PHẦN HAI
CHƯƠNG 8 Thứ Ba và thứ Tư
CHOW CHOW
Sang ngày thứ Ba, nhiệt độ tại Oslo đã lên tới hai mươi chín độ trong bóng râm và đến ba giờ chiều, dân văn phòng lũ lượt kéo nhau ra bãi biển ở Huk và Hvervenbukta. Khách du lịch túm tụm tại những nhà hàng ngoài trời ở khu Aker Brygge và công viên Frogner, người nào người nấy mồ hôi ròng ròng, chụp lấy lệ vài tấm ảnh cột đá Monolith rồi dạt về đài phun nước với hy vọng một làn gió thổi qua sẽ mang những bụi nước li ti mát lạnh tới bao phủ lấy họ.
Không có du khách đặt chân đến, nơi này mới tĩnh mịch biết bao, nhịp sống đìu hiu ở chốn này dường như cũng đang trôi chậm lại. Đám công nhân làm đường mình trần gò lưng trên những cỗ máy, thợ hồ cheo leo trên giàn giáo tại công trường gần bệnh viện Rikshospital cúi xuống nhìn đường sá vắng hoe, mấy tay tài xế taxi quanh quẩn tìm chỗ có bóng râm để đậu xe rồi túm năm tụm ba bàn tán về vụ giết người trên phố Ullevålsveien. Chỉ duy nhất phố Akersgata là có vẻ sôi động hơn đôi chút. Những tờ báo lá cải thích chuyện giật gân đã xài hết những gì mình có trong mùa đói tin thì giờ đang nhảy vào khai thác triệt để vụ án mạng còn nóng hổi một cách đầy thèm khát. Vì thời điểm này cánh phóng viên đã đi nghỉ gần hết nên biên tập của các báo phải tận dụng tất cả nguồn nhân lực hiện có để viết bài, từ đám sinh viên trường báo làm thêm mùa hè cho đến các chuyên gia bình luận chính trị đang rỗi việc. Chỉ những phóng viên phụ trách chuyên mục văn hóa là thoát được.
Ấy thế mà nơi này vẫn yên ắng lạ thường. Cũng có thể là vì gần đây tờ Aftenposten đã chuyển tòa soạn từ phố Akersgata - nơi hội tụ truyền thống của các cơ quan báo chí - về khu vực gần trung tâm hơn, tọa lạc tại tòa nhà Bưu điện, tòa nhà Aftenposten, hay Trung tâm Chuyển tiền Bưu điện. Dù gọi bằng cái tên nào đi nữa, nó vẫn chỉ là bản sao thô vụng của một tòa nhà chọc trời, vươn thẳng lên bầu trời xanh ngắt không một gợn mây. Tòa nhà vĩ đại màu nâu vàng nằm ở rìa công trường xây dựng tại Bjorvika đã được tu sửa lại, nhưng tạm thời phóng viên chuyên mục hình sự Roger Gjendem chỉ nhìn thấy mỗi Plata, bãi họp chợ của dân nghiện, và cả quầy chích thuốc ngoài trời phía sau những lán trại nơi lũ nghiện tìm đến với hy vọng được lên cõi tiên. Thỉnh thoảng anh ta lơ đãng ngó xuống xem có thấy Thomas dưới đó không. Nhưng Thomas hiện đang ngồi bóc lịch ở trại giam Ullersmo vì tội đột nhập vào căn hộ của một gã cảnh sát hồi mùa đông năm ngoái. Con người ta có thể điên khùng tới mức nào được nhỉ? Hay tuyệt vọng đến đâu? Bất luận thế nào, Roger cũng không còn phải lo chuyện vô tình nhìn xuống và thấy đứa em trai chích một mũi quá liều vào cẳng tay.
Aftenposten chưa chính thức bổ nhiệm biên tập viên mới cho chuyên mục hình sự. Người cuối cùng giữ vị trí này đã được đề nghị đền bù do cắt giảm nhân sự, nhanh nhẩu chấp nhận và ra đi trong vui vẻ. Kể từ đó, mục hình sự đơn giản là bị gộp chung vào với mục tin tức và, trên thực tế, điều đó có nghĩa là Roger Gjendem buộc phải đảm nhận phần việc này trong khi vẫn chỉ được ăn lương cơ bản. Anh ta ngồi ở bàn làm việc, ngón tay đang đặt trên bàn phím, mắt dán vào gương mặt tươi cười của người phụ nữ được anh ta quét ảnh lên làm màn hình chờ máy tính, trong khi tâm trí lại đang hướng về người phụ nữ đã gói ghém hành lý đến lần thứ ba và rời bỏ anh ta cùng căn hộ trên phố Seilduksgata. Anh ta biết lần này Devi sẽ không quay lại nữa, rằng đã đến lúc quên đi mà sống rồi. Vậy là, anh ta vào phần Control Panel của máy tính và xóa màn hình chờ. Bước đầu là thế. Anh ta tạm thời đặt bài phóng sự về vụ án heroin đang làm sang một bên. Thật may, vì anh ta ghét đề tài ma túy lắm. Devi cứ một mực nói rằng tất cả là do Thomas. Roger đã cố gắng gạt đi những ý nghĩ về Devi và đứa em trai để tập trung vào vụ án cần viết.
Anh ta đang tóm tắt lại các tình tiết của vụ giết người trên phố Ullevålsveien, tranh thủ tận hưởng giờ phút giải lao trong lúc chờ những diễn biến mới, bằng chứng mới hoặc nghi phạm nào đó lộ diện. Việc này chắc cũng dễ xơi thôi. Đây quả là một vụ án hấp dẫn trên mọi khía cạnh, hội tụ hầu hết yếu tố đáng mơ ước đối với bất cứ phóng viên mục hình sự nào. Một cô gái trẻ mới hai mươi ba tuổi, còn độc thân, bị bắn chết trong phòng tắm tại căn hộ của mình ngay giữa thanh thiên bạch nhật một ngày thứ Sáu. Khẩu súng ngắn được tìm thấy trong thùng rác của căn hộ hóa ra lại chính là hung khí. Hàng xóm không ai trông thấy gì, cũng chẳng kẻ lạ mặt nào bị phát hiện lởn vởn xung quanh đó, chỉ một người hàng xóm nói rằng có nghe thấy âm thanh giống như là tiếng súng. Vì căn hộ không có dấu hiệu bị đột nhập, nên cảnh sát đang điều tra theo hướng giả thuyết Camilla Loen đã đích thân mở cửa cho hung thủ vào, nhưng không ai trong số bạn bè và người quen của cô ta có dấu hiệu khả nghi, tất cả bọn họ đều có bằng chứng ngoại phạm tương đối chắc chắn. Việc Camilla Loen, hiện đang làm nhân viên thiết kế đồ họa tại công ty Leo Burnett, ra về lúc bốn giờ mười lăm phút chiều vì có hẹn với các bạn trước cổng trung tâm triển lãm Kunstnernes Hus lúc sáu giờ cho thấy rất khó có khả năng cô ta mời ai đó đến nhà. Một khả năng khác cũng bất khả thi không kém là có người nhấn chuông căn hộ của Camilla rồi giả danh ai đấy để lẻn vào trong, vì Camilla nhất định sẽ nhìn thấy mặt kẻ ấy qua camera ghi hình trên hệ thống điện thoại nội bộ ở cổng.
Tình hình vốn đã chẳng mấy sáng sủa khi giới báo chí tung ra những hàng tít như “Vụ án mạng tâm thần” và “Hàng xóm nếm máu”, vậy mà còn có thêm hai chi tiết nữa bị rò rỉ khiến các trang nhất càng được dịp giật tít: “Camilla Loen bị chặt ngón tay” và “Phát hiện ngôi sao kim cương đỏ dưới mí mắt nạn nhân”.
Ban đầu Roger Gjendem dùng cấu trúc câu ở thì hiện tại để tóm tắt vụ án nhằm tăng tính thời sự, nhưng rồi anh ta phát hiện ra điều đó không cần thiết nên đã xóa hết những gì viết được. Anh ta ngồi đó một lúc, vùi đầu lên hai bàn tay. Thế rồi anh ta nhấp đúp vào biểu tượng thùng rác trên màn hình máy tính, di chuột tới dòng chữ “Xóa tất cả”, song lại do dự. Đó là bức ảnh duy nhất của cô mà anh ta có. Tất cả những thứ thuộc về cô đã bị tống khứ khỏi căn hộ anh ta ở. Thậm chí Roger còn giặt sạch cái áo len cô thường mượn và cũng là món đồ anh ta thích mặc vì nó vương mùi hương của cô.
“Vĩnh biệt,” anh ta thì thầm và nhấp chuột.
Anh ta đọc lại phần mở bài rồi quyết định đổi “Ullevålsveien” thành “Nghĩa trang Our Saviour” - cái tên mới nghe hay hơn. Sau đó anh ta bắt tay vào viết, lần này lời lẽ ý tứ cứ dạt dào tuôn chảy.
Lúc bảy giờ, người đi tắm biển bắt đầu lục tục ra về một cách đầy miễn cưỡng, dù mặt trời vẫn đang tỏa nắng chói chang trên bầu trời không một gợn mây. Sau đó, kim giờ nhích dần sang số tám, rồi số chín. Nhiều người vẫn đang đeo kính râm ngồi uống bia ngoài sân, trong khi đám nhân viên phục vụ ở các nhà hàng không có sân trời thì chơi dài. Đến chín rưỡi, vầng dương đỏ ối treo lơ lửng phía trên khu Ullernåsen rồi bắt đầu hạ xuống. Nhưng nhiệt độ thì chẳng thèm hạ theo. Đêm nay quả là một đêm oi bức, dân tình rời hàng quán để trở về nhà nằm thức trắng trên giường, mồ hôi như tắm.
Tại phố Akersgata, hạn nộp bài đang đến gần, đội ngũ biên tập cùng nhau họp bàn lần cuối để thống nhất về nội dung trang bìa. Cảnh sát chưa đưa ra thêm thông báo nào mới. Không phải bọn họ cố tình che giấu thông tin, mà chỉ là bốn ngày sau khi xảy ra vụ việc, dường như họ chẳng còn gì nữa để thông báo. Nhưng trái lại, chính khoảng lặng ấy lại giúp Gjendem và các cộng sự có thêm thời gian để đưa ra vô số giả thuyết. Đến lúc vận dụng sức sáng tạo rồi đây.
Cũng vào đúng lúc đó, tại Oppsal, tiếng chuông điện thoại réo vang trong ngôi nhà gỗ sơn vàng có vườn táo ở sân. Beate Lønn thò tay ra khỏi chăn để nhấc máy và tự hỏi không biết mẹ cô ở tầng dưới có bị tiếng chuông điện thoại đánh thức không. Có thể lắm.
“Cô ngủ rồi à?” một giọng khàn khàn cất lên.
“Chưa,” Beate đáp. “Ai mà ngủ nổi chứ?”
“Ờ. Tôi vừa mới dậy đấy.”
Beate ngồi thẳng lên.
“Tình hình thế nào rồi?”
“Biết nói sao nhỉ? Ừm, đúng rồi, tệ, tôi cho là mình có thể nói như vậy.”
Hai người im lặng giây lát. Tín hiệu đường truyền điện thoại không phải là lý do khiến Beate cảm thấy giọng nói của Harry có vẻ xa cách.
“Bên Pháp y có tin gì mới chưa?”
“Vẫn là mấy tin anh đọc được trên báo thôi,” cô đáp.
“Báo nào?”
Cô thở dài. “Tóm lại là những điều anh đều biết cả rồi. Chúng tôi đã lấy dấu vân tay và ADN trong căn hộ, nhưng tạm thời chưa xác định được mối liên hệ rõ ràng giữa bằng chứng thu được và kẻ giết người.”
“Ta còn chưa biết vụ này có phải là giết người có chủ đích hay không mà,” Harry nói. “Cứ gọi là đối tượng gây án đi.”
“Ừ thì đối tượng gây án,” Beate ngáp dài.
“Đã truy ra được nguồn gốc của viên kim cương chưa?”
“Vẫn đang cố đây. Mấy chuyên gia trang sức chúng tôi gặp đều nói kim cương đỏ không có gì khác thường cho lắm, nhưng ở Na Uy thì lượng cầu rất thấp. Họ không cho rằng viên kim cương đó được mua ở cửa hàng trang sức tại Na Uy. Nếu thật sự nó có nguồn gốc từ nước ngoài thì khả năng thủ phạm là người ngoại quốc sẽ cao hơn.”
“Ừm.”
“Rốt cuộc là có chuyện gì vậy, Harry?”
Harry ho mấy tiếng rõ to. “Tôi chỉ đang cập nhật tình hình thôi.”
“Nhưng tôi nghe nói vụ này anh không làm cơ mà.”
“Đúng thế.”
“Vậy anh muốn gì mới được?”
“À thì, tôi gặp ác mộng nên tỉnh giấc.”
“Có cần tôi sang đắp chăn cho không?”
“Khỏi.”
Hai người lại lặng thinh.
“Tôi mơ thấy Camilla Loen. Và cả viên kim cương các cô phát hiện ra.”
“Thế à?”
“Ừ. Tôi nghĩ chi tiết này ẩn chứa một ý nghĩa nào đó.”
“Ý anh là sao?”
“Hiện tôi chưa thể khẳng định chắc chắn, nhưng cô có biết là ngày xưa người ta từng đặt một đồng xu lên mắt của người chết trước khi đem chôn không?”
“Không.”
“Đó là tiền công trả cho người lái đò để đưa linh hồn đến với thế giới âm phủ. Nếu không đến được âm phủ, linh hồn sẽ không thể an nghỉ. Cô cứ ngẫm mà xem.”
“Cảm ơn anh đã chỉ dạy, nhưng tôi không tin vào ma quỷ, Harry ạ.”
Harry không đáp.
“Còn điều gì nữa không?”
“Chỉ một câu hỏi nhỏ thôi. Tuần này Giám đốc Sở bắt đầu đi nghỉ à?”
“Phải.”
“Thế liệu cô có tình cờ biết được… lúc nào ông ấy về không?”
“Ba tuần nữa. Còn anh?”
“Tôi làm sao?”
Beate nghe thấy tiếng bật lửa tanh tách. Cô thở dài, “Bao giờ anh mới về?”
Trong điện thoại vọng đến tiếng Harry hít vào một hơi dài, nín thở giây lát rồi chầm chậm thở ra trước khi trả lời, “Vừa nãy cô bảo không tin vào ma quỷ mà.”
Khi Beate đặt điện thoại xuống cũng là lúc Bjarne Møller bị cơn đau nhức nhối ở vùng bụng đánh thức. Ông nằm trằn trọc mãi đến tận sáu giờ mới chịu thua và rời khỏi giường. Sau khi nhẩn nha thưởng thức bữa sáng không có cà phê, ông cảm thấy dễ chịu hơn hẳn. Khi tới Sở lúc hơn tám giờ một chút, ông ngỡ ngàng nhận ra cơn đau đã dứt hẳn. Ông đi thang máy lên phòng làm việc và ăn mừng bằng cách gác chân lên bàn, nhấp ngụm cà phê đầu tiên trong ngày và giở xấp báo mới ra lò sáng nay.
Trang bìa của tờ Dagbladet chình ình bức ảnh Camilla Loen đang mỉm cười bên dưới dòng tít: “Người tình bí mật?” Tờ Ver d ens Gang cũng đăng bức ảnh đó, nhưng với tiêu đề khác: “Nhà ngoại cảm cho rằng động cơ giết người là do ghen tuông”. Chỉ duy nhất bài viết trên tờ Aftenposten là có vẻ bám sát thực tế.
Møller lắc đầu ngán ngẩm, liếc đồng hồ đeo tay rồi quay số của Tom Waaler. Không thể đúng lúc hơn. Giờ này chắc anh ta vừa kết thúc buổi họp sáng với các thanh tra cùng điều tra vụ án.
“Chưa có tiến triển gì,” Waaler nói. “Chúng tôi đã gõ cửa từng nhà hàng xóm để thẩm vấn và cũng đã trao đổi với tất cả các cửa hàng cửa hiệu quanh đó. Kiểm tra những xe taxi có mặt tại khu vực trong khoảng thời gian xảy ra vụ việc, nói chuyện với những người cung cấp tin, xác minh chứng cứ ngoại phạm của các bạn cũ có tiền án tiền sự. Không phát hiện ra người nào có dấu hiệu khả nghi, có thể nói như vậy. Và thú thật, với vụ này, tôi không cho rằng hung thủ là một trong số những kẻ chúng ta đã biết. Không có dấu hiệu xâm hại tình dục. Tiền bạc và tài sản có giá trị đều không bị đụng đến. Không tìm thấy mô thức quen thuộc nào, cũng chẳng có ai bấm chuông cửa. Như ngón tay bị cắt và viên kim cương để lại chẳng hạn…”
Møller cảm thấy dạ dày sôi òng ọc. Ông hy vọng là do đói.
“Vậy là không có tin tức tốt lành nào cho tôi cả.”
“Đồn cảnh sát Majorstua đã cử ba người đến hỗ trợ, nên bây giờ chúng ta có tổng cộng mười người đảm trách mảng chiến thuật điều tra. Các kỹ thuật viên ở Kripos cũng đang giúp Beate giám định những bằng chứng thu thập được tại căn hộ. Đang trong đợt nghỉ hè mà nhân sự huy động được như vậy cũng là khá ổn rồi. Sếp thấy thế đã đủ tốt lành chưa?”
“Cảm ơn cậu, Waaler, hy vọng tình hình sẽ tiếp tục được duy trì. Ý tôi là về mặt nhân sự ấy.”
Møller cúp máy, ngoảnh đầu định nhìn ra cửa sổ trong chốc lát rồi quay về với mấy tờ báo. Vậy nhưng ông vẫn giữ nguyên tư thế ấy, đầu quay hẳn sang bên trông hết sức cứng nhắc, hai mắt dán vào bãi cỏ bên ngoài Sở. Ông vừa nhác thấy một bóng người đang sải bước trên phố Grønlandsleiret. Con người này dáng điệu tuy không lấy gì làm nhanh nhẹn cho lắm nhưng bước chân ở một chừng mực nào đó lại có vẻ rất ngay hàng thẳng lối, và không nghi ngờ gì nữa, nơi anh ta đang hướng đến chính là: Sở Cảnh sát.
Møller đứng dậy, bước ra hành lang gọi Jenny mang ngay cho mình thêm cà phê cùng một cái tách nữa. Sau đó ông trở vào, ngồi xuống ghế và vội vã rút ra vài tài liệu cũ từ một trong mấy ngăn kéo bàn.
Ba phút sau, có tiếng gõ cửa vang lên.
“Mời vào!” Møller lớn tiếng đáp, mắt vẫn dán vào tập tài liệu là lá đơn dài mười hai trang do một người nuôi chó gửi đến để tố cáo trung tâm khám chữa bệnh trên phố Skippergata dùng sai thuốc dẫn đến làm chết hai con chó chow chow của ông ta. Cửa mở ra, Møller thản nhiên vẫy tay mời khách vào trong lúc chăm chú đọc một trang trình bày về việc hai con chó được nhân giống ra sao, nhận giải thưởng gì trong những cuộc thi chó đẹp, và may mắn sở hữu trí khôn trời phú thế nào.
“Chúa ơi,” Møller nói khi ông cuối cùng cũng chịu ngẩng lên. “Tôi tưởng đã cho cậu về vườn rồi chứ.”
“À, ừm. Nhưng xét thấy quyết định sa thải tôi còn đang ngự trên bàn Giám đốc Sở để chờ ký, và vẫn sẽ nằm đó thêm ít nhất ba tuần nữa, nên tôi nghĩ thôi thì từ giờ đến lúc đấy mình cũng nên đi làm cho nghiêm chỉnh. Phải không, sếp?”
Harry cầm lấy ấm cà phê Jenny pha và tự rót cho mình một tách, rồi mang chiếc tách đi vòng qua bàn Møller để tới đứng bên cửa sổ.
“Nhưng như vậy không có nghĩa tôi sẽ làm vụ Camilla Loen đâu nhé.”
Bjarne Møller quay lại, trầm ngâm nhìn Harry. Ông từng chứng kiến chuyện tương tự thế này vài lần rồi, chỉ mới hôm trước Harry còn cận kề cửa tử nhưng ngay ngày hôm sau anh đã ung dung đi lại cứ như thể người về từ cõi chết. Ấy thế mà không lần nào ông không bị bất ngờ.
“Nếu cậu nghĩ chuyện sa thải là trò đùa, thì cậu nhầm rồi, Harry. Lần này không phải dọa suông đâu. Đó là quyết định cuối cùng. Tất cả những lần cậu làm trái lệnh cấp trên, tôi luôn là người đứng ra xử lý để các sếp giơ cao đánh khẽ. Chính vì lý do đó mà bây giờ tôi cũng chẳng thể nào trốn tránh trách nhiệm của mình được.”
Bjarne Møller quan sát Harry hòng tìm kiếm chút biểu hiện cam chịu trong mắt anh. Nhưng ông không thấy gì. May quá.
“Mọi chuyện là vậy đấy, Harry. Tất cả kết thúc rồi.”
Harry chẳng nói chẳng rằng.
“Nhân lúc tôi vẫn còn nhớ được, giấy phép sử dụng súng của cậu cần được thu hồi ngay lập tức. Đó là thủ tục cơ bản. Cậu sẽ phải xuống kho nộp lại tất cả những vũ khí hiện đang mang theo người.”
Harry gật. Vị sếp Đội Hình sự nhìn anh bằng ánh mắt thăm dò. Có phải ông nhác thấy ở anh vẻ hoang mang thoáng qua của cậu học trò vừa nhận một cái bạt tai bất ngờ không? Møller áp tay lên khuyết dưới cùng của chiếc áo. Đọc vị Harry thật không dễ tí nào.
“Nếu cậu nghĩ mình có thể làm được việc gì đó hữu ích trong những tuần cuối cùng này và muốn đến cơ quan, thì tôi hoàn toàn ủng hộ. Cậu không bị đình chỉ công tác, hơn nữa Sở vẫn trả lương cho cậu đến hết tháng. Mà cả tôi và cậu đều biết nếu không ngồi đây thì cậu sẽ lang thang ở đâu rồi đấy.”
“Thôi được,” Harry làu bàu đáp và đứng dậy. “Tôi sẽ chỉ đi xem văn phòng của mình còn hay mất mà thôi. Nếu có việc gì cần tôi giúp, sếp cứ bảo.”
Bjarne Møller nở nụ cười bao dung.
“Được, tôi nhớ rồi, Harry.”
“Như vụ hai con chó chow chow kia chẳng hạn,” Harry nói rồi khẽ khàng khép cửa lại sau lưng.
Harry đứng ở lối vào, lặng lẽ quan sát phòng làm việc chung của anh. Đối diện bàn anh là chiếc bàn trống đã được dọn dẹp ngăn nắp trong thời gian nghỉ phép của Halvorsen. Bức tường phía trên tủ hồ sơ có treo ảnh sĩ quan Ellen Gjelten chụp hồi cô còn ngồi ở chỗ của Halvorsen bây giờ. Bức tường còn lại bị tấm bản đồ đường phố Oslo choán gần hết. Rải rác trên đó là những chiếc đinh mũ, đường kẻ và các mốc thời gian đánh dấu vị trí của Ellen, Sverre Olsen và Roy Kvinsvik vào thời điểm xảy ra án mạng. Harry bước tới chỗ bức tường và đứng trước tấm bản đồ. Thế rồi, bằng một động tác nhanh nhẹn, anh xé tan và tống nó vào một ngăn kéo tủ hồ sơ. Anh lấy từ trong túi áo khoác ra bình rượu bạc loại giắt ở thắt lưng, tu vội một hơi rồi tì trán lên mặt tủ bằng kim loại mát lạnh.
Anh đã làm việc suốt hơn mười năm qua trong chính văn phòng này. Căn phòng 605. Phòng nhỏ nhất trong khu vực cấm trên tầng sáu. Ngay cả hồi họ nảy ra ý định kỳ quặc là thăng chức cho anh lên làm thanh tra thám tử, anh vẫn nhất quyết đòi ở lại chỗ này. Phòng 605 tuy không có bất kỳ cửa sổ nào, nhưng chính từ nơi đây anh đã ngồi quan sát cả thế giới. Với vỏn vẹn chỉ mười mét vuông này, anh đã kiên trì học hỏi, ăn mừng thắng lợi, gặm nhấm thất bại và đúc kết được đôi điều sâu sắc về tâm trí con người. Anh cố nhớ xem mình còn làm được những việc nào khác trong mười năm qua không. Chắc chắn phải có điều gì đáng nhớ chứ. Ngày nào mi chẳng ở đây làm việc từ tám đến mười tiếng đồng hồ. Tối đa là mười hai tiếng. Chưa kể vào những dịp cuối tuần.
Harry ngồi phịch xuống chiếc ghế tàn tạ của mình, khiến cái lò xo hỏng ré lên trong niềm hân hoan. Anh hoàn toàn có thể vui vẻ ngồi lì ở đây thêm hai tuần nữa.
Thường thì năm giờ hai mươi lăm phút chiều là Bjarne Møller đã về với gia đình. Tuy nhiên, hiện vợ con ông đang về thăm nhà ngoại nên ông định tranh thủ mấy ngày nghỉ ngơi yên bình này để xử lý những việc giấy tờ bê trễ. Vụ bắn chết người ở phố Ullevålsveien ít nhiều cũng khiến ý định đó bị ảnh hưởng, nhưng ông quyết tâm làm bù lại khoảng thời gian đã mất.
Khi nhận được cuộc gọi từ phòng điều phối trung tâm, Møller bực bội yêu cầu họ gọi cho bộ phận cảnh sát mặc đồng phục vì Đội Hình sự không thể ôm đồm tiếp nhận cả các trường hợp mất tích được.
“Rất xin lỗi, Møller. Đội cảnh sát tuần tra đang phải xử lý vụ hỏa hoạn ở khu Grefsen. Người gọi điện báo tin cho rằng đối tượng mất tích chính là nạn nhân của một vụ sát hại.”
“Hiện tại toàn bộ nhân sự ở đây đều đang tập trung điều tra vụ giết người trên phố Ullevålsveien. Nghĩa là…” Møller đột ngột im bặt. “À, khoan. Chờ chút, để tôi xem lại đã…”