- 10 -
Vào chủ nhật, chúng tôi không làm việc nên ngôi nhà đường như nhỏ hẹp hơn khi cha mẹ và ông bà bận rộn với các việc vặt. Mọi người cố chợp mắt ngủ trưa nhưng không thể vì cái nóng oi bức. Thỉnh thoảng, khi tâm trạng bực bội, cha mẹ lôi tôi lên xe và chúng tôi dạo quanh một vòng. Không có gì để xem xét - tất cả đất đai bằng phẳng và bông bao phủ. Quang cảnh hoàn toàn giống như khi chúng tôi nhìn từ hành lang. Nhưng quan trọng là được đi đâu đó.
Một lúc lâu sau khi Stick bỏ đi, tôi phải vào vườn và hái rau củ. Mẹ sắp xếp đầy hai hộp cáctông các loại. Chúng nặng tới nỗi cha phải đặt ở sau thùng xe. Khi chúng tôi xuất phát, gia đình Spruill đã giải tán và rút vào lều. Tôi không muốn thấy bọn họ.
Tôi ngồi giữa đống hộp rau củ, và quan sát lớp bụi đất từ sau xe tạo thành một đám mây xám, bốc lên cao lơ lửng trên đường rồi từ từ tan đi dù không có gió. Mưa và bùn đất từ sáng sớm hoàn toàn bị quên lãng. Mọi thứ đều nóng bức: những tấm ván gỗ trên nền xe tải, khung không sơn và gỉ sắt, thậm chí cả ngô, khoai tây, cà chua mẹ vừa mới rửa sạch. Ở vùng này, mỗi năm hai lần tuyết rơi, và tôi mong tấm chăn lạnh và dầy phủ trắng cánh đồng mùa đông của chúng tôi, không phải màu trắng của bông.
Bụi cuối cùng cũng dừng lại bên bờ sông, và chúng tôi qua cầu. Tôi đứng lên nhìn mặt nước bên dưới, dòng nước màu nâu đang lững lờ trôi dọc hai bờ. Sau xe có hai cần câu, và cha hứa chúng tôi sẽ câu cá một lúc sau khi thực phẩm được giao.
Gia đình Latcher là nông dân lĩnh canh. Họ sống cách trang trại chúng tôi gần một dặm. Ngôi nhà xiêu vẹo nằm bên một eo sông, với hàng cây du và liễu cao bằng mái nhà và bông trồng tới tận hành lang trước. Quanh nhà không có bãi cỏ, chỉ một vòng bụi nơi lũ con nhà Latcher đang chơi. Tôi thầm thấy hạnh phúc là họ sống ở bên kia sông. Dù sao, tôi có thể đã mong muốn chơi với chúng.
Họ thuê ba mươi mẫu đất và chia sản lượng vụ mùa với chủ đất. Nửa ít ỏi còn lại cũng chẳng bao nhiêu, và gia đình Latcher khá nghèo. Họ không có đèn điện, ôtô hay xe tải. Thỉnh thoảng, ông Latcher đi bộ tới nhà tôi và đề nghị Pappy đưa tới Black Oak.
Con đường dẫn tới nhà họ đủ rộng cho xe tải. Khi chúng tôi dừng xe, trên hành lang lập tức xuất hiện những khuôn mặt bé nhỏ, bẩn thỉu. Tôi đã từng đếm được bảy đứa, nhưng không rõ con số chính xác. Thật khó nói đứa nào là trai, đứa nào là gái; tóc tai chúng đều rối bù, khuôn mặt nhỏ với đôi mắt màu xanh nhạt giống nhau như đúc, và tất cả đều quần áo rách rưới.
Bà Latcher xuất hiện trên hành lang mục nát, lau hai tay vào tạp dề. Bà mỉm cười với mẹ tôi.
-Xin chào, cô Chandler! - Bà nói giọng nhẹ nhàng. Hai bàn chân trần, và gầy như que sậy.
-Rất vui được gặp chị, Darla! - Mẹ nói.
Cha ngồi một mình trên thùng xe, nghịch nghịch đống hộp giết thời gian trong khi hai phụ nữ tán chuyện. Chúng tôi không mong đợi gặp ông Latcher. Tính kiêu hãnh sẽ ngăn ông ấy bước ra và nhận thực phẩm. Hãy để cho phụ nữ quan tâm tới việc đó.
Khi họ nói chuyện về vụ mùa và thời tiết oi bức, tôi ra khỏi xe trước ánh mắt theo dõi của đám trẻ. Tôi bước tới bên hiên nhà và thấy Percy, thằng bé cao nhất, đang chơi dưới bóng mát, cố tỏ vẻ phớt lờ chúng tôi. Percy nói nó mười hai tuổi, nhưng vì đám trẻ nhà Latcher không đi học, nên không thể xếp nó cùng nhóm với những đứa vào lứa tuổi đó. Nó cởi trần và đi chân không, làn da màu đồng sẫm lại do phơi nắng hàng giờ.
-Chào, Percy! - Tôi nói, nhưng nó không đáp lại.
Dân lĩnh canh đều buồn cười như vậy. Đôi khi họ nói chuyện, lần khác họ chỉ ngây ra nhìn bạn, như thể muốn bạn đế họ yên tĩnh một mình.
Tôi quan sát ngôi nhà, như một hộp vuông nhỏ, và tự hỏi làm sao một đống người có thể sống trong nơi ở chật chội như vậy. Kho công cụ của chúng tôi còn rộng hơn. Các cửa sổ đều mở, những tấm màn cửa rách lỗ chỗ. Không có khung lưới ngăn ruồi muỗi, và chắc chắn là không có quạt đẩy không khí nóng ra ngoài.
Tôi cảm thấy thương cho họ. Gran tự hào khi trích dẫn Kinh Thánh: “Các vị Thần là những người nghèo trong linh hồn, hởi vì linh hồn của họ ở trong vương quốc của thiên đàng,’’ và “Người nghèo sẽ luôn ở bên bạn.” Nhưng dường như tàn nhẫn đối với ai phải sống trong những điều kiện thế này. Họ không có giầy dép. Quần áo cũ và rách rưới, họ xấu hổ khi ra thị trấn. Và vì không có điện, họ không thể nghe nói gì về đội Cardinal.
Percy chưa bao giờ được làm chủ một quả bóng hay găng tay, chưa bao giờ được chơi ném bắt với cha, chưa bao giờ mơ ước đánh bại đội Yankees. Thực tế, cậu ta có thể chưa bao giờ mơ đến chuyện rời khỏi đồng bông. Suy nghĩ đó gần như tràn ngập tâm trí tôi.
Cha bê xuống hộp rau thứ nhất, trong khi mẹ nêu tên các loại thực phẩm, và đám trẻ nhà Latcher lần lần ra bậc thang trước, háo hức nhìn ngó nhưng vẫn giữ khoảng cách. Percy không nhúc nhích; cậu ta nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên đồng, cái mà cả cậu ta lẫn tôi đều không thế thấy được.
Có một cô gái ở trong nhà. Tên chị là Libby, mười lăm tuổi, con gái cả, và theo tin đồn mới nhất ở Black Oak, chị đang có thai. Không ai biết tên bố đứa bé, và đám ngồi lê đôi mách hiện cho rằng Libby từ chối tiết lộ, kể cả với cha mẹ, tên người đàn ông đã làm cho chị mang bầu.
Tin tức chiến tranh, ấu đả, trường hợp bị ung thư,
chuyện ôtô hỏng, đứa trẻ sinh ra từ cha mẹ không hôn thú hợp pháp - tất cả các sự kiện này liên tục được đồn thổi ở Black Oak. Một cái chết theo sau là đám tang tốt đẹp, và thị trấn lan truyền trong nhiều ngày. Vụ bắt bớ, thậm chí nhỏ nhất, với các cư dân cũng là sự kiện được mô xẻ hàng tuần lễ. Nhưng chuyện cô gái mười lăm tuổi, con gái nông dân lĩnh canh, có con hoang là sự kiện đặc biệt mà thị trấn chưa bao giờ xảy ra. Vấn đề là, thời kỳ thai nghén không được xác nhận. Chỉ có tin đồn. Vì gia đình Latcher không bao giờ rời trang trại, nên khó tìm bằng chứng. Vì chúng tôi sống gần gia đình họ nhất, điều đó rõ ràng khiến mẹ muốn dò hỏi.
Mẹ đã yêu cầu tôi giúp mẹ xác minh. Mẹ đã kể tôi nghe vài tin đồn, và bởi tôi thường quan sát việc sinh đẻ của gia súc trong trang trại và biết rõ các nguồn gốc. Nhưng tôi vẫn miễn cưỡng tham gia. Không phải tôi hoàn toàn chắc chắn lý do cần phải xác nhận lại thời kỳ mang thai. Điều này được nói tới nhiều đến nỗi cả thị trấn tin là cô gái đáng thương đang mong đợi. Bí mật lớn là đặc điểm của ông bố?
-Họ không định đổ nó cho tôi. - Tôi đã nghe Pappy nói tại cửa hàng Hợp tác xã, và đám nông dân già phá lên cười thích thú.
-Vụ bông thế nào? - Tôi hỏi Percy. Như hai nông dân thực thụ.
-Vẫn còn ngoài kia, - cậu ta hất đầu về phía cánh đồng chỉ cách đó vài bước chân.
Tôi quay sang và nhìn chằm chằm vào cánh đồng, trông cũng giống như đồng bông của chúng tôi. Tôi hái bông được trả 1,60 đô một trăm pao. Đám trẻ này không được trả gì.
Sau đó, tôi quan sát ngôi nhà lần nữa, nhìn ngó vào cửa sổ, rèm rách và những tấm ván võng xuống. Tôi liếc qua sân sau với một dây phơi đầy quần áo. Tôi thấy con đường đất ngang qua nhà vệ sinh ra tới tận bờ sông, và không có dấu hiệu gì của Libby Latcher. Có lẽ họ đã nhốt chị trong phòng, còn ông Latcher thì cầm khẩu súng săn đứng gác bên ngoài. Sẽ tới ngày chị sinh đứa bé, và sẽ không ai biết được điều đó. Lại thêm một đứa trẻ nhà Latcher trần truồng chạy lông nhông.
-Chị gái tao không có ở đây, - cậu ta nói, vẫn đứng cách xa chỗ tôi. - Đó chính là cái mày đang tìm.
Mồm tôi há hốc, và hai má nóng rực.
-Cái gì? - Đó là tất cả những gì tôi có thể thốt ra.
-Chị ấy không có ở đây. Bây giờ thì quay lại chỗ xe nhà mày đi.
Cha kéo hộp thực phẩm còn lại vào trong hành lang, và tôi rời khỏi chỗ Percy.
-Con thấy cô gái đó không? - Mẹ thầm thì khi chúng tôi nổ máy. Tôi lắc đầu.
Khi chúng tôi vừa rời khỏi, gia đình Latcher bâu lại quanh hai cái hộp như thể họ không được ăn suốt một tuần lễ.
Vài ngày nữa chúng tôi sẽ trở lại cùng những sản phẩm khác với nỗ lực xác minh tin đồn lần hai. Nếu họ vẫn giấu Libby, cả nhà Latcher sẽ được nuôi nấng kỹ.
Theo lời cha, sông St. Francis sâu năm mươi bộ, xung quanh đáy trụ cầu có nhiều cá trê sông cân nặng tới sáu mươi pao và ăn mọi thứ trôi nổi trên sông. Chúng rất to và bẩn thỉu - loài vật ăn cả xác thối. Vài con sống tới hai mươi năm. Theo truyền thuyết gia đình, Ricky đã bắt được một trong những con quái vật đó khi chú mới mười ba tuổi. Nó cân nặng tới bốn tư pao, và khi chú dùng con dao sắc rạch bụng nó, tất cả các loại mảnh vỡ tràn ra thùng sau xe tải của Pappy: một phích cắm tia lửa, một hòn bi, lũ cá chép và các loài cá nhỏ, hai đồng xu
Kể từ đó Gran chưa bao giờ rán con cá trê nào khác. Pappy cũng bỏ không ăn cá sông.
Dùng giun đỏ làm mồi, tôi câu cá ngay chỗ nước đọng bên bờ, quanh bãi cát gần cửa sông toàn cá tráp, loài cá nhỏ, nhiều và dễ câu. Tôi cởi giầy, lội xuống làn nước ấm. Nước có xoáy và thỉnh thoảng nghe tiếng mẹ.
-Chỗ đó đủ xa rồi, Luke!
Bên bờ sông là hàng cây sồi và liễu, mặt trời ở sau lưng chúng tôi. Cha mẹ ngồi dưới bóng râm, trên tấm chăn mà phụ nữ đi lễ nhà thờ thường làm trong mùa đông, và đang ăn dưa đỏ trồng trong vườn nhà.
Hai người nói chuyện nhỏ, gần như thầm thì, và tôi không cố lắng nghe, bởi vì trong suốt mùa thu hoạch bông đây là một khoảnh khắc hiếm hoi cha mẹ có thể được ở riêng với nhau. Vào buổi tối, sau cả ngày trên đồng, giấc ngủ tới nhanh, mệt mỏi, và tôi hiếm khi thấy cha mẹ nói chuyện trên giường. Thỉnh thoảng, cha mẹ ngồi trên hành lang trong bóng tối, đợi cái nóng qua đi, nhưng họ không thật sự được ở một mình.
Tôi còn chưa biết bơi, tôi đang chờ chú Ricky trở về. Chú đã hứa sẽ dạy tôi vào hè năm tới khi tôi tám tuổi. Tôi ngồi sát bờ sông, và nước hoàn toàn bao phủ hai chân.
Chết đuối không phải là ít gặp, và cả cuộc đời tôi đã nghe nhiều về chuyện những người gặp phải bờ cát chảy và bị cuốn đi xa trong khi cả gia đình họ chỉ biết nhìn trong nỗi khiếp sợ. Dòng nước tĩnh lặng có thể lúc nào đó trở nên dữ dội, mặc dù tôi chưa bao giờ tận mắt chứng kiến. Những vụ chết đuối được cho là đã xảy ra ở sông St. Francis, mặc dù vị trí chính xác thay đổi theo mỗi người tường thuật. Một đứa nhỏ đang ngồi chơi thì bỗng nhiên bãi cát cửa sông lún xuống, đứa trẻ bị nước bao quanh và chìm rất nhanh. Thằng anh thấy cảnh đó vội lao xuống dòng nước xoáy, và dòng nước hung dữ cuốn trôi luôn cả nó. Tiếp theo, cô chị nghe thấy tiếng kêu của hai đứa em, cũng cố nhảy xuống và bị nhấn sâu đến tận ngực trước khi nhớ ra mình không biết bơi. Không sợ hãi, nó dũng cảm quẫy đạp về phía trước, kêu hai đứa nhỏ giữ bình tĩnh, nó sẽ cố đến. Nhưng bãi cát cửa sông hoàn toàn sụp xuống, giống như kiểu động đất, và dòng nước chảy xối xả về các hướng.
Ba đứa trẻ trôi ngày càng xa bờ. Bà mẹ, có thể có hoặc không mang thai, và có thể có hoặc không biết bơi, đang chuẩn bị bữa trưa dưới một bóng cây thì nghe tiếng gào thét của lũ con. Bà lao xuống sông, và thế là bà cũng gặp rắc rối.
Ông bố đang câu cá trên cầu thì nghe thấy sự rung chuyển. Không lãng phí thời gian, ông chạy ngay tới bờ và thấy hết sự việc, ông vội nhảy đâm đầu xuống sông St. Francis và bị gãy cổ.
Cả gia đình bỏ mạng. Vài cái xác đã được tìm thấy. Vài cái khác thì không. Có xác bị loài cá trê sông rỉa, có xác bị cuốn trôi ra biển. Trong nhiều thập niên, không thiếu những ý kiến về kết cục xảy ra đối với năm xác chết trong gia đình đáng thương đó.
Câu chuyện được kể lại để bọn trẻ giống như tôi biết rõ sự nguy hiểm của dòng sông. Chú Ricky thích dọa tôi bằng câu chuyện này. Mẹ nói tất cả chỉ là tưởng tượng.
Thậm chí cha Akers cũng cố thêu dệt câu chuyện qua một bài giảng đạo để minh hoạ là quỷ Satăng luôn bày ra nỗi bất hạnh và sự đau buồn quanh thế giới. Và khi ông nói đến đoạn ông bố bị gẫy cổ, tôi cũng nghĩ ông đang cường điệu.
Chắc chắn tôi sẽ không chết đuối. Cá đang cắn câu, tôi câu được một con cá tráp nhỏ và ném nó trở lại sông. Tôi tìm được một chỗ ngồi trên gốc cây và câu thêm được con nữa. Điều này cũng vui vui như chơi bóng chày vậy. Buổi chiều chầm chậm trôi qua, và tôi cảm ơn nơi vắng vẻ tĩnh mịch này. Trang trại của chúng tôi đông đúc toàn người lạ. Cánh đồng hứa hẹn về việc lao động đến kiệt sức. Tôi đã thấy một người bị giết, và không hiểu sao tôi đã để mình bị dính líu vào chuyện này.
Âm thanh nhẹ nhàng của dòng nước cạn nghe thật dễ chịu. Tại sao tôi không được ngồi câu cá cả ngày nhỉ? Ngồi bên bờ sông dưới bóng cây râm mát? Bất cứ gì ngoại trừ việc thu hái bông. Tôi sẽ không làm nông dân. Tôi không cần tập luyện.
-Luke! - Giọng cha cất lên từ bên bờ. Tôi thu nhặt cần câu, mồi và bước về phía cha mẹ.
-Vâng, thưa cha.
-Ngồi xuống đây, - cha nói. - Chúng ta cùng nói chuyện.
Tôi ngồi xuống bên mép chân, hơi cách xa cha mẹ. Hai người không có vẻ giận dữ; thực tế, mặt mẹ hết sức
hài lòng.
Nhưng giọng cha lạnh lùng, nghiêm khắc khiến tôi lo lắng.
-Tại sao con không kể cho cha về vụ ấu đả?
Vụ ấu đả sẽ không kết thúc.
Tôi thật sự không ngạc nhiên khi nghe câu hỏi.
-Con sợ.
-Sợ cái gì?
-Sợ bị bắt gặp đã xem đánh nhau sau cửa hàng Hợp tác xã.
-Vì mẹ đã nói con không được phép, đúng không?
-Vâng, thưa mẹ. Con xin lỗi.
Xem đánh nhau không phải là một hành động không vâng lời, và cả ba chúng tôi đều biết vậy. Chiều thứ bảy, đám trẻ con còn có việc gì để làm khi thị trấn chật ních trong sự kích động cao như thế? Mẹ mỉm cười vì tôi đã xin lỗi. Tôi đang cố tỏ vẻ đáng thương nhất có thể.
-Cha không quá lo về việc con đã xem đánh nhau, - cha nói. Nhưng bí mật có thể đẩy con vào rắc rối. Con nên nói thật cho cha biết những gì đã thấy.
-Con thấy vụ ấu đả. Con không biết là Jerry Sisco chết.
Lời lẽ hợp lý của tôi khiến cha dừng lại một lúc.
-Con đã kể cho ông Stick Powers sự thật?
-Vâng, thưa cha.
-Đúng là một đứa nhà Sisco đã nhặt được cây gậy trước? Hay chính Hank Spruill?
Nếu nói thật, tôi sẽ phải thú nhận về lời dối trá lần trước. Kể ra sự thật hay nói dối, đó là một câu hỏi luôn đọng lại. Tôi quyết định che mờ mọi việc một chút.
-Ồ, thực ra, thưa cha, mọi việc xảy ra quá nhanh.
Những cái xác ngã xuống và tung lên khắp nơi. Hank chỉ ném bọn đó ra xung quanh như những món đồ chơi nhỏ thôi. Đám đông dịch chuyển và la hò. Sau đó con thấy một cây gậy.
Đáng kinh ngạc là điều này làm cho cha hài lòng. Hơn hết, tôi chỉ là đứa trẻ bảy tuổi, và đã bị bắt gặp trong đám người xem, tất cả đang xem vụ đánh nhau khủng khiếp đằng sau cửa hàng Hợp tác xã. Ai có thể trách mắng nếu tôi không chắc về mọi chuyện đã xảy ra?
-Không được nói với bất cứ ai về việc này, rõ chưa?
-Vâng, thưa cha.
-Trẻ con mà giữ bí mật với cha mẹ sẽ gặp rắc rối lớn đấy, - mẹ nói. - Con luôn phải kể cho cha mẹ.
-Vâng, thưa mẹ.
-Bây giờ câu thêm cá đi. - Cha gật đầu, và tôi chạy trở lại chỗ ngồi.