← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9 Thứ Tư
NGƯỜI MẤT TÍCH

Viên sĩ quan miễn cưỡng đạp phanh khiến chiếc xe cảnh sát dừng kít lại trước đèn đỏ ở quảng trường Alexander Kiellands.

“Hay là bật còi hụ lên rồi vọt luôn?” anh ta quay sang hỏi người ngồi ở ghế phụ.

Harry lơ đãng lắc đầu. Anh dõi mắt nhìn ra công viên, nơi đây từng là một trảng cỏ có hai băng ghế bị những gã say xỉn chiếm cứ, cố át đi âm thanh huyên náo của phố phường bằng mấy bài hát và những tràng chửi rủa. Ấy thế mà chỉ vài năm trước thôi, chính quyền đã quyết định chi vài triệu để tu sửa quảng trường mang tên nhà văn nổi tiếng này, khu công viên cũng được phát quang, trồng thêm cây cối, rải đường và lát gạch trên lối đi, ngoài ra còn dựng thêm một đài phun nước hoành tráng có hình dạng chẳng khác gì xà tập thang cá hồi. Không thể phủ nhận đây quả là khung cảnh nên thơ hơn nhiều để hát hò, chửi bới.

Chiếc xe cảnh sát ngoặt sang phải trên phố Sannergata, băng qua cây cầu bắc ngang sông Akerselva rồi dừng lại trước địa chỉ Møller đưa cho Harry.

Harry bảo viên sĩ quan rằng anh sẽ tự lo phương tiện lúc về, sau đó bước ra ngoài vỉa hè, đứng vươn vai. Bên kia đường là tòa nhà văn phòng mới xây vẫn còn đang bỏ trống, và theo như báo chí đưa tin thì tình trạng đó sẽ còn kéo dài thêm một thời gian nữa. Những ô cửa sổ phản chiếu hình ảnh của khu chung cư tọa lạc tại địa chỉ Harry đang cầm trong tay. Đó là một tòa nhà sơn trắng được xây dựng vào khoảng thập niên bốn mươi của thế kỷ trước, yếu tố công năng tuy chưa thực sự phù hợp nhưng cũng ở mức gần tương đối. Mặt tiền chi chít chữ graffiti đánh dấu chủ quyền. Tại trạm xe buýt có một cô gái với nước da sẫm màu đứng khoanh tay, nhai kẹo cao su trong lúc quan sát tấm biển quảng cáo to tướng của thương hiệu thời trang Diesel phía bên kia đường. Harry tìm thấy cái tên mình cần ở chiếc chuông trên cùng.

“Cảnh sát đây,” anh nói, xốc lại tinh thần để chuẩn bị chinh phục dãy cầu thang.

Một bóng người trông thật kỳ dị đã chờ sẵn ở ngưỡng cửa tầng trên cùng khi Harry leo lên đến nơi, thở không ra hơi. Ông ta có mái tóc to bù xù, bộ râu quai nón đen sì ngự trên gương mặt đỏ tía, mặc trang phục kiểu tunic che kín từ cổ tới tận đôi bàn chân đi xăng đan.

“Thật tốt khi anh đến nhanh vậy,” ông ta nói và chìa bàn tay hộ pháp ra.

Cách ví von ấy quả thực không sai chút nào, vì tay Harry đã lọt thỏm và hoàn toàn mất hút trong đó khi ông ta xưng tên mình là Wilhelm Barli.

Harry giới thiệu tên và cố rút tay về. Anh không thích tiếp xúc với đàn ông, mà hành vi bắt tay này đúng hơn phải liệt vào loại ôm ấp. Vậy nhưng Wilhelm vẫn cứ bám chặt lấy anh như người chết đuối vớ được cọc.

“Lisbeth đi rồi,” ông ta khẽ nói. Giọng nói rõ ràng đến không ngờ.

“Vâng, chúng tôi đã nhận được tin báo. Ta vào trong chứ?”

“Vâng, mời anh.”

Wilhelm đi trước Harry. Tuy cùng là căn hộ trên tầng áp mái, nhưng căn hộ của Camilla Loen nhỏ và được bài trí theo phong cách tối giản tuyệt đối, còn căn hộ này lại rộng rãi với những đồ nội thất rườm rà, cầu kỳ như sản phẩm ăn theo trường phái tân cổ điển. Chỉ có điều, cách bài trí ấy lại bị làm quá tới mức gần như biến nơi đây thành phông nền cho một bữa tiệc toga. Thay vì các loại sofa và ghế thông thường, chủ nhà lại sử dụng ghế ngả thường thấy trong các bộ phim Hollywood về thời La Mã cổ đại, những cột chống bằng gỗ được ốp thạch cao để tạo thành thức cột Doric hoặc Corinth. Harry chẳng bao giờ phân biệt nổi sự khác nhau giữa hai thức cột ấy, nhưng anh nhận ra tấm phù điêu thạch cao được gắn trực tiếp lên bức tường sơn trắng ngoài hành lang. Mẹ anh từng dẫn anh và Sis tới thăm bảo tàng ở Copenhagen hồi anh còn nhỏ, tại đó họ đã được chiêm ngưỡng bức tượng Jason và Bộ lông cừu vàng của Bertel Thorvaldsen. Căn hộ này rõ ràng vừa mới được tu sửa. Harry để ý thấy lớp sơn trên đồ gỗ vẫn còn mới, mấy vết băng keo giấy vương lại và có thể ngửi thấy cả mùi dung môi thơm nức.

Trong phòng khách có kê bộ bàn ghế thấp cho hai người. Harry theo Barli lên cầu thang và bước ra khoảng sân thượng lát gạch khá rộng, trông xuống sân trung tâm nằm lọt thỏm giữa bốn tòa chung cư quây xung quanh. Quang cảnh bên ngoài được thiết kế theo phong cách Na Uy đương đại. Có ba miếng thịt cốt lết cháy đen đang bốc khói trên vỉ nướng.

“Cứ đến chiều là mấy căn hộ áp mái lại nóng như cái lò,” Barli cáo lỗi với Harry và chỉ vào cái ghế nhựa màu trắng kiểu baroque.

“Điều đó tôi cũng mới được biết,” Harry đáp, bước tới mép sân và nhìn xuống sân trung tâm.

Thường thì anh không sợ độ cao, nhưng sau những cuốc rượu dài hơi thì độ cao dù ở mức tương đối trung bình thôi cũng có thể khiến anh cảm thấy chóng mặt. Nhìn xuống mười lăm mét dưới kia, anh thấy hai cái xe đạp đã xuống cấp và tấm ga trải giường màu trắng vắt trên giá phơi đồ xoay 360 độ đang phất phơ bay trong gió. Anh vội ngẩng đầu lên.

Bên kia sân, trên một ban công với tay vịn bằng sắt rèn, có hai người hàng xóm giơ chai bia lên như đang gửi lời chào đến anh. Những cái chai màu nâu đã choán đến phân nửa chiếc bàn trước mặt họ. Harry gật đầu đáp lại. Anh tự hỏi không hiểu sao dưới sân có gió mà trên này thì không.

“Anh làm ly vang đỏ nhé?”

Barli đã kịp cầm chai rượu vẫn còn phân nửa và rót cho chính mình một ly. Harry nhận thấy tay ông ta run rẩy. Trên nhãn chai đề dòng chữ Domaine La Bastide Sy. Tên đầy đủ còn dài nữa nhưng những ngón tay nôn nóng đã xé mất phần còn lại.

Harry ngồi xuống ghế. “Cảm ơn ông, nhưng tôi không uống rượu khi đang làm nhiệm vụ.”

Barli nhăn mặt và vội đặt chai xuống bàn.

“Phải rồi, xin lỗi anh, chỉ tại tôi lo lắng quá ấy mà. Tình hình đang rối ren thế này tôi cũng không nên uống mới phải.”

Khi ông ta nâng ly lên uống, những giọt rượu nhỏ xuống vạt trước chiếc áo tunic của ông ta và một vết lem màu đỏ từ từ loang ra ngay chỗ đó.

Harry liếc đồng hồ đeo tay để ngầm nhắc Barli nói ngắn gọn thôi.

“Cô ấy vốn chỉ định tạt qua siêu thị mua ít salad khoai tây để ăn kèm với món sườn,” Barli thở dốc nói. “Mới hai tiếng trước, cô ấy vẫn còn ngồi ở chỗ anh đang ngồi bây giờ.”

Harry chỉnh lại cặp kính râm. “Vợ ông mới mất tích được hai giờ thôi sao?”

“Vâng, ừm, tôi cũng không rõ thực tế có lâu hơn không, nhưng cô ấy chỉ định tới siêu thị Kiwi ở góc phố một lát rồi về ngay.”

Ánh mặt trời hắt lên những chai bia ở ban công phía đối diện. Harry đưa tay lên che nắng và chợt nhận ra những ngón tay mình ẩm ướt quá mà không biết lau vào đâu cho hết mồ hôi. Vậy là, anh đặt chúng lên tay vịn bằng nhựa nóng rẫy của chiếc ghế và cảm thấy hơi ẩm đang từ từ bay đi.

“Ông đã gọi điện cho bạn bè, người quen chưa? Hay ông thử xuống siêu thị kiểm tra chưa? Biết đâu bà nhà tình cờ gặp ai đó rồi họ rủ nhau đi uống bia. Hoặc có thể…”

“Không, không, không!” Barli xòe hai bàn tay giơ ra trước ngực. “Không có chuyện đó đâu. Vợ tôi không phải người như thế.”

“Không phải người như thế ư?”

“Cô ấy là kiểu người… sẽ quay về.”

“Phải rồi…”

“Đầu tiên tôi gọi vào di động của cô ấy, nhưng dĩ nhiên cô ấy để máy ở nhà. Sau đó tôi gọi cho những ai cô ấy có thể sẽ gặp. Rồi lại gọi đến siêu thị Kiwi, Sở Cảnh sát, ba đồn cảnh sát, tất cả các phòng cấp cứu, bệnh viện Ullevål và Rikshospital. Nhưng vẫn không có tin tức nào của cô ấy cả. Nada. NichtsKhông gì hết. Bặt vô âm tín.”

“Tôi có thể thấy là ông đang lo lắng.”

Barli nhoài người qua bàn, cặp môi ẩm ướt run rẩy sau bộ râu.

“Tôi không lo lắng, mà sợ hãi cực độ. Anh đã bao giờ nghe nói có người mặc bikini cầm theo tờ năm mươi krone đi ra ngoài đường trong khi đang nướng thịt rồi đột nhiên quyết định rằng đó là cơ hội tốt để bỏ nhà ra đi chưa?”

Harry có chút nao núng. Đúng lúc anh quyết định uống đại một ly thì Barli rót mất chỗ rượu còn lại vào cốc của mình. Vậy tại sao anh còn chưa đứng dậy, an ủi ông ta rằng thực tế có rất nhiều trường hợp mất tích tương tự được trình báo và gần như tất cả đều bắt nguồn từ nguyên nhân hết sức tự nhiên chứ chẳng có gì bất thường, và rồi, bảo Barli thông báo lại nếu đến giờ đi ngủ mà vợ ông ta vẫn chưa về, sau đó rời khỏi đây là xong? Chắc là vì chi tiết nhỏ liên quan đến bộ bikini và tờ năm mươi krone kia. Hoặc có lẽ là bởi cả ngày nay Harry đã chờ đợi điều gì đó xảy đến, vả lại, dù sao đây cũng là cơ hội để trì hoãn thứ đang đợi anh tại căn hộ của mình. Nhưng trên hết, đó là vì vẻ hãi hùng rất dễ thấy và có phần vô lý của Barli. Trước đây, Harry đã nhiều lần xem thường những điều trực giác từng mách bảo, không chỉ trực giác của anh mà cả của những người khác nữa, và lần nào anh cũng phải trả giá cho sai lầm ấy.

“Tôi xin phép gọi điện thoại một lát,” anh nói.

Lúc sáu giờ bốn mươi lăm phút, Beate Lønn có mặt tại căn hộ của Wilhelm và Lisbeth Barli trên phố Sannergata, và mười lăm phút sau, một sĩ quan huấn luyện chó nghiệp vụ cùng một chú becgie cũng đến nơi. Viên sĩ quan giới thiệu cả tên mình và tên con chó đều là Ivan.

“Chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi,” anh ta nói. “Nó không phải chó của tôi đâu.”

Harry nhận thấy Ivan đang chờ đợi một lời nhận xét thật dí dỏm, nhưng anh chẳng biết phải đáp lại thế nào.

Trong lúc Wilhelm Barli vào phòng ngủ để tìm mấy bức ảnh chụp gần đây của Lisbeth cùng vài bộ đồ cho chú chó Ivan đánh hơi, Harry nhỏ giọng nói nhanh với hai đồng nghiệp, “Thế này nhé, người phụ nữ này có thể đang ở bất cứ đâu. Có thể cô ta bỏ nhà đi, không được khỏe, hoặc đã nói mình định đi đâu đó mà ông chồng không để ý. Vô vàn khả năng có thể xảy ra, và biết đâu đấy, ngay lúc này cô ta đang nằm trên ghế sau của chiếc xe hơi nào đó thì sao, phê thuốc, hoặc bị bốn thằng nhóc choai choai xâm hại vì choáng váng trước bộ bikini cô ta mặc chẳng hạn. Hai người không cần phải tìm kiếm thứ gì cụ thể đâu. Cứ tìm chung chung thôi.”

Beate và Ivan gật đầu tỏ vẻ mình đã hiểu.

“Lát nữa sẽ có xe tuần tra tới đây. Beate, cô xuống gặp họ và bảo họ đi hỏi thăm các nhà hàng xóm, thu thập lời khai, nhất là ở siêu thị mà cô vợ định đến. Sau đó cô nói chuyện với người dân sống ở mạn này của chung cư. Tôi sẽ qua hỏi mấy người hàng xóm ngồi trên ban công tòa nhà đằng kia.”

“Anh cho rằng họ biết được điều gì à?” Beate hỏi.

“Từ bên đó, họ có thể quan sát rất rõ căn hộ này, và căn cứ vào số lượng vỏ chai rỗng, tôi đoán họ ngồi đó cũng lâu rồi. Theo lời khai của ông chồng, cả ngày nay Lisbeth ở trong nhà. Tôi muốn biết họ có trông thấy cô ta trên sân thượng không, nếu có thì vào lúc nào.”

“Sao lại thế?” viên sĩ quan thắc mắc, kéo giật sợi dây dắt chú chó Ivan.

“Vì nếu một phụ nữ mặc bikini sống trong căn hộ chẳng khác gì cái lò này mà không đặt chân lên sân thượng thì tôi thề là đáng nghi quá đi chứ.”

“Dĩ nhiên rồi,” Beate thì thào. “Anh có nghi ngờ ông chồng không?”

“Về lý thuyết thì tôi có nghi ngờ ông ta,” Harry nói.

“Sao lại thế?” Ivan lại thắc mắc.

Beate nở nụ cười thông cảm.

“Thủ phạm luôn là các ông chồng,” Harry đáp.

“Nguyên tắc đầu tiên của Hole,” Beater nói.

Ivan hết nhìn Harry rồi lại nhìn Beate.

“Nhưng… chẳng phải ông ta là người đã báo tin vợ mất tích hay sao?”

“Đúng vậy,” Harry nói. “Và kẻ đáng nghi vẫn cứ là các ông chồng. Đó là lý do anh với Ivan sẽ bắt đầu tìm kiếm không phải từ ngoài phố, mà là ngay trong đây. Nếu cần thì anh bịa ra cớ nào đó cũng được, nhưng tôi muốn anh kiểm tra căn hộ cùng những kho chứa đồ trên gác xép và tầng hầm trước. Sau đó, anh có thể tiếp tục tìm bên ngoài. Được chứ?”

Sĩ quan Ivan nhún vai, nhìn xuống chú chó cùng tên với mình, nó cũng đang ngước lên đáp lại ánh mắt cam chịu của anh ta.

Hai người ngồi trên ban công đối diện hóa ra không phải hai cậu trai như Harry lầm tưởng khi nhìn từ sân thượng nhà Barli. Harry biết rằng một phụ nữ trưởng thành treo ảnh ca sĩ Kylie Minogue trên tường, sống chung với một phụ nữ khác bằng tuổi để tóc mái và mặc áo phông in logo của Câu lạc bộ bóng đá Trondheim Eagles, không có nghĩa cô ta là người đồng tính. Thế nhưng nhất thời anh vẫn cứ quy kết mọi việc theo chiều hướng ấy. Anh ngả người trên chiếc ghế bành đối diện họ, hệt như lúc ở nhà Vibeke Knutsen và Anders Nygård cách đây năm ngày.

“Xin lỗi vì đã lôi các cô từ ban công vào đây,” Harry nói.

Người giới thiệu tên mình là Ruth đưa tay che miệng để ngăn một tiếng ợ.

“Không sao. Bọn tôi chơi thế cũng đủ rồi, nhỉ?” cô ta đáp.

Cô ta vỗ đánh bốp một cái lên đầu gối bạn mình. Theo kiểu rất đàn ông, Harry nhận thấy thế, và anh nghĩ ngay đến một điều mà Aune, chuyên gia tâm lý của Sở Cảnh sát, từng nói: đặc tính điển hình của một đối tượng nào đó chẳng qua chỉ là những gì chúng ta gán cho họ, vì trong vô thức ta đã tự tìm kiếm ở họ những yếu tố củng cố cho nhận định của mình. Vì lý do đó mà cảnh sát thường quy chụp - dựa trên cái gọi là kinh nghiệm bản thân - rằng tất cả tội phạm đều rất ngu, và chính lũ tội phạm cũng nghĩ y như vậy về tất thảy cảnh sát.

Harry nhanh chóng tóm tắt đầu đuôi sự việc cho hai người phụ nữ. Họ tròn mắt ngạc nhiên nhìn anh.

“Tôi tin vụ này sẽ được giải quyết sớm thôi, nhưng chúng tôi vẫn phải làm theo quy trình chuẩn của ngành. Tạm thời chúng tôi chỉ đang cố gắng xác định các mốc thời gian xảy ra sự việc.”

Hai người gật đầu, nét mặt xem chừng rất nghiêm túc.

“Tốt,” Harry nói, trưng ra nụ cười kiểu Hole. Đúng hơn thì đó là cụm từ Ellen từng dùng để gọi điệu bộ nhăn nhó của anh mỗi khi anh cố làm ra vẻ vui tươi, dễ mến.

Ruth xác nhận bọn họ đã ngồi ngoài ban công suốt cả buổi chiều. Họ trông thấy Lisbeth và Wilhelm Barli nằm trên sân thượng cho đến khoảng bốn rưỡi thì Lisbeth đi vào nhà. Ngay sau đó Wilhelm chuẩn bị dụng cụ để nướng thịt. Ông ta nói to câu gì đó liên quan đến salad khoai tây và cô vợ ở trong nhà cũng đáp lại. Tiếp theo, ông ta quay trở vào rồi hai mươi phút sau trở ra với đống bít tết (Harry đính chính lại là sườn). Một lúc sau - cả hai thống nhất lúc đó là khoảng năm giờ mười lăm phút - họ thấy Barli lấy điện thoại di động ra gọi.

“Âm thanh có khả năng lan truyền trong không gian khép kín như thế này,” Ruth nói. “Chúng tôi nghe thấy một chiếc điện thoại khác đang đổ chuông trong nhà. Barli có vẻ bực bội thấy rõ. Ít ra là tôi thấy ông ta đã đập mạnh điện thoại xuống mặt bàn.”

“Chắc ông ta đang cố gọi cho vợ,” Harry nói.

Anh nhận thấy bọn họ lập tức đưa mắt nhìn nhau và lấy làm hối hận vì đã lỡ nói ra từ “chắc”.

“Từ đây ra siêu thị ở góc phố mua salad khoai tây mất khoảng bao lâu?”

“Siêu thị Kiwi ấy à? Cả đi và về chắc mất khoảng năm phút nếu không phải xếp hàng.”

“Lisbeth Barli đâu có đi như chạy đâu,” bạn cô ta nhỏ giọng nói.

“Vậy là các cô quen cô ta à?”

Ruth và cô nàng Trondheim Eagle đưa mắt nhìn nhau như để thống nhất câu trả lời.

“Không. Nhưng chúng tôi biết cô ta là ai.”

“Thế sao?”

“Đúng vậy, chắc hẳn anh cũng biết bài báo rất hoành tráng trên tờ Verdens Gang về việc Wilhelm Barli làm đạo diễn cho vở nhạc kịch ở Nhà hát Quốc gia hồi hè chứ.”

“Cả bài có mỗi năm câu thôi, Ruth.”

“Ai bảo thế,” Ruth cãi. “Lisbeth diễn vai chính đấy. Có ảnh chụp to tướng, vân vân và mây mây. Chắc chắn anh phải thấy rồi chứ.”

“Ừm,” Harry đáp. “Hè này tôi không có… nhiều thời gian để đọc báo.”

“Đợt đó nổ ra tranh cãi ghê lắm đúng không nhỉ? Các vị chức sắc trong giới văn hóa cho rằng thật là bê bối khi tổ chức show diễn mùa hè ở Nhà hát Quốc gia. Mà vở nhạc kịch ấy tên gì nhỉ? My Fat Lady à?”

“ Fair Lady,” cô nàng Trondheim Eagle lẩm bẩm.

“Vậy là cô cũng theo dõi thể loại hát kịch à?” Harry hỏi chen vào.

“Cũng có chút. Wilhelm Barli là típ người ôm đồm đủ thứ việc. Nào là kịch thời sự, phim, rồi nhạc kịch…”

“Ông ta đóng vai trò sản xuất. Còn cô ta là ca sĩ.”

“Thật sao?”

“Thật. Tôi dám chắc là anh vẫn nhớ Lisbeth thời trước khi lấy chồng, hồi cô ta còn mang họ Harang.”

Harry lắc đầu vẻ tiếc nuối khiến Ruth thở dài thườn thượt.

“Hồi ấy cô ta cùng chị gái là ca sĩ trong ban nhạc Xa Kéo Sợi. Lisbeth đúng là một mỹ nhân, có nét hao hao giống Shania Twain. Với một giọng hát thuộc hàng ‘cực phẩm’ đấy.”

“Cô ta làm gì nổi tiếng đến mức ấy đâu, Ruth.”

“Ừm, cô ta từng biểu diễn trong chương trình của Vidar Lønn Arnesen mà. Họ bán được cả đống đĩa cơ đấy.”

“Băng cát xét chứ, Ruth.”

“Tôi từng xem Xa Kéo Sợi biểu diễn ở Lễ hội âm nhạc đồng quê Momarkedet. Bọn họ hát khá hay, anh biết đấy. Đáng lẽ họ phải đến Nashville thu âm mới đúng, nhưng rồi tài năng của Lisbeth được Barli phát hiện. Ông ta dự tính sẽ đưa cô ta lên hạng sao. Chỉ có điều chắc chắn đã phải chờ khá lâu.”

“Những tám năm trời,” cô nàng Trondheim Eagle nói.

“Tóm lại là Lisbeth Harang đã chia tay Xa Kéo Sợi để kết hôn với Barli. Kiều nữ và đại gia, anh đã nghe nói bao giờ chưa?”

“Thế là xa ngừng kéo sợi à?”

“Gì cơ?”

“Người ta đang hỏi về ban nhạc kìa, Ruth.”

“À, ra vậy. Cô chị vẫn hát solo, nhưng Lisbeth mới là ngôi sao thực thụ. Hình như bây giờ họ đang đi biểu diễn tại các khách sạn du lịch và trên các chuyến phà Đan Mạch. Đúng vậy đấy.”

Harry đứng dậy.

“Xin phép hỏi nốt một câu cho đúng thủ tục. Hai cô có biết gì về đời sống hôn nhân của Wilhelm và Lisbeth không?”

Cô nàng Trondheim Eagle và Ruth lại tiếp tục màn giao tiếp qua sóng mắt.

“Như chúng tôi đã nói, âm thanh có khả năng lan truyền trong không gian khép kín như thế này,” Ruth trả lời. “Phòng ngủ nhà họ cũng nhìn ra sân chung.”

“Các cô nghe thấy cả tiếng vợ chồng họ cãi cọ ư?”

“Không phải cãi cọ.”

Hai người nhìn chằm chằm vào Harry đầy ẩn ý. Phải mấy giây sau anh mới ngộ ra điều họ muốn nói, và anh phát hiện mình đang đỏ mặt mới cay chứ.

“Vậy là theo các cô nhận thấy thì đời sống hôn nhân của vợ chồng họ đặc biệt rất êm ấm?”

“Cửa sân thượng nhà ông ta để ngỏ suốt mùa hè, vì thế tôi hay đùa rằng bọn tôi có thể trèo lên mái nhà, đi vòng qua sân và nhảy xuống sân thượng bên đó,” Ruth toét miệng cười. “Nhìn trộm một tí, tại sao không? Chẳng có gì khó cả, chỉ việc đứng lên lan can ngoài ban công bên này, đặt một chân lên máng nước và…”

Cô nàng Trondheim Eagle khẽ huých cô bạn một cái vào mạng sườn.

“Nói vậy chứ thực ra cũng chả cần thiết,” Ruth nói. “Dù sao Lisbeth cũng là dân chuyên nghiệp trong khoản… gọi là gì ấy nhỉ?”

“Truyền đạt,” cô nàng Trondheim Eagle đáp lời.

“Chính xác. Khả năng gợi hình nằm cả ở cái dây thanh quản, anh biết đấy.”

Harry đưa tay xoa gáy.

“Một chuyên gia hét dễ sợ luôn,” cô nàng Trondheim Eagle nói, kèm theo nụ cười dè dặt.

Lúc Harry quay về, bộ đôi Ivan vẫn đang miệt mài tìm kiếm quanh căn hộ. Sĩ quan Ivan đang mồ hôi nhễ nhại, còn lưỡi của chú chó becgie Ivan thì thè ra khỏi cái mõm há hốc, trông chẳng khác nào tấm thảm màu đỏ bầm dùng để đón khách VIP.

Harry thận trọng ngồi xuống một cái ghế ngả và yêu cầu Wilhelm Barli kể lại đầu đuôi sự việc. Lời khai của ông ta cũng như các mốc thời gian đã xác thực những điều Ruth và cô nàng Trondheim Eagle kia đã nói.

Harry nhận thấy vẻ tuyệt vọng thật sự trong đôi mắt người chồng. Và anh bắt đầu nghi ngờ nếu quả thực một tội ác nào đó đã xảy ra thì có thể - chỉ là có thể thôi - đây là một trường hợp ngoại lệ trong thống kê. Nhưng trên hết, nó càng củng cố niềm tin của anh rằng Lisbeth sẽ sớm quay trở về. Nếu không phải người chồng thì cũng chẳng phải là ai hết. Xét về mặt thống kê mà nói.

Beate quay về và báo cáo chỉ có hai căn hộ trong chung cư này là có người ở nhà, nhưng họ không nghe thấy và cũng không trông thấy bất cứ điều gì, cả ở cầu thang lẫn ngoài đường.

Có tiếng gõ cửa vang lên, Beate ra mở. Người mới đến là một trong những sĩ quan tuần tra. Harry nhận ra ngay anh ta. Đó chính là người đã đứng canh gác ở phố Ullevålsveien. Anh ta quay sang nói chuyện với Beate mà chẳng tỏ vẻ gì nhận ra sự có mặt của Harry.

“Chúng tôi đã thẩm vấn người dân trên phố và tại siêu thị Kiwi. Chúng tôi cũng đã kiểm tra cổng chính và sân. Không thu được kết quả gì. Nhưng hiện đang là kỳ nghỉ nên đường sá gần như không một bóng người, vì vậy cô gái này có thể dễ dàng bị lôi lên ô tô mà chẳng bị ai phát hiện cả.”

Harry cảm thấy Wilhelm Barli, người đang đứng bên cạnh anh, giật mình đánh thót.

“Hay là ta thử hỏi đám dân Pakistan có cửa hàng quanh khu vực này xem sao,” viên cảnh sát nói, đưa ngón tay út lên ngoáy tai.

“Tại sao chính xác phải là họ?” Harry lên tiếng hỏi.

Gã sĩ quan cuối cùng cũng chịu quay lại và trả lời, cố tình nhấn vào hai từ cuối, “Anh chưa xem các số liệu thống kê tội phạm à, thanh tra?”

“Xem rồi,” Harry nói. “Theo như tôi nhớ thì các chủ cửa hàng là đối tượng nằm ở tít cuối danh sách chứ.”

Tay cảnh sát chăm chú quan sát ngón út của chính mình.

“Tôi cũng như anh, đều biết đôi điều về dân Hồi giáo, thanh tra ạ. Với họ, phụ nữ đi vào cửa hàng trong bộ bikini chẳng khác nào cầu xin bị hãm hiếp. Việc đó gần như một nghĩa vụ, có thể nói như vậy.”

“Thế sao?”

“Tôn giáo của bọn họ chính là thế.”

“Tôi nghĩ anh đang nhầm lẫn giữa Hồi giáo và Thiên Chúa giáo đấy.”

“Ivan và tôi xong việc ở đây rồi,” người huấn luyện chó nói rồi cùng chú becgie đi xuống cầu thang.

“Chúng tôi tìm thấy vài khúc sườn trong thùng rác, tất cả chỉ có vậy. Dạo gần đây có chú chó nào đến chung cư này không nhỉ?”

Harry đưa mắt nhìn Wilhelm. Ông ta chỉ lắc đầu. Nét mặt đã nói thay những điều mà giọng nói của ông ta không thể truyền tải được.

“Lúc ở cổng, Ivan đã phản ứng như thể từng có một con chó nữa ở đây, nhưng chắc là vì nguyên nhân khác rồi. Giờ bọn tôi đã sẵn sàng đi kiểm tra gác xép và tầng hầm. Ai đó đi cùng được không?”

“Được chứ,” Wilhelm nói và đứng dậy.

Họ đi ra cửa, viên cảnh sát tuần tra hỏi Beate xem giờ anh ta về được chưa.

“Anh phải hỏi sếp chứ,” cô đáp.

“Anh ta ngủ rồi còn đâu.”

Gã cảnh sát khinh miệt hất đầu về phía Harry, người đang ngồi thử trên cái ghế ngả kiểu La Mã.

“Này anh hạ sĩ,” Harry trầm giọng nói, mắt vẫn nhắm tịt. “Làm ơn lại gần đây.”

Viên sĩ quan đến đứng trước Harry, chân giạng ra, hai ngón tay cái móc vào thắt lưng.

“Rõ, thưa thanh tra .”

Harry mở một bên mắt ra.

“Anh mà còn nghe Tom Waaler xui dại và báo cáo những việc làm của tôi một lần nữa, thì tôi đảm bảo sẽ cho anh tiếp tục làm chân tuần tra từ giờ đến khi về hưu luôn. Rõ chưa, hạ sĩ ?”

Cơ mặt viên sĩ quan khẽ giật. Khi anh ta mở miệng, Harry tưởng mình sắp được nghe một tràng cáu gắt, rủa sả. Nhưng không, anh ta khẽ khàng đáp lại một cách rất bình tĩnh, “Thứ nhất, tôi không quen biết Tom Waaler nào cả. Thứ hai, tôi cho rằng mình có nghĩa vụ báo cáo những trường hợp sĩ quan cảnh sát có khả năng gây nguy hiểm cho bản thân và đồng nghiệp khi đi làm nhiệm vụ trong tình trạng say xỉn. Và thứ ba, tôi cũng không có nguyện vọng làm việc ở bất cứ bộ phận nào khác ngoài đội tuần tra. Giờ tôi đi được rồi chứ, thanh tra ?”

Harry mở một mắt nhìn chằm chằm viên sĩ quan. Sau đó anh nhắm mắt lại như cũ, nuốt khan rồi đáp, “Xin mời.”

Anh nghe thấy cửa ra vào đóng sầm lại và rên lên một tiếng. Anh cần phải uống một ly. Ngay lập tức.

“Anh có định đi cùng không?” Beate hỏi.

“Cô cứ đi đi,” Harry nói. “Tôi sẽ ở đây giúp Ivan đánh hơi quanh khu phố này ngay khi họ kiểm tra xong gác xép và tầng hầm.”

“Anh chắc chứ?”

“Hoàn toàn chắc.”

Harry leo lên cầu thang và bước ra ngoài sân thượng. Anh đưa mắt ngắm bầy chim én bay, lắng nghe âm thanh vọng đến từ những ô cửa sổ để mở trong sân. Rồi anh cầm lấy chai vang đỏ trên bàn. Trong chai chỉ còn đúng một giọt. Anh dốc nốt nó vào miệng rồi giơ tay vẫy Ruth và cô nàng Trondheim Eagle, hóa ra hai người họ chơi thế vẫn chưa đủ, và lại quay vào trong nhà.

Cửa phòng ngủ vừa mở ra, Harry lập tức cảm nhận được ngay. Dù có thể thường xuyên nhận diện được, nhưng trước giờ anh vẫn chẳng bao giờ hiểu nổi cái không khí tĩnh lặng trong phòng ngủ của người khác là từ đâu mà ra.

Nơi đây vẫn còn vương lại dấu vết mới tu sửa.

Một cánh cửa tủ quần áo có gắn gương ở mặt trong đang để ngỏ, và một hộp dụng cụ sửa chữa mở toang đặt bên cạnh chiếc giường đôi được sắp xếp gọn gàng. Trên đầu giường có treo ảnh Wilhelm và Lisbeth. Harry chưa kịp nhìn kỹ tấm ảnh Wilhelm đưa cho các sĩ quan tuần tra, nhưng giờ đây anh có thể nhận ra lời Ruth nói quả không sai. Lisbeth đúng là một mỹ nhân. Mái tóc vàng óng, cặp mắt xanh biếc sáng long lanh, vóc người thon thả, linh hoạt. Cô ta trẻ hơn Wilhelm ít nhất cũng mười tuổi. Trong ảnh, hai vợ chồng đều có nước da nâu rám nắng, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc - nhất định là họ mới đi du lịch nước ngoài về. Thấp thoáng sau lưng họ là hình bóng một công trình đồ sộ và bức tượng kỵ sĩ ngồi trên lưng ngựa. Có lẽ là vùng nào đó ở Pháp chăng. Normandy chẳng hạn.

Harry ngồi xuống mép giường và giật mình ngạc nhiên khi chiếc giường lay động. Hóa ra là đệm nước. Anh ngả người nằm xuống, cảm nhận chiếc đệm ôm lấy từng đường nét cơ thể. Lớp vỏ chăn lông vịt mát rượi mơn man làn da trần trên cánh tay gọi lên một cảm giác thật tuyệt. Nước vỗ ì oạp bên trong lớp vỏ đệm bằng cao su khi anh đổi tư thế. Và anh nhắm mắt lại.

Rakel. Họ đang lênh đênh trên một con sông. Không phải, là con kênh mới đúng. Chiếc thuyền dập dềnh trôi trên dòng kênh, tiếng nước vỗ vào hai bên mạn thuyền nghe như tiếng môi hôn. Anh và cô đang ở khoang dưới, Rakel lặng yên nằm bên anh trên giường. Cô khẽ bật cười khi anh thì thầm nói chuyện với cô. Giờ cô đang vờ ngủ. Anh thích điều đó. Thích cái cách cô giả vờ ngủ. Nó giống như một trò chơi giữa họ vậy. Harry quay lại nhìn cô. Ánh mắt anh bắt gặp chiếc gương trên cửa tủ quần áo, trong đó phản chiếu trọn vẹn hình ảnh của chiếc giường. Anh nhìn xuống hộp dụng cụ. Phía trên cùng có một cái đục ngắn với cán gỗ màu xanh lục. Anh cầm thứ dụng cụ đó lên. Nhỏ và nhẹ bẫng, không có vết gỉ sét bên dưới lớp bụi thạch cao mịn còn vương lại.

Đang định trả cái đục về chỗ cũ thì tay anh bỗng khựng lại. Trong hộp có một bộ phận cơ thể bị đứt rời. Anh từng thấy thứ đó tại một số hiện trường án mạng trước đây. Những bộ phận sinh dục bị cắt. Phải mất một giây sau anh mới nhận ra thứ dương cụ có màu da và hình dáng như thật kia chỉ là đồ giả.

Anh lại nằm xuống giường, tay vẫn cầm cái đục. Anh nuốt khan.

Đã bao năm theo nghề, ngày ngày lục lọi vô số đồ đạc và cuộc sống riêng tư của người khác, chuyện này có là gì đâu chứ. Đâu phải vì thế mà anh nuốt khan.

Ở đây - trên chiếc giường này.

Phải uống một ly ngay bây giờ.

Âm thanh có khả năng lan truyền trong không gian khép kín.

Rakel.

Anh cố chẳng nghĩ đến, nhưng không kịp nữa rồi. Tấm thân của cô kề bên anh.

Rakel.

Anh đã cứng lên rồi. Harry nhắm mắt lại và cảm thấy tay cô đang quờ quạng, hành động tùy hứng và vô thức của một người đang say giấc, rồi bàn tay ấy dừng lại trên bụng anh. Nó cứ nằm yên đó như chẳng hề có ý định đi đâu hết. Môi cô áp lên tai anh, hơi thở ấm áp như tiếng lửa hừng hực cháy. Rồi nó bắt đầu đưa đẩy ngay khi anh chạm vào cô. Bộ ngực nhỏ mềm mại với đôi nhũ hoa nhạy cảm cương lên khi hơi thở của anh chỉ vừa mới phả vào, nơi thầm kín kia sẽ mở ra và đón nhận lấy anh. Cổ họng anh đột nhiên nghẹn lại như muốn khóc.

Tiếng cửa đóng sầm lại ở tầng dưới khiến Harry giật bắn. Anh ngồi dậy, vuốt phẳng tấm chăn lông vịt rồi đứng lên soi lại mình trong gương. Sau đó anh đưa tay xoa mặt thật lực.

Wilhelm một mực đòi theo ra ngoài để xem chú chó Ivan có đánh hơi được gì không.

Họ đặt chân lên phố Sannergata đúng lúc chiếc xe buýt sơn đỏ rời bến êm ru không tiếng động. Một bé gái đăm đăm nhìn Harry qua ô cửa sổ cuối xe; khuôn mặt tròn trĩnh của cô bé mỗi lúc một nhỏ dần khi xe dần mất hút về phía phố Rodelokka.

Họ cùng đi tới siêu thị Kiwi rồi quay về mà chẳng nhận được bất cứ phản ứng gì từ chú chó.

“Nhưng như thế không có nghĩa vợ ông không đặt chân đến đây,” Ivan nói. “Trên con phố tấp nập người và xe thì cũng khó phân biệt được mùi của một đối tượng cụ thể lắm.”

Harry đưa mắt nhìn quanh. Anh có cảm giác mình đang bị theo dõi, nhưng phố xá vắng tanh vắng ngắt, và tất cả những gì anh trông thấy trên những ô cửa sổ mặt tiền của dãy nhà cửa nơi đây chỉ là vầng mặt trời in trên nền trời tối đen. Đúng là thứ hoang tưởng của kẻ nghiện rượu.

“Ừm,” Harry nói. “Nếu vậy thì tạm thời chúng ta cũng chẳng thể làm gì hơn được nữa.”

Wilhelm nhìn họ bằng ánh mắt tuyệt vọng.

“Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi,” Harry nói.

“Không đâu, không ổn chút nào,” Wilhelm đáp bằng giọng đều đều như giọng của phát thanh viên dự báo thời tiết.

“Lại đây, Ivan!” viên sĩ quan lớn tiếng gọi và kéo giật sợi dây dắt. Chú chó đang rúc mũi dưới thanh cản trước của một chiếc Volkswagen Golf đang đỗ gần vệ đường.

Harry vỗ vai Wilhelm một cái và tránh ánh mắt chằm chằm của ông ta nhìn mình.

“Chúng tôi đã thông báo cho tất cả các xe tuần tra. Nếu đến trước nửa đêm mà bà nhà vẫn chưa về, chúng tôi sẽ triệu tập đội tìm kiếm. Như vậy được chứ?”

Wilhelm im lặng không đáp.

Ivan cứ nhằm chiếc xe Golf mà sủa và kéo căng sợi dây.

“Xin chờ một lát,” người cảnh sát nói.

Anh ta quỳ gối, chống tay xuống đất, đầu cúi sát mặt đường và luồn một cánh tay vào bên dưới gầm xe.

“Có thấy gì không?” Harry hỏi.

Người sĩ quan quay lại. Anh ta đang cầm trên tay một chiếc giày cao gót của phụ nữ. Harry nghe thấy Wilhelm nấc lên ở đằng sau và hỏi, “Có phải giày của vợ ông không, Wilhelm?”

“Sẽ không ổn chút nào,” Wilhelm trả lời. “Sẽ không ổn chút nào.”