chiếc kẹo và vỗ nhẹ nhẹ vào vai tôi an ủi.

– Đừng lo gì cả, thưa cô. Không có gì xảy ra với cô đâu. Chúng tôi sẽ thả cô ra và chỉ trong vòng một vài tiếng đồng hồ nữa, sẽ được xum họp cùng gia đình - người đó thì thầm bên cạnh.

Họ để tôi ở lại một bãi rác gần Xóm Từ Thiện.

Vẫn người đã cho tôi chiếc kẹo giúp tôi bước xuống.

– Cẩn thận trong giờ giới nghiêm nhé - người đó nói nhỏ bên tai tôi - Đừng rời khỏi đây trước khi trời sáng.

Tôi nghe tiếng máy nổ và nghĩ có lẽ họ sẽ cho xe chẹn nát tôi, rồi hôm sau sẽ xuất hiện trên báo chí tin tôi bị chết vì một tai nạn giao thông; nhưng chiếc xe chạy đi xa dần không động đến tôi. Chờ một lúc, người tôi tê dại đi vì lạnh và sợ hãi, cuối cùng tôi quyết định rứt mảnh băng che mắt để nhìn xem mình đương ở chỗ nào. Tôi nhìn ra xung quanh. Đó là nơi hoang vắng, một bãi ngập đầy rác rưởi, một con chuột đang đào bới giữa những món thừa bỏ. Một vầng trăng nhạt khiến tôi có thể nhìn thấy bộ mặt của một khu nghèo khổ, nhà bằng các-tông, mái tôn lá và mảnh ván. Biết rằng phải chú ý theo lời khuyên của người lính vừa rồi nên tôi đứng nguyên tại đó chờ đến khi trời rạng sáng. Có lẽ tôi sẽ phải đứng thức suốt đêm đó trên bãi rác nếu như không có một cậu bé len lỏi trong bóng tối và kín đáo ra hiệu cho tôi. Tôi cũng chẳng còn gì để mà mất nữa nên bước liền theo sau tay vẫy của chú bé. Nó khoác lên vai tôi một tấm chăn, cầm lấy tay tôi và dẫn tôi tới xóm nhà ở không nói một lời. Chúng tôi loạng choạng bước đi, tránh những con đường và một số ít ngọn đèn bão vẫn đang cháy sáng, có mấy con chó sủa ầm ĩ nhưng không thấy một ai thò đầu ra xem xét. Chúng tôi đi qua một mảnh sân đất, có phơi trên giây thép một vài chiếc quần áo, rồi bước vào một cái lán tồi tàn y như những lán khác ở xung quanh. Bên trong chỉ có một chiếc bóng đèn duy nhất buồn bã chiếu sáng. Sự nghèo khổ cùng cực làm tôi xúc động: đồ gỗ chỉ có một chiếc bàn gỗ thông, hai chiếc ghế thô ráp và một chiếc giường trên có mấy đứa trẻ đang nằm chen chúc. Một người phụ nữ thấp bé, da ngăm ngăm, đôi chân vằn vèo những đường mạch máu và đôi mắt trũng sâu giữa một hệ thống nếp nhăn hiền hậu nó không làm cho đến nỗi già nua, ra tiếp tôi. Bà mỉm cười và tôi nhận thấy bà thiếu mấy cái răng. Bà tới gần và kéo lại cho tấm chăn phủ kín vai tôi bằng một cử chỉ vội và bẽn lẽn nó thay cho cái ôm hôn mà bà không dám biểu lộ với tôi.

– Cô uống một chén trà. Tôi không có đường, nhưng uống một chút trà nóng sẽ làm cho cô dễ chịu - bà ta nói.

Bà kể rằng mọi người nghe tiếng chiếc xe hòm kín và đều hiểu rõ một chiếc xe như thế chạy trong giờ giới nghiêm ở cái nơi hẻo lánh xa đường cái này có nghĩa như thế nào rồi. Nên mọi người chờ cho đến khi chắc chắn là chiếc xe đã đi xa, lúc đó chú bé mới đi ra để xem chúng để lại cái gì. Ai cũng cho rằng sẽ gặp một người chết.

– Thỉnh thoảng chúng đến vứt cho chúng tôi một người bị bắn chết, cốt làm cho mọi người phải sợ hãi, tuân theo - bà giải thích.

Chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau cho đến sáng. Đó là một trong loại những người phụ nữ kiên nhẫn và thực tế của đất nước chúng tôi, với người đàn ông nào đi qua trong cuộc đời của họ đều có một đứa con, ngoài ra còn thu về cho bếp lửa gia đình những đứa con mà người khác đã bỏ rơi, hoặc những người bà con nghèo khổ nhất hoặc bất kỳ ai cần có một người mẹ, một người chị, một người cô; họ là những người phụ nữ trụ cột chính của nhiều cuộc đời xa lạ, họ nuôi những đứa con để cho chúng lại đi ra, và họ nhìn những người đàn ông của họ ra đi không một lời trách móc, vì họ bận bịu vào nhiều việc khác cấp bách và lớn hơn. Bà giống như biết bao người phụ nữ mà tôi đã biết tại các nhà ăn bình dân, tại bệnh viện của cậu Jaime, tại Đặc sứ quán Tòa Thánh mà họ đến để dò tìm những người mất tích, tại Nhà Xác mà họ tới để tìm người chết. Tôi bảo bà rằng giúp tôi thế này bà sẽ chuốc lấy nhiều nguy hiểm đấy, và bà mỉm cười. Lúc đó tôi hiểu rõ là tên đại tá García và những tên khác giống như hắn đã có thể đếm được ngày còn lại của chúng, vì chúng không bao giờ có thể phá hoại nổi tinh thần của những người phụ nữ này.

Đến sáng bà đi cùng tôi đến nhà một người thân thuộc có chiếc xe ngựa kéo chở thuê. Tôi đề nghị bác đưa tôi về nhà và thế là tôi về đến đây. Trên đường đi tôi đã có thể nhìn thấy thành phố trong sự tương phản ghê gớm của nó, những nhà lán nhà lều bao quanh bởi một tường rào để tạo nên cái ảo tưởng là ở đằng sau chẳng có một cái gì, rồi một trung tâm đông đúc và sám ngoét, rồi đến khu Phố Trên Cao với những khu vườn kiểu Anh, những công viên, những nhà chọc trời bằng đuyara và kính, với những đứa trẻ tóc vàng hung đi chơi xe đạp trong vườn hoa. Đến cả những con chó ở đây tôi thấy cũng có vẻ sung sướng, tất cả đều ngăn nắp, đều sạch sẽ, đều yên tĩnh cộng với cái hòa bình vững chắc của những tâm hồn không ký ức. Khu phố này thật y như một khu ngoại quốc.

Ông tôi buồn rầu lắng nghe. Toàn bộ một thế giới mà ông tôi vẫn tưởng tốt đẹp đã hoàn toàn tiêu tan trong ông.

– Để ở lại chờ Miguel, ông cháu ta sẽ sửa sang một chút ngôi nhà này - cuối cùng ông tôi nói.

Và chúng tôi đã làm việc đó. Mới đầu, suốt ngày chúng tôi ở trong thư viện, lo lắng nghĩ bọn chúng có thể sẽ quay lại bắt tôi lần nữa để mang tới cho García, nhưng sau đó chúng tôi nghĩ điều tồi tệ nhất là sự sợ hãi như cậu Nicolás đã nói, và cần phải sử dụng đến tất cả ngôi nhà này để bắt đầu một cuộc sống bình thường. Ông tôi ký hợp đồng với một hãng chuyên môn để sửa sang lại từ mái cho đến tầng hầm, đưa máy đánh bóng đến đánh bóng cửa kính, sơn lại tường, tẩy uế, cho đến lúc toàn bộ ngôi nhà đều có thể ở được. Một nửa tá người làm vườn và một chiếc máy kéo đến dọn đẹp hết những bụi cây cỏ rậm rạp, mang đến thảm cỏ tươi cuốn được như tấm thảm, một sáng tạo kỳ tuyệt của bọn Mẽo, và chỉ non một tuần lễ chúng tôi đã có cả đến những cây bạch dương đã lớn, vì nước lại từ những vòi phun vọt lên cao và những pho tượng của núi Olympia một lần nữa lại kiêu hãnh đứng lên sau bao năm tháng bị bỏ rơi, sạch nhẵn hết mọi thứ phân chim và rêu phủ. Ông cháu tôi cùng nhau đi mua chim cho những chiếc lồng để trống từ khi bà Clara tôi tiên cảm thấy mình sắp chết đã mở cửa chuồng thả hết chim ra. Tôi cắm hoa vào những chiếc bình, và bầy đầy quả vào những liễn quả đặt trên bàn, y như thời kỳ những hồn ma, và không khí lại đượm thơm mùi hoa quả. Sau đó tay khoác tay, ông cháu tôi đi khắp ngôi nhà, dừng lại từng ngóc ngách để nhớ lại thời xưa và chào hỏi những hồn ma vô hình của những ngày xa xôi trước, dù có bao nhiêu thăng trầm biến đổi vẫn dai dẳng tồn tại ở những nơi của chúng xưa kia.

Ông tôi nẩy ra ý định là chúng tôi phải viết lại câu chuyện này.

– Như thế cháu sẽ giữ được gốc rễ trong người cháu nếu một ngày kia cháu có phải rời xa khỏi đất nước này - ông nói.

Lục lọi những góc bí mật và bị bỏ quên chúng tôi tìm được những cuốn album cũ và bây giờ đây tôi có trên mặt chiếc bàn của bà ngoại tôi, một đống ảnh chân dung: Rosa, người đẹp bên cạnh cột đu đã nhạt mầu, mẹ tôi và Pedro García Con năm lên bốn tuổi, đang tung ngô cho gà ăn trên sân trang viên Ba Cô Maria, ông ngoại tôi lúc còn trẻ, cao một mét tám, chứng cớ không chối cãi được là cơ thể đã bị teo lại cùng với tâm hồn đúng như lời nguyền của Férula; hai cậu Jaime và Nicolás, một người lầm lì ít nói, âm thầm, to lớn và dễ xúc động, và người kia gày nhỏ và tươi vui; có cả ảnh Vú Em và hai cụ del Valle, trước khi hai cụ chết trong một tai nạn ôtô, và cuối cùng chỉ thiếu có nhà quý tộc Jean de Satigny, về con người ấy không còn lại một tí chút chứng cớ khoa học, và tôi đã đến chỗ nghi ngờ không biết ông ta có thực trên cuộc đời này không.

Tôi bắt đầu viết và có được sự giúp đỡ của ông tôi, con người mà trí nhớ vẫn còn nguyên vẹn cho tới giây phút cuối cùng của cái tuổi chín mươi của ông. Chính tay ông tôi cũng đã viết một số trang, và khi ông tôi cho là ông đã nói hết rồi, liền vào nằm trên giường bà Clara. Tôi ngồi bên cạnh để cùng ông đợi, và cái chết đã không chậm tới cùng ông một cách êm ái, nó đến với ông ngay trong khi ông ngủ. Có lẽ ông mơ thấy người đương vuốt ve tay ông và hôn lên trán ông là bà vợ ông, vì trong những ngày cuối cùng này bà đã không rời bỏ ông một phút nào, bà đi theo ông khắp ngôi nhà, rình ông và nhìn qua vai ông khi ông đang đọc trong thư viện, và bao đêm nằm cùng với ông, cái đầu đẹp vấn những vòng tóc loăn xoăn đặt trên vai ông. Mới đầu bà chỉ như một đám bào quang bí hiểm, nhưng khi ông tôi đã mất hẳn đi tính cáu bẳn điên giận nó đã dày vò ông trong suốt cả cuộc đời, thì bà tôi đã xuất hiện y như thời kỳ bà vui tươi tốt đẹp nhất, miệng cười nở rộng với hàm răng còn nguyên vẹn và làm náo động những hồn ma bởi những bước như bay thoáng qua của bà. Bà cũng giúp chúng tôi để viết, và nhờ sự có mặt của bà, Esteban Truebe đã có thể chết sung sướng, miệng lẩm bẩm gọi tên Clara, người rất sáng, người sáng suốt.

Trong chuồng chó tôi đã viết với mong muốn là một ngày kia tôi có được tên đại tá García đã thất bại đứng trước mặt và tôi có thể trả thù cho tất cả những người cần được trả thù. Nhưng bây giờ tôi nghi ngờ về sự căm thù của tôi. Sau một ít tuần, kể từ khi tôi trở về ngôi nhà này, mối căm thù đó dường như đã loãng đi, đã mất những đường viền rõ nét. Tôi ngờ rằng tất cả những gì đã xảy ra không phải đều bởi ngẫu nhiên, mà dường như đều ăn khớp với một cảnh ngộ đã vẽ nên từ trước khi tôi sinh ra, và Esteban García chỉ là một bộ phận của bức vẽ đó. Hắn là một nét bút thô bạo, phũ phàng, nhưng không có nét bút nào lại vô ích cả. Ngày mà ông ngoại tôi vật ngửa bà hắn, Pancha García, giữa những búi lau lách bên sông, ngày đó đã vẽ thêm một mắt xích nữa vào chuỗi xích những sự việc thế tất phải được hoàn thành. Sau đó đứa cháu của người bị hiếp lại nhắc lại hành động đó đối với đứa cháu gái của kẻ hiếp dâm, và trong khoảng bốn mươi năm sau, có thể cháu giai tôi sẽ vật cháu gái của hắn giữa những búi lau sậy ven sông, và cứ thế, cho tới những thế kỷ sắp tới, trong một lịch sử vô tận của đau thương, đổ máu và tình yêu. Trong chuồng chó tôi đã có ý định sắp đặt một trò chơi nhức đầu mà trong đó mỗi bộ phận đều được lắp vào đúng chỗ của nó. Trước khi lắp đặt vào từng chỗ chính xác của chúng, tôi tưởng như mình không thể hiểu được, nhưng tôi chắc chắn rằng nếu tôi đạt được việc sắp xếp cho đến hết đâu vào đấy, mỗi bộ phận sẽ mang một ý nghĩa thật rõ và kết quả là toàn bộ sẽ rất là hòa hợp. Mỗi một phần, một bộ phận, đều có cái lý do tồn tại của nó, kể cả đến tên đại tá García. Trong một số lần tôi có cảm giác rằng câu chuyện này tôi đã từng sống và tôi đã viết chính những dòng chữ này, nhưng rồi tôi biết không phải tôi viết, mà là một người phụ nữ khác đã ghi trong những cuốn vở ghi chép của bà để cho tôi có thể sử dụng chúng. Tôi viết bây giờ, bà tôi viết trước kia, trí nhớ thật quá mỏng manh yếu ớt mà cuộc đời trôi qua thật ngắn ngủi vội vàng, đến độ chúng ta không tới được chỗ nhìn thấy rõ mối liên hệ giữa những sự kiện, không đo lường được cái hậu quả của mọi hành vi, và chúng ta tin vào sự hư cấu của thời gian, vào hiện tại, vào quá khứ, vào tương lai, nhưng cũng có thể là tất cả mọi sự kiện lại diễn ra đồng thời cùng một lúc, như thể ba chị em nhà Mora đã nói họ có khả năng nhìn thấy trong không gian những linh hồn của tất cả mọi thời kỳ. Vì vậy cho nên bà Clara tôi đã viết vào những cuốn vở của mình, để nhìn sự vật trong tầm quan trọng thực sự của nó và để trêu cợt cái trí nhớ tồi kém của mình. Bây giờ đây tôi tìm kiếm nỗi căm thù của mình mà chẳng sao tìm thấy nó. Nó đã tắt đi khi mà tôi tự giải thích hiểu được cái lý của sự tồn tại của tên đại tá García và của nhiều kẻ khác giống như hắn, khi mà tôi hiểu được bà ngoại tôi và biết rõ được những sự việc đã diễn ra qua những cuốn vở ghi chép của bà Clara tôi, qua những bức thư của mẹ tôi, qua những sổ sách quản lý đồn điền Ba Cô Maria, và biết bao nhiêu tài liệu khác hiện đương nằm la liệt trên mặt bàn, trong tầm tay của tôi. Tôi sẽ rất khó trả thù cho tất cả những người cần được trả thù, vì sự trả thù của tôi sẽ lại chỉ là một phần khác của vẫn cái nghi thức từ xưa không thay đổi. Tôi muốn nghĩ đến nghề nghiệp của tôi là cuộc sống và sứ mệnh của tôi không phải là kéo dài mãi mối căm thù, mà chỉ là công việc viết đầy những trang sách này trong khi chờ đợi Miguel trở về, trong khi chôn cất cho ông tôi, người hiện đương nằm nghỉ bên tôi, trong căn phòng này, trong khi tôi chờ đợi những thời kỳ tốt đẹp nhất định sẽ đến, và thai nghén cho đứa nhỏ mà tôi mang trong bụng, đứa con gái của biết bao cuộc hãm hiếp, hoặc có thể là con của Miguel, nhưng trước hết đó là con tôi.

Bà tôi đã viết trong suốt năm mươi năm trong những cuốn sổ ghi chép cuộc đời của bà. Được che chở bởi một vài linh hồn đồng bạn, những cuốn vở đó đã cứu thoát một cách kỳ diệu khỏi trận hỏa thiêu hèn mạt đã làm cháy ra tro biết bao nhiêu giấy tờ khác của gia đình. Tôi có tất cả ở đây, ở bên chân tôi, những cuốn vở buộc gói bằng những dải băng mầu, từng gói riêng sắp xếp theo từng sự kiện, chứ không theo trật tự thời gian, y như khi bà để lại trước khi ra đi mãi mãi. Bà tôi đã viết nên chúng để cho tôi bây giờ dùng vào việc thu hồi lại những kỷ niệm của thời xưa, làm cho nó sống lại trước con mắt kinh hoàng của chính tôi. Cuốn thứ nhất là một cuốn vở học sinh hai mươi tờ, viết bằng một nét chữ mảnh dẻ trẻ con. Cuốn vở bắt đầu như sau: “Barrabás đến với gia đình theo đường biển...”.

HẾT