← Quay lại trang sách

PHẦN BA CHƯƠNG 13 Thứ Hai
CHẠM

Em đang xuất hiện trên ti vi, người yêu dấu. Cả một bức tường ngập tràn hình ảnh em. Mười hai bản sao của em, tất cả cùng đồng loạt sóng bước, những hình bóng và sắc thái gần như không có chút khác biệt. Em đang trình diễn trên sàn catwalk ở Paris. Em dừng lại, đánh hông và nhìn xuống tôi bằng ánh mắt lạnh lùng đầy ác cảm đã luyện đến thuần thục, rồi quay lưng lại với tôi. Thật hiệu nghiệm. Lần nào sự hắt hủi cũng hiệu nghiệm như vậy đấy, em biết mà, phải không em yêu?

Thế rồi màn trình diễn kết thúc, và em ban cho tôi mười hai ánh nhìn nghiêm khắc trong lúc đọc mười hai bản tin giống hệt nhau, còn tôi thì mải mê đọc hai mươi tư cặp môi đỏ, nhưng em chỉ mấp máy trong câm lặng, tôi yêu em chính bởi sự câm lặng ấy.

Tiếp đó là hình ảnh lũ lụt xảy ra đâu đó ở châu Âu. Xem kìa, tình yêu của tôi, chúng ta đang bì bõm lội nước trên đường phố. Tôi quệt ngón tay lên màn hình, vẽ biểu tượng ngôi sao dành cho em. Ti vi dẫu đã chết nhưng ma sát giữa màn hình đầy bụi và ngón tay tôi vẫn còn đó. Tựa như luồng điện truyền qua. Tựa như sự sống bị giam cầm. Và cái chạm của tôi khiến sự sống ấy trỗi dậy.

Một đỉnh của ngôi sao trùng với vỉa hè bên ngoài tòa nhà xây bằng gạch đỏ phía bên kia giao lộ, em yêu ạ. Tôi có thể đứng ở đây, trong cửa hàng ti vi, và quan sát tòa nhà ấy qua khoảng trống giữa những chiếc ti vi kia. Nơi này là một trong những giao lộ nhộn nhịp nhất ở Oslo, và thường ngày, những dãy ô tô sẽ xếp thành hàng dài, vậy nhưng hôm nay chỉ có đúng hai chiếc xe chạy trên hai ngả tỏa ra từ trung tâm giao lộ rải nhựa đường. Có đến năm ngã rẽ, em yêu ạ. Em đã nằm trên giường chờ tôi suốt cả ngày. Chỉ còn phải làm một việc này nữa thôi, rồi tôi sẽ về với em. Nếu em thích, tôi sẽ rút lá thư ấy ra từ phía sau bức tường và thì thầm vào tai em. “Hỡi người yêu dấu của tôi! Em luôn ngự trị trong tâm trí tôi. Môi kề môi, da kề da, cảm giác ấy vẫn còn đây.”

Tôi đẩy cửa chuẩn bị bước ra ngoài. Ánh mặt trời ùa vào như thác lũ. Mặt trời. Thác lũ. Tôi sẽ sớm về bên em.

Ngày hôm nay mở đầu thật tệ hại với Møller.

Đêm hôm trước, ông đã phải tới khu tạm giam đón Harry, rồi sáng ra ông lại bị đánh thức bởi cơn đau quặn lên nơi cái dạ dày xẹp lép như một quả bóng chuyền bãi biển hết hơi.

Nhưng tình hình sắp tới sẽ còn tồi tệ hơn nhiều.

Tuy vậy, vào lúc chín giờ sáng, mọi chuyện xem ra cũng không đến nỗi nào khi anh chàng Harry mặt mũi rõ tỉnh táo bước vào phòng họp của Đội Hình sự trên tầng sáu. Lúc đó quanh bàn đã có mấy người ngồi: Tom Waaler, Beate Lønn, bốn thanh tra của đội phụ trách mảng chiến thuật điều tra, ngoài ra còn có hai chuyên gia đồng nghiệp đang đi nghỉ thì bị triệu hồi về phá án từ đêm hôm trước.

“Chúc mọi người buổi sáng tốt lành,” Møller lên tiếng. “Chắc các anh chị đều đã nắm được những gì chúng ta đang nắm trong tay lúc này: hai vụ án, có thể coi là án mạng, với những dấu hiệu cho thấy hung thủ của cả hai vụ án chính là một. Tóm lại, xem ra ta đang phải đối mặt với cơn ác mộng mà bất cứ ai trong nghề cũng có lúc gặp phải.”

Møller đặt tấm phim đầu tiên lên đèn chiếu.

“Chúng ta có thể thấy, phía bên trái là ảnh chụp bàn tay phải của Camilla Loen với ngón trỏ bị chặt đứt. Còn bên phải là ngón giữa bàn tay trái của Lisbeth Barli, được gửi đến cho tôi qua đường bưu điện. Hiện chưa tìm ra thi thể để đối chiếu, tuy nhiên Beate vẫn xác định được ngón tay này bằng cách so sánh với dấu vân tay thu được tại căn hộ nhà Barli. Tinh thần, làm việc chủ động rất đáng khen, Beate.”

Beate đỏ mặt, gõ gõ bút chì lên cuốn sổ tay trong lúc cố tỏ ra bình thản.

Møller chuyển sang tấm phim khác.

“Viên đá quý này được tìm thấy dưới mí mắt của Camilla, một viên kim cương màu đỏ hình ngôi sao năm cánh. Bên phải là chiếc nhẫn đeo trên ngón tay của Lisbeth. Các anh chị cũng thấy đấy, viên kim cương trên chiếc nhẫn có màu nhạt hơn, nhưng hình dạng thì giống hệt.”

“Chúng tôi đã cố gắng truy tìm nguồn gốc viên kim cương thứ nhất,” Waaler nói. “Nhưng không thu được kết quả gì. Ảnh chụp viên kim cương được gửi đến cho hai trong số những cửa hiệu chế tác kim cương quy mô nhất ở Antwerpen, song họ bảo rằng kỹ thuật cắt này có lẽ bắt nguồn từ một nơi khác ở châu Âu. Họ cho là Nga hoặc miền Nam nước Đức.”

“Chúng tôi đã liên hệ với một chuyên gia về kim cương làm việc tại tập đoàn De Beers, đầu mối thu mua kim cương thô lớn nhất thế giới hiện nay,” Beate nói. “Cô ấy cho biết có thể sử dụng phương pháp phổ và chụp cắt lớp vi tầng để xác định chính xác nguồn gốc của kim cương. Tối nay cô ấy sẽ bay từ London sang đây hỗ trợ chúng ta.”

Magnus Skarre, một trong những thanh tra trẻ gia nhập Đội Hình sự cách đây chưa lâu, giơ tay hỏi.

“Thưa sếp, quay lại với thông tin ban đầu, tôi không hiểu tại sao vụ này lại là cơn ác mộng nếu là án mạng kép cơ chứ. Rốt cuộc thì chúng ta chỉ phải truy tìm một thay vì hai tên sát nhân thôi mà, do đó mọi người ở đây có thể tập trung điều tra một mục tiêu duy nhất. Tôi nghĩ, tình hình đáng ra phải hoàn toàn trái ngược chứ ạ…”

Magnus Skarre nghe thấy một tiếng đằng hắng trầm trầm, mọi con mắt đều đổ dồn về phía Harry Hole đang ngồi lún mình trên ghế từ đầu buổi họp đến giờ.

“Cậu tên gì ấy nhỉ?” Harry hỏi.

“Magnus.”

“Họ?”

“Skarre.” Giọng anh ta có chút hậm hực. “Anh phải nhớ…”

“Không, Skarre, tôi chả nhớ. Nhưng cậu thì cố mà nhớ lấy những gì tôi sắp nói ra đây. Khi phải đương đầu với một vụ giết người có chủ đích, mà trong trường hợp này là đã được lên kế hoạch kỹ càng, các điều tra viên đều biết hung thủ nắm trong tay rất nhiều lợi thế hiển nhiên. Hắn có thể xóa sạch tất cả các chứng cứ pháp y, chuẩn bị sẵn bằng chứng ngoại phạm vững chắc cho mình vào thời điểm gây án, phi tang hung khí, vân vân. Nhưng có một điều hắn không bao giờ có thể che giấu được. Và đó là gì nhỉ?”

Magnus Skarre chớp mắt lia lịa.

“Động cơ,” Harry nói. “Đơn giản quá, đúng không? Động cơ gây án, đó là xuất phát điểm của mọi cuộc điều tra. Một yếu tố căn bản đến mức đôi khi chúng ta bỏ qua mất. Cho đến một ngày, bỗng dưng hắn từ đâu xuất hiện: kẻ giết người bước ra từ cơn ác mộng đáng sợ nhất đối với mọi thanh tra cảnh sát. Hoặc từ ‘giấc mộng vàng’, tất cả tùy thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi người. Và ác mộng là ở chỗ hung thủ không có động cơ gây án. Hay nói đúng hơn, hắn không có động cơ gây án nào nằm trong giới hạn hình dung của con người.”

“Chỉ là anh đang làm quá lên đấy thôi, đúng không thanh tra Hole?” Skarre đưa mắt nhìn mọi người quanh bàn. “Giờ vẫn chưa xác định được liệu có động cơ nào đằng sau hai vụ giết người này hay không.”

Tom Waaler hắng giọng.

Møller nhận thấy cơ hàm Harry nghiến đanh lại.

“Nói đúng lắm,” Waaler lên tiếng.

“Tất nhiên là tôi nói đúng rồi,” Skarre đáp. “Rõ ràng…”

“Im đi, Skarre, tôi nói thanh tra Hole kìa. Chúng ta đã điều tra hai vụ này suốt mươi, mười lăm ngày qua mà không tìm ra bất cứ manh mối nào có thể cho thấy điểm chung giữa hai nạn nhân. Khi giữa họ chỉ có một mối liên hệ duy nhất là cách thức sát hại, thủ đoạn của hung thủ và những thứ kiểu như thông điệp dưới dạng mật thư, và rồi chúng ta bắt đầu nghĩ đến một từ mà tôi đề nghị chưa nên nói ra lúc này vội, tuy rằng mọi người cũng đã mường tượng trong đầu rồi. Tôi cũng đề nghị Skarre và những cậu trai mới chân ướt chân ráo ra trường từ giờ nên dựa cột mà nghe khi thanh tra Hole phát biểu.”

Cả phòng lặng phắc như tờ.

Møller thấy Harry nhìn Waaler chằm chằm.

“Tóm lại,” Møller nói, “chúng ta đang ghi nhớ hai luồng suy nghĩ trong đầu cùng một lúc. Thứ nhất, chúng ta tiếp tục điều tra một cách bài bản, coi như đây là hai vụ án mạng thông thường. Thứ hai, cứ cho rằng chúng ta đang làm quá quá quá lên đi. Ngoài tôi, không ai được phép hở ra câu nào với báo giới. Năm giờ ta họp tiếp. Mọi người chia nhau làm việc đi.”

Người đàn ông đứng dưới ánh đèn sân khấu trong bộ trang phục thanh lịch, tay cầm chiếc tẩu kiểu Sherlock Holmes và nhấp nhỉnh gót chân trong lúc nhìn cô gái ăn mặc rách rưới trước mặt mình bằng ánh mắt thương cảm.

“Học phí cô định trả cho tôi là bao nhiêu?”

Người phụ nữ rách rưới hơi ngửa đầu ra sau và chống nạnh.

“Ồ, tôi biết giá chứ. Một cô bạn của tôi đã được một quý ông người Pháp đích thực chỉ dạy với giá mười tám pence một giờ. Ừm, ông dạy tôi tiếng mẹ đẻ của tôi thì không thể đòi hỏi cao như với tiếng Pháp được, vậy nên tôi sẽ không trả quá một shilling đâu. Nhận hay không tùy ông.”

Wilhelm Barli ngồi ở hàng ghế thứ mười hai và để mặc cho nước mắt cứ thế lăn dài trên má. Ông ta cảm thấy dòng lệ chảy xuống cổ, thấm ướt lồng ngực bên dưới chiếc sơ mi lụa kiểu Thái Lan; nước mắt mặn mòi khiến hai đầu ti hơi rát trước khi tiếp tục lan xuống bụng.

Dòng lệ vẫn không ngừng tuôn chảy.

Ông ta đưa tay lên bưng miệng để những tiếng nấc nghẹn ngào khỏi làm ảnh hưởng đến các diễn viên và vị đạo diễn sân khấu ngồi ở hàng ghế thứ năm.

Barli giật thót khi cảm thấy bàn tay ai đó đặt lên vai mình. Ông ta quay sang và bắt gặp một người đàn ông cao lớn đứng sừng sững bên cạnh. Dự cảm chẳng lành khiến ông ta chết trân tại chỗ.

“Có chuyện gì vậy?” ông ta khẽ hỏi bằng giọng nghèn nghẹn.

“Tôi đây,” người đó thì thầm. “Harry Hole. Cảnh sát ấy mà.”

Wilhelm Barli hạ tay xuống, chăm chú quan sát từng chi tiết trên khuôn mặt Harry.

“Dĩ nhiên rồi,” ông ta nói bằng giọng nhẹ nhõm. “Xin lỗi thanh tra. Trong này tối quá. Tôi cứ tưởng…”

Người cảnh sát ngồi vào ghế bên cạnh Wilhelm.

“Tưởng gì?”

“Anh mặc toàn đồ đen.”

Wilhelm lấy khăn mùi soa hỉ mũi.

“Tôi tưởng anh là linh mục. Một linh mục tới… báo tin xấu. Ngu ngốc quá phải không?”

Viên cảnh sát không đáp.

“Anh đến đúng lúc tâm trạng tôi đang khá dễ xúc động, thanh tra ạ. Hôm nay chúng tôi tổng duyệt buổi đầu tiên. Anh nhìn cô ta xem.”

“Ai cơ?”

“Eliza Doolittle? Trên kia kìa. Khi trông thấy cô ta trên sân khấu, trong giây phút ngắn ngủi tôi cứ ngỡ người đang đứng đó là Lisbeth, và chuyện cô ấy ra đi chỉ là một giấc mơ mà thôi.”

Wilhelm hít thở sâu, toàn thân khẽ run rẩy.

“Nhưng rồi khi cô ta bắt đầu cất lời, Lisbeth của tôi bỗng tan biến.”

Wilhelm phát hiện ra người cảnh sát bên cạnh mình đang đăm đăm nhìn lên sân khấu bằng ánh mắt ngỡ ngàng.

“Giống nhau đến khó tin phải không? Vì thế tôi mới mời cô ta. Vai diễn trong vở nhạc kịch này vốn thuộc về Lisbeth.”

“Có phải kia là…?” Harry ngập ngừng hỏi.

“Phải, đó chính là chị ruột của cô ấy.”

“Toya sao? Ý tôi là, Toy-A.”

“Chúng tôi đã cố gắng giữ bí mật chuyện này. Vài giờ nữa chúng tôi sẽ có buổi họp báo.”

“Ờ. Chắc sẽ thu hút được một phần dư luận đây.”

Toya làm động tác xoay người nhưng chẳng may vấp chân và lớn tiếng chửi thề. Bạn diễn của chị ta giơ hai tay lên trời vẻ tuyệt vọng và đưa mắt cầu cứu đạo diễn.

Wilhelm thở dài.

“Dư luận không phải là yếu tố quyết định. Anh thấy đấy, còn nhiều việc phải làm lắm. Khả năng của cô ta có thể coi như viên ngọc thô chưa qua mài giũa, nhưng biểu diễn trên sân khấu Nhà hát Quốc gia đâu có giống như hát mấy ca khúc cao bồi tại nhà văn hóa của thị trấn bé tẹo nào đó ở miền Trung Na Uy đâu. Tôi mất đến hai năm mới luyện được cho Lisbeth kỹ năng trình diễn trên sân khấu, nhưng với cô ta thì chúng tôi sẽ phải đưa lên đó trong vòng hai tuần nữa.”

“Nếu lúc này tôi đang làm phiền ông thì tôi sẽ cố gắng nói thật ngắn gọn, thưa ông Barli.”

“Nói ngắn gọn ư?”

Wilhelm cố thăm dò nét mặt Harry trong bóng tối. Nỗi sợ hãi một lần nữa siết nghẹt lấy ông ta, và khi Harry mở miệng thì bản năng đã lập tức trỗi dậy khiến Barli vội vã xen ngang.

“Có phiền gì đâu, thanh tra. Tôi chỉ là nhà sản xuất thôi. Anh biết đấy, người chỉ đóng vai trò điều phối chung. Giờ đến phần việc của những người khác rồi.”

Ông ta huơ tay về phía sân khấu, đúng lúc nam diễn viên trong bộ trang phục bằng vải tweed dõng dạc tuyên bố, “Ta sẽ biến mớ giẻ rách này thành một nữ công tước!”

“Đạo diễn, thiết kế sân khấu, diễn viên,” Barli nói. “Kể từ ngày mai, tôi sẽ chỉ là người ngoài cuộc đứng xem vở…” Ông ta tiếp tục huơ tay trong không khí cho đến khi tìm được từ muốn nói, “… hài kịch này mà thôi.”

“À thì, tất cả chúng ta đều phải thử mới biết mình có tài cán gì được chứ.”

Wilhelm bật cười khô khốc, sau đó nín thinh khi thấy bóng dáng cái đầu vị đạo diễn đột ngột quay về phía họ. Ông ta nhoài người lại gần anh cảnh sát, hạ giọng thì thầm, “Anh nói đúng lắm. Tôi từng làm vũ công suốt hai mươi năm trời. Chẳng giấu gì anh, tôi cực kỳ tệ trong khoản nhảy múa, nhưng thể loại opera luôn thiếu vũ công nam trầm trọng nên chỉ cần trình độ nhảy nhót ở mức sơ đẳng là đều được nhận hết. Dù sao thì, cứ đến bốn mươi tuổi là bọn tôi giải nghệ và rồi tôi buộc phải xoay xở mưu sinh bằng cách khác. Lúc đó tôi mới phát hiện ra năng khiếu thực sự của mình là bố trí đội hình biểu diễn. Quản lý sân khấu, thanh tra ạ. Đó là việc duy nhất tôi có năng lực. Nhưng anh biết sao không? Ai đời vừa nếm trải được chút ít thành công, chúng tôi đã lập tức trở thành những kẻ thảm hại. Mới làm được đôi ba tác phẩm suôn sẻ chúng tôi đã tưởng mình là thần thánh có thể xoay chuyển được càn khôn và rằng vạn sự đều nằm trong tay chúng tôi. Thế rồi một chuyện như thế này xảy ra, lúc đó chúng tôi mới biết mình vô năng đến mức nào. Tôi…”

Wilhelm đột nhiên im bặt.

“Tôi khiến ông cảm thấy chán quá à?”

Người đàn ông kia lắc đầu, đằng hắng một tiếng.

“Chuyện là về vợ ông.”

Wilhelm nhắm chặt mắt lại như thể đang chuẩn bị đón nhận một âm thanh lớn rất khó chịu.

“Chúng tôi nhận được một bưu phẩm. Trong đó có một ngón tay bị chặt đứt. Tôi e rằng ngón tay đó là của bà nhà.”

Wilhelm nuốt khan một cách đầy khó nhọc. Trước kia ông ta lúc nào cũng thấy mình là người đa sầu đa cảm, nhưng giờ đây ông ta có cảm giác nó lại đang sống dậy một lần nữa. Một khối u xuất hiện ở nơi tận cùng trái tim của ông ta kể từ cái ngày định mệnh ấy. Khối u đang ngày ngày đẩy ông ta đến gần hơn tới bờ vực điên loạn. Ông ta cảm thấy như thể nó cũng có màu sắc riêng, nỗi oán hận dường như có màu vàng thì phải.

“Anh biết gì không, thanh tra? Đó gần như là một nỗi nhẹ lòng. Ngay từ đầu tôi đã có linh cảm về chuyện đấy rồi. Rằng hắn sẽ làm hại cô ấy.”

“Làm hại ư?”

Wilhelm nhận ra trong giọng nói của người cảnh sát có chút ngạc nhiên đầy ái ngại.

“Anh có thể hứa với tôi một chuyện không, Harry? Tôi gọi anh là Harry được chứ?”

Người cảnh sát gật đầu.

“Hãy tìm ra kẻ đó. Anh phải tìm được hắn, Harry. Và trừng trị hắn. Thật nghiêm khắc. Anh hứa với tôi chứ?”

Wilhelm nghĩ mình thoáng thấy người đàn ông kia gật đầu, nhưng ông ta không dám chắc. Nước mắt nhạt nhòa khiến ông ta không nhìn rõ được gì.

Thế rồi người cảnh sát biến mất. Wilhelm hít một hơi thật sâu và cố gắng chuyển sự tập trung về lại phía sân khấu.

“Không! Tôi sẽ gọi cảnh sát, nhất định sẽ gọi,” Toya la lớn.

Harry ngồi trong văn phòng, mắt dán xuống mặt bàn. Anh mệt tới mức không biết mình còn có thể làm nổi việc gì nữa không.

Những màn phiêu lưu xảy ra ngày hôm trước - mấy tiếng ngồi tù cộng thêm một đêm ác mộng giày vò khác - đã bắt đầu bòn rút sinh lực của anh. Nhưng cuộc gặp gỡ với Wilhelm Barli mới thực sự khiến anh kiệt sức. Kiệt sức khi phải ngồi đó, hứa hẹn rằng họ sẽ bắt được hung thủ, cố gắng kiềm chế khi Barli nói vợ ông ta bị “làm hại”. Vì nếu có điều gì Harry biết chắc thì đó là Lisbeth Barli đã chết rồi.

Harry cảm thấy cơn khát rượu đang cuộn trào nhức nhối kể từ khoảnh khắc anh thức dậy sáng nay. Ban đầu là cảm giác cồn cào trong dạ dày theo bản năng, rồi chuyển sang sợ hãi đến hốt hoảng vì anh đã tự cách ly mình với thuốc chữa khi rời nhà đi làm mà không đem theo cái chai nhỏ đeo bên hông, cũng chẳng có xu nào trong túi. Giờ đây, cơn nhức nhối ấy đang dần chuyển sang giai đoạn mới, vừa đau đớn cùng cực về thể chất vừa sợ hãi tột độ, sợ mình sẽ bị xé thành muôn mảnh. Kẻ thù của anh dưới kia đang giằng kéo xiềng xích, những con chó nhe nanh gầm gừ với anh từ bên dưới vực thẳm nằm đâu đó giữa dạ dày và trái tim. Chúa ơi, anh căm thù chúng biết mấy. Nhưng anh càng căm thù chúng bao nhiêu thì chúng cũng căm thù anh bấy nhiêu.

Harry gượng đứng dậy. Anh đã giấu nửa chai Bell trong tủ hồ sơ từ hôm thứ Hai. Không hiểu lúc này anh mới chợt nhớ ra hay là điều đó vẫn luôn nằm trong tâm trí anh suốt từ nãy đến giờ? Harry đã quá quen với cả trăm trò chơi khăm quái quỷ Harry bày ra để đùa bỡn Harry. Vừa định mở ngăn kéo thì anh đột nhiên ngẩng lên. Anh vừa nhác thấy có chuyển động. Ellen đang mỉm cười nhìn anh trong bức ảnh đằng kia. Là anh đã hóa điên hay thực tình miệng cô vừa mới cử động nhỉ?

“Nhìn cái gì, đồ quỷ?” anh lầm bầm, và một tích tắc ngay sau đó, bức ảnh treo trên tường bỗng rơi xuống sàn nhà, kính vỡ tan tành. Harry chằm chằm nhìn Ellen đang vô tư mỉm cười với anh trong khung ảnh vỡ. Anh ôm lấy bàn tay phải đau nhức nhối bên dưới lớp băng gạc.

Chỉ đến khi quay lại mở ngăn kéo anh mới để ý thấy hai người đang đứng ở ngưỡng cửa. Anh nhận ra rằng chắc hẳn họ đã đứng đó được một lúc và chuyển động mà anh trông thấy lúc trước là bóng họ trên tấm kính khung ảnh.

“Chào chú,” Oleg nói, nhìn Harry bằng ánh mắt ngỡ ngàng xen lẫn sợ hãi.

Harry nuốt khan. Anh bỏ tay ra khỏi ngăn kéo.

“Chào Oleg.”

Oleg đang đi giày thể thao, mặc chiếc quần xanh có một dải màu vàng đặc trưng của đất nước Brazil. Harry vốn đã biết trên lưng áo của Oleg in số chín bên dưới cái tên Ronaldo. Chính anh là người đã mua bộ đồ này ở trạm xăng vào một ngày Chủ nhật trên đường cùng Rakel và Oleg tới núi Norefjell chơi trượt tuyết.

“Tôi thấy cậu bé dưới nhà,” Tom Waaler nói.

Anh ta đặt tay lên đầu Oleg.

“Nó đang đứng ở khu lễ tân xin được gặp anh, vì thế tôi dẫn nó lên đây. Cháu chơi bóng đá phải không, Oleg?”

Oleg không trả lời mà chỉ nhìn Harry. Bằng cặp mắt sẫm màu thừa hưởng của người mẹ, cặp mắt có lúc thì dịu dàng bất tận và lúc khác lại khắc nghiệt tột cùng, không chút từ bi. Lúc này đây Harry không biết ánh mắt ấy đang biểu lộ điều gì, nhưng cũng dễ hiểu thôi vì chúng đen thăm thẳm.

“Cháu là tiền đạo à?” Waaler hỏi, nhoẻn cười và xoa đầu thằng bé.

Harry đăm đăm nhìn những ngón tay mạnh mẽ, gân guốc của gã đồng nghiệp, những lọn tóc sẫm màu dựng đứng của Oleg nổi bật trên mu bàn tay rám nắng. Anh có thể cảm thấy chân mình như sắp khuỵu xuống.

“Không,” Oleg nói, mắt vẫn dán chặt vào Harry. “Cháu chơi ở vị trí hậu vệ.”

“Oleg này,” Waaler nói, hướng ánh nhìn dò hỏi về phía Harry. “Chú Harry còn phải ở đây tập nốt bài tập đấm gió - chú cũng hay làm thế khi có chuyện bực mình - nên hay là chú cháu mình lên sân thượng ngắm cảnh trong lúc chú Harry dọn dẹp một chút nhé?”

“Cháu sẽ ở lại đây,” Oleg tuyên bố chắc nịch.

Harry gật đầu.

“Vậy được. Rất vui được gặp cháu, Oleg.”

Waaler vỗ vai thằng bé rồi rời đi. Oleg vẫn đứng ở ngưỡng cửa.

“Làm thế nào cháu đến được đây?” Harry hỏi.

“Cháu đi tàu điện ngầm.”

“Một mình?”

Oleg gật.

“Mẹ cháu có biết cháu đến đây không?”

Oleg lắc đầu.

“Cháu không định vào sao?” Cổ họng Harry bỗng trở nên khô khốc.

“Cháu muốn chú quay về,” Oleg nói.

Bốn giây sau khi Harry nhấn chuông, Rakel đã giật mở tung cánh cửa. Cặp mắt cô tối đen vì giận dữ.

“Đi đâu mà giờ mới về?”

Trong giây lát, Harry tưởng câu hỏi đó dành cho cả hai chú cháu trước khi anh nhận ra ánh mắt cô lướt qua mình và chiếu thẳng vào Oleg.

“Con chẳng có ai chơi cùng,” Oleg nói, mặt cúi gằm. “Nên con bắt tàu điện ngầm vào thành phố.”

“Tàu điện ngầm. Con dám đi một mình sao? Nhưng làm thế nào…?”

Giọng Rakel nhỏ dần.

“Con lẻn đi lúc mẹ không để ý,” Oleg nói. “Con tưởng làm thế sẽ khiến mẹ vui. Vì mẹ bảo mẹ cũng muốn…”

Cô đột ngột ôm chầm lấy thằng bé.

“Có biết mẹ lo cho con đến thế nào không hả, ông tướng?” Cô ôm Oleg trong tay, nhìn Harry bằng ánh mắt trách cứ.

Rakel và Harry đứng bên hàng rào phía cuối vườn, ngắm nhìn thành phố Oslo và vịnh hẹp phía dưới. Không ai nói với nhau câu gì. Những chiếc thuyền buồm trông như những hình tam giác tí hon màu trắng nổi bật trên mặt biển xanh trong. Harry ngoái nhìn ngôi nhà phía sau lưng. Chim chóc cất cánh vút bay từ bãi cỏ, thoắt ẩn thoắt hiện giữa những tán lá trong vườn táo trước khung cửa sổ để mở. Đó là một ngôi nhà bề thế làm từ gỗ mộc màu đen - một ngôi nhà được xây dựng để thích hợp ở vào mùa đông thay vì là mùa hè.

Harry đưa mắt nhìn Rakel. Cô mặc áo khoác mỏng màu đỏ bằng vải bông cài kín cúc cổ bên ngoài chiếc váy xanh dương nhạt, để lộ đôi chân trần. Dưới ánh mặt trời, những giọt mồ hôi sáng long lanh trên làn da dưới sợi dây chuyền hình thánh giá - kỷ vật mẹ để lại cho cô. Harry trầm ngâm nghĩ, anh biết mọi điều về cô: hương thơm của chiếc áo khoác bằng vải bông, tấm lưng ong mềm mại ẩn sau lớp váy áo, mùi hương trên da khi những giọt mồ hôi mặn mòi còn vương lại, những nguyện vọng của cô trong cuộc sống và cả lý do vì sao cô im lặng.

Biết nhiều như thế nhưng cũng có ích gì đâu.

“Tình hình thế nào rồi?” anh hỏi.

“Ổn cả,” cô nói. “Em đã thuê một căn nhà gỗ nhỏ. Nhưng phải sang tháng Tám mẹ con em mới có thể chuyển đến được. Tại em đặt trễ quá.”

Giọng cô rất bình thản, khó lòng nhận ra hàm ý trách móc trong đó.

“Anh bị thương ở tay à?”

“Chỉ là rách da thôi,” Harry nói.

Một lọn tóc lơ thơ xòa xuống mặt cô theo làn gió. Anh cố ghìm lại khao khát được đưa tay vén nó lên.

“Em đã nhờ người qua định giá ngôi nhà hôm qua,” cô nói.

“Định giá? Em không định bán nhà đi đấy chứ?”

“Ngôi nhà quá lớn trong khi chỉ có hai người ở thôi, Harry ạ.”

“Ừ, nhưng em yêu căn nhà này mà. Em đã lớn lên ở đây. Và Oleg cũng vậy.”

“Điều đó em đâu cần anh phải nhắc. Vấn đề là ở chỗ, chi phí sinh hoạt vào mùa đông ở đây tốn gấp đôi so với dự tính của em. Và giờ phần mái cũng cần sửa sang lại. Ngôi nhà đã cũ quá rồi mà.”

“Ừm.”

Harry quan sát Oleg đá quả bóng về phía cửa gara. Sau đó thằng bé lại bồi thêm cú nữa và ngay khi bóng rời chân, nó liền nhắm mắt lại, giơ hai tay lên như đang chào đám người hâm mộ trong tưởng tượng.

“Rakel này.”

Cô thở dài.

“Có chuyện gì, Harry?”

“Ít nhất em cũng nên nhìn anh khi anh nói chuyện với em chứ?”

“Không.” Giọng cô không buồn mà cũng chẳng giận, cô chỉ đang nói sự thật thôi.

“Liệu có thay đổi được gì không nếu bây giờ anh từ bỏ?”

“Anh không thể từ bỏ được, Harry.”

“Ý anh là nghề cảnh sát ấy.”

“Em cũng đoán ra rồi.”

Anh lấy chân đá đám cỏ dưới mặt đất.

“Có thể anh không có quyền lựa chọn,” anh nói.

“Không ư?”

“Không.”

“Vậy sao anh còn hỏi em câu hỏi giả thuyết đó?”

Cô thổi nhẹ cho lọn tóc khỏi vướng.

“Anh có thể tìm một công việc khác bình lặng hơn, dành nhiều thời gian bên gia đình hơn, chăm sóc cho Oleg. Chúng ta có thể…”

“Thôi đi, Harry!”

Lời cô thốt ra nghe như tiếng roi quất. Cô cúi đầu, khoanh hai tay trước ngực như thể đang lạnh cóng dưới ánh mặt trời thiêu đốt.

“Câu trả lời là, không,” cô khẽ nói. “Làm thế cũng không thể thay đổi được bất cứ điều gì. Vấn đề ở đây không phải là công việc của anh. Mà là…”

Cô hít một hơi, quay lại và nhìn thẳng vào mắt anh.

“Mà là anh, Harry ạ. Anh chính là vấn đề.”

Harry trông thấy mắt cô ầng ậng nước.

“Anh về đi,” cô nói khẽ.

Anh định lên tiếng nói gì đó, nhưng rồi lại đổi ý. Thay vì thế, anh hất mặt về phía những chiếc thuyền buồm dưới vịnh hẹp.

“Em nói đúng,” anh đáp. “Anh chính là vấn đề. Anh sẽ qua nói chuyện với Oleg một lát rồi về.”

Bước được vài bước, anh bỗng dừng lại và ngoái nhìn.

“Đừng bán ngôi nhà này, Rakel. Nhất định không được bán, em hiểu không? Anh sẽ nghĩ cách khác giúp em.”

Cô mỉm cười trong làn nước mắt.

“Anh đúng là người đàn ông kỳ lạ,” cô thì thầm và chìa tay ra như định vuốt má anh, nhưng anh đã đi xa rồi, bàn tay cô lại buông thõng.

“Bảo trọng nhé, Harry.”

Lúc Harry ra về, một cơn rùng mình bỗng chạy dọc sống lưng anh. Đã năm giờ mười lăm phút rồi. Anh phải nhanh chóng quay về dự cuộc họp.

Tôi đang ở trong tòa nhà. Nơi này có mùi như mùi tầng hầm vậy. Tôi đang lặng lẽ đứng đọc những cái tên trên bảng tin trước mặt. Có tiếng nói và tiếng chân bước trên cầu thang, nhưng tôi không sợ. Họ không thể thấy được, nhưng tôi vô hình. Em có nghe thấy không? Họ không thể thấy được, nhưng… Đó không phải nghịch lý, em yêu ạ. Chỉ là tôi chọn cách nói nghe như thể nghịch lý vậy thôi. Mọi thứ trên đời đều có thể bị biến thành nghịch lý. Việc đó chẳng khó. Có điều, trên đời không tồn tại nghịch lý thực sự. Nghịch lý thực sự, ha ha. Em thấy chưa, dễ quá phải không? Chúng chỉ là những câu từ giản đơn, thiếu đi sự chính xác của ngôn ngữ. Từ giờ trở đi, tôi không còn dính dáng gì với câu từ. Với ngôn ngữ. Tôi đang xem đồng hồ đeo tay. Đây là ngôn ngữ của tôi. Thứ ngôn ngữ rõ ràng và không có nghịch lý. Tôi đã sẵn sàng.