CHƯƠNG 18 Thứ Ba
NGÔI SAO NĂM CÁNH
Nikolai Loeb nhẹ nhàng nhấn phím đàn. Những giai điệu cất lên từ chiếc dương cầm trong căn phòng trống trải nghe thật dịu dàng và mong manh. Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Bản concerto số một cho đàn dương cầm cung Si giáng thứ. Nhiều nghệ sĩ dương cầm cho rằng đó là bản nhạc kỳ quặc và thiếu sự thanh thoát, nhưng với Nikolai, không một tác phẩm nào trên đời có thể sánh được với nó. Chỉ cần chơi vài đoạn đã thuộc nằm lòng là đủ để khiến ông day dứt nỗi nhớ quê, và lần nào cũng thế, ngón tay ông luôn tự tìm về với những nốt nhạc quen thuộc khi ngồi xuống bên cây đàn chưa chỉnh dây được đặt ở phòng họp hội nghị trong sảnh nhà thờ Gamle Aker.
Ông đưa mắt nhìn ra cửa sổ để mở. Trong nghĩa trang rộn vang tiếng chim hót. Nó làm ông nhớ lại những mùa hè ở Leningrad cùng với bố khi bố dẫn ông đến thăm những chiến trường cũ nằm ở ngoại ô các thành thị, nơi ông nội và tất cả các chú các bác của Nikolai yên giấc ngàn thu trong những ngôi mộ tập thể từ lâu đã rơi vào quên lãng.
“Con nghe kìa,” bố ông từng bảo. “Tiếng hót của chúng mới tuyệt diệu làm sao và cũng phí hoài làm sao.”
Nikolai chợt nhận ra có người vừa đằng hắng, ông quay ngoắt lại.
Một người đàn ông mặc quần jean áo phông đang đứng ở ngưỡng cửa. Một bàn tay anh ta bị quấn băng. Điều đầu tiên Nikolai nghĩ đến là, hẳn đây lại là một trong những gã nghiện thỉnh thoảng vẫn ghé qua.
“Tôi có thể giúp được gì cho anh?” Nikolai gọi vọng ra. Độ vang âm mãnh liệt trong căn phòng khiến giọng nói của ông có phần kém thân thiện hơn dự định.
Người đàn ông bước qua ngưỡng cửa.
“Tôi cũng hy vọng thế,” anh ta nói. “Tôi đến đây để sám hối.”
“Vậy thì rất tốt,” Nikolai nói. “Nhưng e rằng tôi không thể nghe xưng tội lúc này được. Ngoài sảnh có danh sách kèm theo thời gian biểu. Vả lại, anh phải đến nhà nguyện của chúng tôi trên phố Inkognitogata cơ.”
Anh ta tiến lại gần ông. Căn cứ vào hai quầng thâm dưới cặp mắt đỏ ngầu kia, Nikolai đoán rằng người đàn ông này hẳn đã lâu rồi không ngủ.
“Tôi muốn chuộc lỗi vì đã phá hoại ngôi sao trên cửa chính.”
Phải mấy giây sau Nikolai mới hiểu người đàn ông kia đang ám chỉ đến cái gì.
“Ồ, hóa ra là thế. Việc đó thật tình không thuộc trách nhiệm của tôi. Chỉ có điều tôi cũng đã thấy ngôi sao bị long ra và đang xoay ngược chiều.” Ông ta mỉm cười. “Một hình ảnh hơi trái đạo đối với một nhà thờ, nói vậy là còn nhẹ đấy.”
“Vậy ra cha không làm việc cho nhà thờ này?”
Nikolai lắc đầu.
“Chúng tôi thường phải mượn tạm phòng ở đây mỗi khi có việc. Tôi làm cho nhà thờ Thánh đồ Công chúa Olga kia.”
Harry nhướn mày.
“Chính thống giáo Nga,” Nikolai nói thêm. “Tôi là mục sư và cũng là quản sự. Anh cần phải qua văn phòng nhà thờ và xem xem liệu mình có thể tìm thấy ai giúp sức ở đó không.”
“Ừm. Cảm ơn cha.”
Anh ta vẫn đứng đó, chưa chịu ra về.
“Tchaikovsky đúng không ạ? Bản concerto số một cho đàn dương cầm.”
“Đúng vậy,” Nikolai đáp bằng giọng ngạc nhiên. Na Uy chính xác không hẳn là quốc gia có thể gọi là quan tâm lắm đến văn hóa nghệ thuật. Đã vậy, người này lại còn đang mặc áo phông và trông như kẻ thất cơ lỡ vận.
“Mẹ tôi ngày xưa cũng từng đàn bản nhạc này cho tôi nghe,” anh ta nói. “Bà ấy bảo đây là bản nhạc khó.”
“Anh có người mẹ thật tuyệt vời. Những bản nhạc khó là thế mà bà ấy vẫn cố gắng chơi vì anh.”
“Vâng, bà ấy rất tuyệt. Như một vị thánh vậy.”
Có điều gì đó về nụ cười nửa miệng nở trên môi người đàn ông khiến Nikolai cảm thấy khó hiểu. Đó là một nụ cười đầy mâu thuẫn. Vừa cởi mở lại vừa kín đáo, vừa thân thiện lại vừa xa cách, trong tiếng cười vẫn ẩn chứa nỗi đau. Nhưng cũng như mọi khi, có lẽ ông lại nghĩ ngại xa xôi quá rồi.
“Cảm ơn cha đã giúp đỡ,” anh ta nói rồi quay người đi về phía cửa.
“Không có gì.”
Nikolai lại hướng sự chú ý về cây đàn dương cầm và cố gắng tập trung. Ông nhấn thật khẽ đủ để phím đàn hạ xuống nhưng không tạo ra thanh âm - cảm nhận được miếng dạ áp lên dây đàn - và khi ấy ông mới chợt nhận ra mình không hề nghe thấy tiếng cửa chính đóng lại. Ông ngoái nhìn thì thấy người đàn ông nọ vẫn đứng đó, tay đặt trên nắm cửa, cặp mắt dán vào ngôi sao trên ô cửa vỡ.
“Có vấn đề gì sao?”
Anh ta ngẩng lên.
“Không. Tôi chỉ đang thắc mắc vừa rồi cha có ý gì khi nói ngôi sao treo ngược là trái đạo.”
Nikolai bật cười, tiếng cười vang vọng khắp bốn bề.
“Nó là ngôi sao năm cánh ngược, đúng không?”
Từ nét mặt người đàn ông, Nikolai có thể thấy được rõ ràng rằng anh ta đang không hiểu gì cả.
“Ngôi sao năm cánh là biểu tượng tôn giáo lâu đời, không chỉ với đạo Thiên Chúa. Như anh có thể thấy đấy, nó được tạo thành bởi một đường thẳng liền mạch và giao nhau tại các điểm: người ta đã tìm thấy hình khắc của nó trên những bia mộ từ hàng ngàn năm trước. Tuy nhiên, khi ngôi sao bị đảo ngược, một đỉnh hướng xuống và hai đỉnh hướng lên, thì nó lại là một thứ hoàn toàn khác. Đó là một trong những biểu tượng quan trọng nhất trong bộ môn quỷ học.”
“Quỷ học ư?”
Người đàn ông đặt câu hỏi bằng giọng bình thản mà cương nghị, giống một người đã quen nhận được câu trả lời, Nikolai thầm nghĩ.
“Ngành nghiên cứu về quỷ. Thuật ngữ đó bắt nguồn từ thời con người còn tin rằng cái ác nảy sinh từ sự tồn tại của quỷ dữ.”
“Hừm. Thế tức là bây giờ ma quỷ đã tiêu biến rồi sao?”
Nikolai xoay người lại trên chiếc ghế ngồi chơi đàn dương cầm. Lẽ nào ông đã nhìn nhầm người đàn ông này? Tư duy của anh ta có vẻ hơi sắc bén lạ thường, không giống một gã nghiện hoặc thất cơ lỡ vận cho lắm.
“Tôi là cảnh sát,” anh ta nói như thể đang trả lời thắc mắc trong lòng ông. “Nghề của chúng tôi hay phải đặt câu hỏi.”
“Ừ, nhưng sao anh lại đặc biệt quan tâm đến chủ đề này vậy?”
Anh ta nhún vai.
“Tôi không biết. Tôi mới trông thấy biểu tượng này cách đây chưa lâu nhưng không thể nhớ ra là ở đâu. Tôi không chắc nó có gì quan trọng hay không. Biểu tượng đó là của con quỷ nào?”
“Tchort,” Nikolai đáp, nhẹ nhấn ba phím đàn. Tiếng nhạc vang lên thật lạc điệu. “Hay còn gọi là quỷ Satan.”
Buổi chiều, Olaug Sivertsen mở những cánh cửa kiểu Pháp dẫn ra ban công đối diện khu Bjørvika, ngồi xuống một chiếc ghế và ngắm đoàn tàu màu đỏ chạy ngang qua nhà mình. Đó là một ngôi nhà không có gì đặc biệt, một biệt thự độc lập được xây bằng gạch đỏ từ năm 1891; điểm đặc biệt của nó nằm ở vị trí. Lấy theo tên của người kỹ sư đã thiết kế ra nó, biệt thự Valle nằm lẻ loi bên đường ray xe lửa ngay ngoài Ga Trung tâm Oslo, bên trong địa phận nhà ga. Hàng xóm gần nhất chỉ có vài nhà kho thấp lè tè và mấy xưởng thuộc sở hữu của Đường sắt Na Uy. Biệt thự Valle được xây dựng làm nơi ở của ông trưởng ga cùng vợ con và gia nhân, tường nhà được thiết kế dày hơn hẳn bình thường để vợ chồng ông chủ không bị đánh thức mỗi khi tàu chạy qua. Không chỉ có vậy, thợ xây dựng công trình, người được chọn nhờ nức tiếng trong nghề với bí kíp chế tạo một loại vữa xây tường đặc biệt cứng chắc, còn được ông ta yêu cầu phải làm cho tường thêm kiên cố hơn nữa. Ông ta muốn rằng nếu chẳng may có đoàn tàu trật bánh tông vào nhà thì người gánh chịu hậu quả từ vụ va chạm sẽ là nhân viên lái tàu chứ không phải gia đình ông ta. Từ đó đến nay, chưa có đoàn tàu nào đâm vào biệt thự trang nhã của ông trưởng ga tọa lạc tại địa thế tách biệt quá ư lạ kỳ, chẳng khác nào tòa lâu đài lơ lửng giữa muôn tầng mây, phía dưới là một vùng hoang sơ đen sì sỏi đá với những đường ray sáng loáng và uốn éo tựa thân rắn dưới ánh mặt trời.
Olaug nhắm mắt lại, đắm mình trong ánh nắng ấm áp.
Hồi còn trẻ, bà không thích thời tiết nóng bức. Cái nóng sẽ khiến da bà đỏ ửng và ngứa ngáy, bà chỉ mơ đến những ngày hè mát mẻ, ẩm ướt của vùng Tây Bắc Na Uy. Nhưng giờ đây, khi đã gần tám mươi, ở cái tuổi gần đất xa trời này bà lại thích ấm áp hơn lạnh lẽo, thích ánh sáng hơn bóng tối, thích có người bầu bạn hơn thui thủi một mình, thích ồn ào hơn tĩnh mịch.
Điều đó hoàn toàn không giống như trước kia, hồi năm 1941, khi bà mới tròn mười sáu tuổi, bà đã rời Averøya để đến Oslo bằng chuyến tàu chạy trên chính những đường ray ấy và bắt đầu làm gia nhân cho Chỉ huy Ernst Schwabe cùng vợ ông ta, phu nhân Randi, ở biệt thự Valle. Ông chủ là một người đàn ông cao ráo, điển trai, còn phu nhân thì xuất thân trong gia đình quý tộc. Mấy ngày đầu đi làm, Olaug sợ chết khiếp. Tuy nhiên, gia chủ đối xử với bà rất tốt và cũng tôn trọng bà, nên chẳng mấy chốc bà hiểu ra rằng mình không có gì phải sợ cả, miễn là bà làm việc thật chỉn chu và đúng giờ, hai đức tính không phải ngẫu nhiên mà nổi tiếng của người Đức.
Ernst Schwabe là người đứng đầu của WLTA, Landtransportabteilung của Lực lượng Vệ quốc, đơn vị vận tải của họ, và đích thân ông ta đã lựa chọn biệt thự nằm kế bên nhà ga. Bà vợ Randi có lẽ cũng làm cho WLTA, nhưng Olaug chưa bao giờ thấy bà ta mặc đồng phục. Phòng của Olaug quay về hướng Nam, nhìn ra vườn và những đường ray xe lửa. Suốt mấy tuần đầu tiên đi làm, tiếng chạy rầm rập của những đoàn tàu dài dằng dặc, tiếng còi lanh lảnh chói tai hòa cùng vô vàn âm thanh khác trong thành phố khiến bà không sao chợp mắt được, nhưng rồi bà cũng quen dần với điều đó. Đến năm sau, khi lần đầu tiên được nghỉ phép về thăm gia đình, bà lại nằm thao thức trên chiếc giường trong căn nhà ấu thơ, lắng nghe không gian tĩnh lặng mênh mang mà lòng cứ hướng về âm thanh của cuộc sống và những người sống kia.
Người sống, biệt thự Valle đã từng đón tiếp rất nhiều người như vậy trong suốt thời chiến tranh. Gia đình Schwabe rất quảng giao, những bữa tiệc chiêu đãi được họ tổ chức có sự tham gia của cả người Đức lẫn người Na Uy. Giá mà công chúng biết được những vị chóp bu nào của tầng lớp thượng lưu Na Uy có mặt ở đây, ăn uống, hút thuốc cùng ông bà chủ nhà là thành viên của Lực lượng Vệ quốc. Sau khi chiến tranh kết thúc, một trong những việc đầu tiên họ yêu cầu bà làm là đốt hết đống thiệp xếp chỗ có in tên khách mời mà bà đang giữ. Bà ngoan ngoãn nghe theo và không hé nửa lời với bất cứ ai. Dĩ nhiên cũng có đôi lần bà rất muốn làm trái lời chủ nhân khi ảnh chụp những vị khách đó xuất hiện kèm theo những bài báo kể về cuộc sống dưới ách áp bức của Đức Quốc xã. Tuy nhiên, bà khóa kín miệng mình chỉ vì một lý do duy nhất: khi hòa bình lập lại, họ đã đe dọa sẽ cướp đi đứa con thơ từ tay bà, thằng bé là tất cả những gì bà có và là thứ quý giá nhất của bà trên cõi đời này. Nỗi sợ ấy vẫn hằn sâu trong tâm thức bà cho đến tận ngày nay.
Olaug nheo mắt trong nắng chiều yếu ớt. Mặt trời giờ đã dần xuống sức, điều đó chẳng có gì lạ sau cả một ngày tỏa nắng chói chang và nỗ lực hết sức nhằm phá hoại những đóa hoa trong mấy chậu cây nơi bậu cửa sổ của bà. Olaug mỉm cười. Chao ôi một thời tuổi trẻ, trên đời chẳng ai trẻ dại đến nhường ấy. Bà có khao khát được trẻ lại không? Có lẽ là không, nhưng bà khao khát được có người bầu bạn, được sống, được quây quần bên con cháu. Trước đây bà nào có hiểu được ý người khác khi nghe họ bảo người già thường cô đơn, còn giờ thì…
Mà cô đơn cũng không đáng sợ bằng cảm giác không có người để quan tâm. Nỗi buồn khiến lòng bà nặng trĩu kể từ lúc thức giấc hằng sáng khi biết rằng dù bà có nằm trên giường cả ngày cũng chẳng ảnh hưởng gì đến ai.
Đó là lý do bà đồng ý cho một cô gái trẻ trung, vui tươi quê ở Trøndelag đến ở trọ nhà mình.
Thật lạ khi nghĩ rằng Ina, cô gái chỉ lớn hơn vài tuổi so với cái hồi bà lên Oslo tìm việc, giờ cũng đang sống trong chính căn phòng bà từng ở. Biết đâu cô cũng đang nằm thao thức suốt đêm, khao khát được rời xa cuộc sống xô bồ chốn thành thị và trở về với cái tĩnh mịch của miền quê nhỏ bé nào đó ở phía Bắc Trøndelag.
Nhưng Olaug có lẽ đã nhầm. Ina có một người bạn là nam giới. Bà còn chưa nhìn thấy anh ta lần nào chứ đừng nói đến chuyện gặp mặt, nhưng từ phòng ngủ của mình, bà có thể nghe thấy tiếng chân anh ta bước trên cầu thang phía sau để lên phòng Ina. Làm sao cấm Ina cho đàn ông lên phòng được, chẳng giống như hồi Olaug còn làm người giúp việc, mà dù sao thì bản thân bà cũng không muốn thế. Bà chỉ hy vọng sẽ không ai đến đây và mang Ina đi mất. Cô đã trở thành một người bạn thân thiết của bà, thậm chí bà coi cô như con gái, đứa con gái bà chưa từng có được.
Tuy nhiên, Olaug hiểu rằng trong mối quan hệ giữa một bà lão và một cô gái trẻ như Ina, cô gái sẽ luôn là người trao gửi tình bạn, còn bà lão chính là người đón nhận. Bởi thế, bà cố gắng không can thiệp vào cuộc sống của cô. Ina lúc nào cũng tỏ ra thân thiện, nhưng Olaug cho rằng có thể một phần là do giá thuê nhà cũng rẻ.
Có một điều gần như đã trở thành nghi thức cố định: Olaug sẽ pha trà rồi bưng theo một khay bánh quy lên gõ cửa phòng Ina vào khoảng bảy giờ tối. Olaug thích họ ngồi trong phòng đó hơn. Thật kỳ lạ, nhưng căn phòng này vẫn là nơi mang lại cho bà cảm giác gần gũi nhất. Hai bà cháu ngồi tán gẫu chuyện trên trời dưới biển trong ánh mặt trời. Ina đặc biệt quan tâm tới thời chiến cùng những chuyện xảy ra ở biệt thự Valle. Và Olaug đã kể cho cô nghe. Chuyện về Ernst và Randi yêu nhau thắm thiết ra sao, họ ngồi hàng giờ trong phòng khách chỉ để chuyện trò, âu yếm vuốt ve, vén tóc cho nhau, tựa đầu vào vai nhau thế nào. Olaug kể rằng đôi khi bà lén nấp sau cửa bếp quan sát họ. Bà mô tả về Ernst Schwabe với dáng người thẳng tắp, mái tóc đen dày dặn và vầng trán sáng sủa cao vợi, về ánh mắt có thể luân phiên giữa vẻ đùa cợt và nghiêm túc, giận dữ và vui cười, sự tự tin trước những điều lớn lao trong cuộc đời và bối rối ngây ngô trước những điều nhỏ bé, vụn vặt. Nhưng chủ yếu bà ngắm Randi Schwabe với mái tóc đỏ rực óng ả, cái cổ trắng thon dài, cặp mắt sáng long lanh có đôi đồng tử xanh dương nhạt được bao quanh bởi vòng tròn màu lam sẫm. Đó là cặp mắt đẹp nhất Olaug từng được thấy.
Những lúc ngắm nhìn vợ chồng ông chủ như thế, Olaug thường nghĩ hai người họ sinh ra là để dành cho nhau, là tri kỷ của nhau và không gì có thể chia cắt họ. Ấy thế nhưng, bà nói với Ina, không khí vui tươi của những bữa tiệc ở biệt thự Valle có thể hóa thành những trận cãi vã long trời lở đất ngay khi khách khứa vừa ra về.
Một hôm, sau một cuộc cãi vã như bao lần khác, khi Olaug đã lui về giường nghỉ, Ernst Schwabe đã đến gõ cửa phòng bà và bước vào. Ông ta không bật đèn mà chỉ ngồi xuống mép giường, nói với bà rằng vợ mình đã nổi cơn lôi đình và bỏ nhà đến khách sạn ngủ qua đêm. Olaug có thể cảm nhận được mùi rượu trong hơi thở của ông ta, nhưng hồi ấy bà còn trẻ và không biết phải làm sao khi người đàn ông hơn mình hai chục tuổi, người bà luôn tôn trọng, ngưỡng mộ, thậm chí là có chút tình cảm, bảo bà trút bỏ bộ váy đang mặc để ông ta được ngắm nhìn thân thể bà.
Đêm đầu tiên, ông ta không làm gì mà chỉ nhìn bà, vuốt má bà, khen bà đẹp, đẹp hơn nhiều so với những gì bà có thể hình dung, sau đó ông ta đứng dậy. Lúc rời đi, cặp mắt ông ta dường như sắp rơi lệ.
Olaug đứng dậy và ra đóng cửa ban công. Đã gần bảy giờ rồi. Bà ngó cánh cửa ở đầu cầu thang phía sau nhà và trông thấy một đôi giày nam sang trọng trên tấm thảm chùi chân trước cửa phòng Ina. Vậy là cô đang có khách. Olaug ngồi xuống giường và lắng tai nghe.
Đến tám giờ thì cửa mở. Bà nghe thấy tiếng người xỏ giày rồi đi xuống cầu thang, ngoài ra còn một âm thanh khác, đó là tiếng sột soạt, cào cào như thể tiếng chân chó. Bà đi vào trong bếp, đun chút nước để pha trà.
Vài phút sau, lúc gõ cửa phòng Ina, bà ngạc nhiên khi không thấy Ina ra mở, càng lấy làm lạ vì nghe được từ trong phòng cô có tiếng nhạc êm ái vọng ra.
Bà gõ thêm lần nữa, vẫn không có hồi đáp.
“Ina?”
Olaug đẩy cửa và cánh cửa bật mở. Điều đầu tiên bà nhận thây là không khí trong này mới ngột ngạt làm sao. Cửa sổ đã đóng, rèm cũng buông, nên căn phòng gần như tối đen.
“Ina?”
Không có tiếng thưa. Biết đâu cô đang ngủ. Olaug bước vào, ngó ra sau cánh cửa, chỗ kê giường. Trống không. Lạ thật. Lúc này cặp mắt già nua của bà đã quen với bóng tối, và bà trông thấy Ina. Cô đang ngồi trên ghế bập bênh cạnh cửa sổ, trông như thể đang ngủ. Hai mắt cô nhắm nghiền, đầu ngoẹo về một bên. Olaug vẫn không sao xác định được tiếng nhạc khe khẽ đang phát ra từ đâu.
Bà bước lại bên chiếc ghế.
“Ina?”
Cô gái thuê trọ nhà bà tới giờ vẫn không có phản ứng. Olaug cầm khay bằng một tay, tay kia nhẹ nhàng áp lên má cô gái trẻ.
Một tiếng “cộp” khẽ vang lên khi ấm trà rơi xuống tấm thảm trải sàn. Theo ngay sau đó là hai cái tách, chiếc bát đựng đường bằng bạc có hình đại bàng trên quốc huy của Đức, một chiếc đĩa và sáu cái bánh quy hiệu Maryland.
Giây phút bộ ấm trà của Olaug - hay đúng hơn là của gia đình Schwabe - rơi xuống sàn cũng là lúc Ståle Aune cầm lên chiếc cốc của mình - hay đúng hơn là của Sở Cảnh sát Oslo.
Bjarne Møller chăm chú quan sát ngón tay út đang bẻ cong của vị chuyên gia tâm lý có thân hình phốp pháp, ông tự hỏi không biết có bao nhiêu phần trong cử chỉ đó là cố ý và bao nhiêu phần chỉ là một ngón tay cong bình thường.
Møller đã triệu tập một cuộc họp trong văn phòng của ông và ngoài Aune ra, ông còn yêu cầu những người đang dẫn dắt cuộc điều tra - Tom Waaler, Harry Hole và Beate Lønn - tới tham dự.
Trông ai cũng có vẻ mệt mỏi, có lẽ chủ yếu là vì niềm hy vọng bất chợt lóe lên cùng phát hiện về gã nhân viên giao nhận giả danh giờ đang dần tắt lịm.
Tom Waaler chỉ vừa mói kiểm tra những kết quả thu được từ lời kêu gọi người dân cung cấp thông tin cho cảnh sát được phát đi trên ti vi và radio. Họ đã nhận được hai mươi tư cuộc gọi, trong đó mười ba cuộc là từ những đồng nghiệp quen thường xuyên gọi đến, bất kể có trông thấy điều gì hay không. Trong mười một cuộc gọi còn lại thì có tới bảy cuộc là của những nhân viên giao nhận đích thực có công việc đích thực. Bốn cuộc kia chỉ tái khẳng định thông tin cảnh sát đã biết: có một nhân viên giao nhận đã xuất hiện gần quảng trường Carl Berners vào khoảng năm giờ chiều thứ Hai. Tuy nhiên, họ cũng khám phá ra được một chi tiết mới là có người đã nhìn thấy gã nhân viên đạp xe trên phố Trondheimsveien. Cuộc gọi duy nhất có vẻ đáng chú ý là của một tài xế taxi thông báo anh ta trông thấy một người đi xe đạp đội mũ bảo hiểm, đeo kính râm, mặc áo phông đen pha vàng đúng bên ngoài Học viện Kỹ thuật Mỹ thuật trong lúc anh ta lái xe lên phố Ullevålsveien vào khoảng thời gian Camilla Loen bị giết. Các công ty vận chuyển không có bất cứ đơn hàng nào quanh khu vực Ullevålsveien vào thời điểm đó. Thế rồi một nhân viên của công ty vận chuyển Førstemann gọi đến thú nhận anh ta đã đi tắt qua phố Ullevålsveien trên đường tới nhà hàng ngoài trời trên phố St Hanshaugen để làm cốc bia.
“Nói cách khác, cuộc điều tra đã đi vào ngõ cụt,” Møller nói.
“Giờ vẫn còn sớm mà,” Waaler nói.
Møller gật đầu, nhưng nét mặt ông cho thấy ông không mấy lạc quan. Ngoài Aune ra, mọi người trong phòng đều hiểu rõ những thông tin đầu tiên thu được có vai trò quan trọng thế nào. Con người ta mau quên lắm.
“Viện Pháp y báo cáo thế nào trong khi hiện tại họ đang thiếu nhân lực?” Møller hỏi. “Đã tìm ra căn cứ để có thể xác định danh tính hung thủ chưa?”
“E là chưa,” Waaler đáp. “Họ đã tạm gác mấy vụ cần khám nghiệm khác sang một bên để ưu tiên giải quyết các vụ của chúng ta, nhưng đến giờ vẫn chưa thu được gì. Không tinh dịch, không máu, không tóc, không gì cả. Manh mối thân thể duy nhất mà hung thủ để lại chính là mấy lỗ đạn.”
“Thú vị thật,” Aune nói.
Có chút chán nản, Møller hỏi điều đó có gì mà thú vị.
“Thú vị là ở chỗ nó cho thấy nạn nhân không bị xâm hại tình dục,” Aune đáp. “Mà như thế là rất bất thường đối với bọn sát nhân hàng loạt.”
“Biết đâu mục đích của hung thủ không phải là tình dục,” Møller nói.
Aune lắc đầu. “Động cơ của chúng luôn luôn là tình dục. Luôn luôn.”
“Có thể hắn giống nhân vật của Peter Sellers trong phim Being There,” Harry nêu ý kiến. “ ‘Tôi chỉ thích xem thôi’.”
Cả phòng đều ngơ ngác nhìn anh chằm chằm.
“Ý tôi là, có thể hắn không nhất thiết phải chạm vào họ thì mới được thỏa mãn ham muốn.”
Harry tránh ánh mắt Waaler đang nhìn mình.
“Có thể hắn chỉ cần giết chóc rồi ngắm nhìn xác chết là đủ.”
“Có thể lắm,” Aune nói. “Kẻ giết người hàng loạt nói chung thường muốn được nếm trải cảm giác ‘lên đỉnh’, nhưng hắn có thể đã xuất tinh mà không để lại dấu tích ở hiện trường. Hoặc hắn có đủ khả năng kiềm chế để đợi cho tới khi về đến nơi an toàn.”
Mọi người im lặng trong giây lát. Harry biết, họ cũng như anh, đều đang nghĩ tới một điều. Hung thủ đã làm gì người phụ nữ mất tích, Lisbeth Barli?
“Vậy còn những vũ khí thu được ở hiện trường thì sao?”
“Chúng tôi đã kiểm tra,” Beate nói. “Kết quả khám nghiệm cho thấy chín mươi chín phẩy chín phần trăm đó chính là những hung khí gây án.”
“Vậy là đủ,” Møller nói. “Có tra ra được nguồn gốc của chúng không?”
Beate lắc đầu. “Cũng như lần trước, số series đã bị giũa mòn. Dấu giũa giống với dấu vết tìm thấy trên hầu hết những vũ khí chúng ta tịch thu được.”
“Hừm,” Møller nói. “Lại là câu chuyện hoang đường về tổ chức buôn lậu vũ khí quy mô lớn. Kiểu gì Cục An ninh POT cũng sẽ sớm tóm được chúng thôi, đúng không?”
“Interpol đã theo vụ này suốt bốn năm ròng rã mà không thu được kết quả gì,” Waaler nói.
Harry ngả ghế ra sau, len lén liếc nhìn Waaler. Trong lúc ấy, anh ngỡ ngàng nhận ra trong anh chợt xuất hiện một cảm giác chưa từng có dành cho Waaler: sự ngưỡng mộ. Đó cũng chính là kiểu ngưỡng mộ của con người đối với những loài thú săn mồi đã trui rèn để đạt được kỹ năng sinh tồn tuyệt đỉnh.
Møller thở dài. “Tôi biết. Chúng ta đã phải nhận đến ba bàn thua trắng trong khi đối thủ vẫn còn chưa để trái bóng lộ diện. Chẳng lẽ không ai có bất kỳ ý tưởng nào sáng giá hay sao?”
“Tôi không chắc đây có phải là ý tưởng sáng giá…”
“Cứ nói đi, Harry.”
“Đúng hơn thì đó là linh cảm của tôi khi xem xét ba hiện trường gây án. Tất cả đều có một điểm chung nào đó, chỉ là tôi chưa xác định được nó là gì thôi. Vụ giết người đầu tiên xảy ra ở căn hộ áp mái trên phố Ullevålsveien. Vụ thứ hai diễn ra cách đó khoảng một cây số về hướng Đông Bắc, trên phố Sannergata. Hiện trường vụ thứ ba nằm cách vụ thứ hai một khoảng tương tự, nhưng theo hướng Đông, tại tòa nhà văn phòng ở quảng trường Carl Berners. Hung thủ thay đổi địa điểm gây án, nhưng tôi có cảm giác hắn làm thế là có chủ đích.”
“Nghĩa là sao?” Beate hỏi.
“Lãnh địa của hắn,” Harry nói. “Chuyên gia tâm lý có lẽ sẽ giải thích được rõ hơn.”
Møller quay sang phía Aune, người vừa nhấp một ngụm trà.
“Anh có nhận xét gì không, Aune?”
Aune nhăn mặt. “À, đây không phải trà Earl Grey chính hiệu.”
“Tôi có hỏi về trà đâu.”
Aune thở dài.
“Tôi đùa ấy mà, Møller. Nhưng tôi hiểu ý anh, Harry. Những kẻ sát nhân thường lựa chọn địa điểm gây án theo những tiêu chí đặc biệt. Đây, để cho dễ hiểu, chúng ta có thể chia chúng làm ba loại.”
Aune đếm từng ngón tay.
“Loại thứ nhất là sát nhân tại gia, hung thủ dụ dỗ hoặc ép buộc nạn nhân vào trong nhà của hắn rồi ra tay sát hại. Loại thứ hai là sát nhân theo vùng, chẳng hạn như Jack Kẻ Phanh Thây, hắn chỉ giết người trong khu nhà thổ, tuy nhiên khu vực gây án có thể trải rộng khắp cả một thành phố. Cuối cùng là loại thứ ba, sát nhân lang bạt, đây có lẽ là loại giết nhiều người nhất khiến lương tâm hắn không ngừng bị cắn rút. Ottis Toole và Henry Lee Lucas đã chu du qua các tiểu bang ở Hoa Kỳ, giết hại tới hơn ba trăm người.”
“Rõ rồi,” Møller nói. “Nhưng tôi vẫn chưa hiểu lắm về chủ đích mà cậu đang nói tới, Harry.”
Harry nhún vai.
“Thì tôi bảo rồi mà, sếp, đó chỉ là linh cảm của tôi thôi.”
“Cả ba vụ đều có một điểm chung,” Beate lên tiếng.
Những gương mặt trong phòng đồng loạt quay về phía cô như thể ai đó vừa bấm nút trên bộ điều khiển từ xa. Hai má cô lập tức đỏ hồng và dường như cô có vẻ hối hận vì đã phát biểu ý kiến. Nhưng cô vẫn gạt đi nỗi e ngại và nói tiếp, “Hắn tấn công các nạn nhân ngay tại nơi đem lại cho họ cảm giác an toàn nhất. Đó là nhà riêng. Một con phố giữa thanh thiên bạch nhật. Và phòng vệ sinh nữ tại công ty.”
“Giỏi lắm, Beate,” Harry nói và nhận được ánh mắt liếc nhanh đầy biết ơn từ phía cô.
“Nhận xét tinh tường đấy, quý cô trẻ tuổi,” Aune khen. “Nhân lúc bàn về cách thức chọn địa điểm hành động của hung thủ, tôi muốn bổ sung thêm một điều. Sát nhân hàng loạt thuộc loại thái nhân cách xã hội hầu hết đều rất tự tin, trường hợp này xem ra cũng y như vậy. Chúng có đặc điểm tiêu biểu là theo dõi sát sao cuộc điều tra và thường nhân mọi cơ hội để đích thân tiếp cận với tình hình. Chúng có thể coi cuộc điều tra là một trò chơi giữa chúng và cảnh sát. Nhiều kẻ tỏ ra rất thích thú khi thấy cảnh sát bị rối loạn.”
“Điều đó có nghĩa là ngay lúc này đây, có kẻ nào đấy ngoài kia đang ngồi rung đùi khoái trá,” Møller nói, vỗ hai tay vào nhau. “Buổi họp hôm nay tạm dừng ở đây.”
“Chỉ còn một chi tiết nhỏ nữa,” Harry nói. “Những viên kim cương hung thủ để lại trên thi thể các nạn nhân…”
“Thì sao?”
“Chúng có năm đỉnh nhọn. Gần giống sao năm cánh.”
“Gần giống ư? Theo tôi thấy thì đó đích thị là ngôi sao năm cánh còn gì.”
“Hình sao năm cánh được vẽ bằng một nét liền, giao cắt với chính nó cơ.”
“A ha!” Aune thốt lên. “Ra là hình ngôi sao năm cánh. Được vẽ theo tỷ lệ vàng. Một hình thù hết súc thú vị. Nhân tiện, mọi người đã ai nghe nói đến giả thuyết này chưa: vào thời đại Viking, để chuẩn bị cho Na Uy cải đạo sang Thiên Chúa giáo, người Celt đã vẽ ngôi sao thánh linh có năm cánh và áp hình vẽ đó lên vùng đất phía Nam Na Uy rồi dựa vào nó để xác định vị trí xây dựng các thành thị và nhà thờ.”
“Việc đó thì liên quan gì đến mấy viên kim cương?” Beate thắc mắc.
“Vấn đề ở đây không phải là mấy viên kim cương,” Harry nói. “Mà là hình ngôi sao năm cánh. Chắc chắn tôi đã trông thấy nó ở đâu đó, hiện trường của một vụ, chỉ là tôi không thể nhớ được là vụ nào và ở đâu mà thôi. Nghe có vẻ nhảm nhí, nhưng tôi nghĩ đây là chi tiết quan trọng đấy.”
“Vậy tức là,” Møller nói, hai tay chống cằm. “Cậu nhớ được một điều mình không thể nhớ được chính xác, nhưng lại cho rằng điều đó quan trọng sao?”
Harry đưa cả hai tay lên xoa mặt thật mạnh.
“Khi có mặt tại hiện trường một vụ án, sếp sẽ dồn toàn bộ khả năng tập trung vào đó khiến não bộ thu thập quá nhiều chi tiết bên lề, khó lòng mà xem xét hết được. Những chi tiết ấy đơn giản là được lưu giữ trong đầu sếp, cho tới khi có điều gì đó xảy ra, một manh mối mới xuất hiện, một mảnh ghép ăn khớp với mảnh ghép khác, nhưng khi ấy sếp lại không tài nào nhớ ra mình đã tìm được mảnh ghép đầu tiên ở đâu. Dẫu vậy, trực giác vẫn mách bảo sếp rằng đó là chi tiết quan trọng. Sếp thấy điều tôi nói thế nào?”
“Nghe như tâm thần ấy,” Aune trả lời và ngáp dài.
Ba người kia giương mắt nhìn ông.
“Chẳng lẽ các vị không cười được một cái khi tôi pha trò hay sao?” ông nói. “Harry à, điều anh nói cho thấy chức năng não bộ hoàn toàn bình thường. Không có gì phải sợ cả.”
“Tôi nghĩ bốn bộ não ở đây đã chịu đựng đủ cho ngày hôm nay rồi,” Møller nói và đứng dậy.
Đúng lúc đó, chiếc điện thoại bàn trước mặt ông réo vang.
“Møller nghe… Chờ chút.”
Ông chuyển điện thoại cho Waaler, anh ta đón lấy và đưa lên nghe.
“A lô?”
Trong phòng vang lên tiếng xô ghế đứng dậy, nhưng Waaler đưa tay ra hiệu bảo mọi người đợi đã.
“Tốt lắm,” anh ta nói rồi cúp máy.
Những người khác quay sang nhìn anh ta với vẻ hứng thú trở lại.
“Một nhân chứng vừa gọi đến, báo rằng bà ta trông thấy một người đi xe đạp rời khỏi một tòa chung cư trên phố Ullevålsveien gần nghĩa trang Our Saviour vào chiều ngày thứ Sáu lúc Camilla Loen bị giết. Nhân chứng nhớ rõ chi tiết đó vì bà ta thấy rất lạ khi đối tượng bịt mặt bằng khăn trắng. Nhân viên giao nhận tạt qua phố St Hanshaugen uống bia không hề bịt chiếc khăn nào như thế.”
“Rồi sao?”
“Bà ta không biết tòa nhà trên phố Ullevålsveien số mấy, nhưng Skarre đã lái xe đưa bà ta qua phố. Bà ta đã chỉ đích danh và đó chính là nhà của Camilla Loen.”
Møller đập mạnh một bàn tay xuống mặt bàn.
“Cuối cùng cũng có tiến triển rồi!”
Olaug đang ngồi trên giường, tay áp lên cổ họng và cảm thấy mạch đập dần trở lại bình thường.
“Cháu làm bà sợ hết hồn,” bà khẽ thì thầm, giọng nói lúc này đã khàn đặc, khó lòng nhận ra nổi.
“Cháu xin lỗi,” Ina nói, lấy nốt chiếc bánh quy Maryland cuối cùng. “Cháu không nghe thấy tiếng bà vào.”
“Bà phải xin lỗi cháu mới đúng,” Olaug nói. “Ai lại tự tiện xông vào như thế bao giờ. Chỉ là bà không nhìn thấy cháu đang đeo cái…”
“Tai nghe,” Ina bật cười. “Chắc cháu bật nhạc hơi to. Nhạc của Cole Porter đấy ạ.”
“Cháu biết bà không rành nhạc hiện đại mà.”
“Cole Porter là nghệ sĩ nhạc jazz thời xưa mà bà. Thực tế thì ông ấy mất lâu rồi ạ.”
“Trời đất, cháu còn trẻ thế, sao lại đi nghe nhạc của người chết làm gì.”
Ina lại cười. Vừa rồi, khi cảm thấy có thứ gì đó chạm vào má mình, cô đã vô thức vung mạnh tay và gạt trúng khay trà. Trên mặt thảm vẫn còn đang vương lại một lớp vụn đường trắng mỏng.
“Có người đã bật nhạc của ông ấy cho cháu nghe.”
“Nụ cười bí hiểm chưa kìa,” Olaug nói. “Người đó có phải anh bạn lịch thiệp của cháu không?”
Lời vừa thốt ra, Olaug lập tức hối hận vì đã hỏi. Không khéo Ina sẽ nghĩ bà theo dõi cô mất.
“Cũng có thể ạ,” Ina đáp, cặp mắt sáng lấp lánh.
“Vậy là anh ta lớn tuổi hơn cháu à?” Qua đó Olaug muốn ngầm nói rằng bà không hề cố tình tìm cách nhìn trộm người đàn ông nọ. “Vì có vẻ anh ta thích nghe nhạc xưa, ý bà là vậy.”
Chính bà cũng thấy câu nói ấy thật không phải. Giờ bà lại đang đi dò hỏi chuyện riêng của người ta, chẳng khác nào một bà già tọc mạch. Trong cơn hốt hoảng đột ngột trào dâng, bà thậm chí còn tưởng tượng Ina chắc đang nghĩ đến chuyện đi tìm nhà khác để thuê.
“Vâng, lớn hơn cháu một chút.”
Nụ cười tinh nghịch trên môi Ina khiến Olaug cảm thấy bối rối.
“Chắc cũng giống bà và ông Schwabe đấy ạ.”
Olaug vui vẻ bật cười theo, chủ yếu vì bà vừa trút được gánh nặng.
“Bà thử hình dung xem. Ông ấy đang ngồi ngay chính chỗ bà đang ngồi bây giờ,” Ina đột ngột nói.
Olaug đưa tay vuốt tấm chăn trên giường.
“Phải, thử hình dung xem.”
“Đêm hôm đó ông ấy khóc có phải là vì không thể có được bà?”
Olaug vẫn đang vuốt ve chiếc chăn. Lớp vải len thô sần mang lại cho bà cảm giác thật dễ chịu.
“Bà không biết,” Olaug đáp. “Bà không dám hỏi. Thay vì vậy, bà tự nghĩ ra câu trả lời, những câu trả lời bà muốn nghe nhất, những giấc mơ để bà có thể ấp ủ hằng đêm. Có lẽ chính vì vậy mà hồi ấy bà mới yêu say đắm đến thế.”
“Hai ông bà có bao giờ đi chơi không ạ?”
“Có. Một lần ông ấy đã lái xe đưa bà tới Bygdøy. Bọn bà cùng đi bơi. Đúng hơn là bà xuống bơi còn ông ấy ngồi trên bờ ngắm bà. Ông ấy gọi bà là nữ thần của ông ấy.”
“Vợ ông ấy có biết chồng mình là bố của đứa trẻ trong bụng bà không?”
Olaug nhìn Ina hồi lâu. Rồi bà lắc đầu.
“Gia đình họ đã chuyển ra nước ngoài vào tháng Năm năm 1945. Bà không bao giờ còn gặp lại họ nữa. Mãi đến tháng Bảy bà mới biết mình có bầu.”
Olaug vỗ vỗ lên tấm chăn.
“Nhưng nghe mãi mấy chuyện cũ rích này chắc cháu cũng mệt và chán lắm rồi. Nào, kể chuyện của cháu đi. Anh bạn lịch thiệp của cháu là ai vậy?”
“Anh ấy là một người tử tế.”
Gương mặt Ina vẫn còn vẻ mơ màng thường thấy khi nghe Olaug kể về người tình đầu tiên và cũng là cuối cùng của bà, Ernst Schwabe.
“Anh ấy đã tặng cháu một thứ,” Ina nói, mở ngăn kéo và lấy ra một cái gói nhỏ thắt ruy băng màu vàng kim.
“Anh ấy nói khi nào chúng cháu đính hôn thì mới được mở ra.”
Olaug mỉm cười và vuốt má Ina. Bà thật mừng cho cô.
“Cháu thương anh ta phải không?”
“Anh ấy không giống những người khác. Không quá… nói chung anh ấy thuộc típ người cổ điển. Anh ấy muốn cả hai cùng đợi. Về chuyện… bà biết rồi đấy.”
Olaug gật đầu. “Anh ta có vẻ nghiêm túc nhỉ.”
“Vâng.” Cô khẽ thở dài.
“Cháu phải chắc chắn anh ta là người đàn ông dành cho mình trước khi quyết định đi xa hơn nhé,” Olaug nói.
“Cháu biết rồi ạ,” Ina nói. “Chính điều đó khiến cháu rất khó nghĩ. Anh ấy vừa mới ở đây, và trước khi anh ấy ra về, cháu đã bảo anh ấy rằng mình cần thời gian để suy nghĩ. Anh ấy nói anh ấy hiểu, tuổi tác hai đứa chênh lệch quá mà.”
Olaug suýt nữa buột miệng hỏi anh ta có nuôi chó không, may mà kịp ghìm lại. Bà tò mò, tọc mạch như vậy là đã quá đủ rồi. Sau khi đưa tay vuốt tấm chăn lần cuối, bà liền đứng dậy.
“Để bà đi đun nước pha thêm chút trà nhé, cháu yêu.”
Đó là một phát hiện bất ngờ. Không phải phép mầu, chỉ đơn giản là một phát hiện thôi.
Nửa giờ đã trôi qua kể từ khi mọi người ra về hết, lúc này Harry vừa đọc xong bản ghi cuộc thẩm vấn hai người phụ nữ sống cùng nhà tại tòa chung cư đối diện căn hộ của Lisbeth Barli. Anh với tay tắt chiếc đèn đọc sách để trên bàn, chớp mắt trong căn phòng tối tăm và đột nhiên điều đó đến với anh. Có thể là do anh vừa tắt đèn, hành động quen thuộc mỗi khi đi ngủ. Hoặc có thể là vì trong giây phút ngắn ngủi ấy, đầu óc anh hoàn toàn trống rỗng. Lý do là gì không quan trọng, chỉ biết rằng cứ như thể có người vừa giơ ra trước mặt anh một tấm ảnh sắc nét, rõ ràng vậy.
Anh đi vào văn phòng nơi cất giữ chìa khóa của hiện trường án mạng và tìm thấy chiếc chìa mình cần. Sau đó anh lái xe về phố Sofies, lấy đèn pin rồi đi bộ tới phố Ullevålsveien. Lúc này đã gần nửa đêm. Cửa tầng trệt đã khóa, tiệm giặt là cũng đã nghỉ. Trên cửa sổ của tiệm bán bia mộ có lắp một chiếc đèn chiếu điểm, ánh đèn rọi lên dòng chữ “An giấc ngàn thu”.
Harry một mình đi vào căn hộ của Camilla Loen.
Không có bất cứ đồ đạc hay thứ gì khác bị dời đi, vậy nhưng tiếng chân anh vẫn vang vọng bốn bề. Cứ như thể cái chết của chủ nhân đã thổi vào căn hộ một khoảng trống vật lý trước đây chưa từng tồn tại vậy. Ấy thế mà đồng thời anh lại có cảm giác như thể nơi này không chỉ có mình anh. Harry tin vào sự tồn tại của linh hồn. Anh không hẳn là người sùng đạo, nhưng có một điều luôn thình lình nhen nhóm trong đầu anh mỗi khi anh nhìn thấy thi thể của người chết: cái xác dường như thiếu vắng thứ gì đó, một thứ hoàn toàn không liên quan đến quá trình biến đổi của cơ thể sau khi chết. Những hình hài đó chỉ như lớp vỏ rỗng của đám côn trùng còn vương trên mạng nhện - thể xác đã ra đi, ánh sáng cũng vụt tắt, nào thấy đâu ánh hào quang tàn dư của những ngôi sao từ lâu đã lụi tàn. Thể xác đang thiếu vắng linh hồn, và sự thiếu vắng ấy chính là điều khiến Harry tin tưởng.
Anh không bật đèn, chỉ cần ánh trăng rọi qua những giếng trời là đủ. Anh đi thẳng vào phòng ngủ, sau đó bật chiếc đèn pin mang theo và chiếu lên cột xà chịu lực bên cạnh giường. Anh hít mạnh một hơi. Hóa ra đó không phải trái tim lồng vào hình tam giác như lúc đầu anh tưởng.
Harry ngồi xuống giường, lướt nhẹ đầu ngón tay lên những vết khắc trên cây cột. Dấu vết để lại trên cột gỗ màu nâu cũ kỹ trông rõ ràng đến mức chắc chắn mới được khắc. Và cũng rất rõ ràng là nó được khắc bằng một nét liền. Một đường cắt dài gồm những đoạn thẳng tiến rồi lại lùi, giao cắt lẫn nhau. Một hình ngôi sao năm cánh.
Harry rọi đèn lên sàn. Trên sàn gỗ có một lớp bụi mỏng và mấy nùi bông khá to. Hẳn là Camilla Loen chưa dọn phòng trước khi chết. Nhưng kia, cạnh một chân ở phía đầu giường, anh trông thấy thứ mình đang tìm kiếm. Những dăm gỗ vụn.
Harry nằm xuống giường. Tấm đệm thật mềm mại và êm ái. Anh nhìn lên trần nhà dốc nghiêng trong lúc cố gắng nghĩ. Nếu đúng là hung thủ đã khắc ngôi sao lên cây cột phía trên giường, vậy thì nó có ý nghĩa gì?
“An giấc ngàn thu,” Harry lẩm bẩm, nhắm mắt lại.
Anh mệt đến nỗi không thể nghĩ được gì sáng suốt. Còn một câu hỏi nữa vẫn quanh quẩn trong tâm trí anh. Tại sao hôm đó anh không nhìn thấy hình ngôi sao năm cánh nhỉ? Tại sao anh không ghép nối hai chi tiết với nhau, ngôi sao và những viên kim cương? Hay là không phải thế? Có thể anh đã quá vội vàng, có thể tiềm thức của anh đã gắn kết hình ngôi sao với thứ gì đó khác, một thứ anh đã thấy ở hiện trường một vụ án mạng nhưng lại không tài nào nhớ ra được.
Anh cố gắng hình dung lại cảnh tượng tại các hiện trường.
Lisbeth ở phố Sannergata. Barbara ở quảng trường Carl Berners. Và Camilla dưới vòi sen trong phòng tắm kế bên. Cô ta gần như lõa thể. Làn da ướt nhẹp. Anh đã sờ thử. Nước nóng khiến cho khi sờ vào, anh có cảm giác cô ta mới chết trước đó chưa lâu, dù thực tế không phải vậy. Anh đã chạm vào làn da của cô ta. Beate quan sát hành động của anh. Nhưng anh không sao ngừng lại được. Cảm giác giống như đang vuốt ve lớp cao su ấm áp, nhẵn mịn. Anh ngẩng lên và thấy rằng nơi đây chỉ có hai người họ, đến lúc này anh mới cảm nhận được dòng nước ấm chảy ra từ vòi sen. Mắt anh lại thơ thẩn cụp xuống, anh thấy cô ta đang ngước nhìn mình, cặp mắt ánh lên tia sáng lạ. Anh giật mình rụt tay về, ánh nhìn của cô ta bỗng tan biến như thể màn hình ti vi vừa bị tắt. Lạ thật, anh nghĩ thầm, và lại áp tay lên má cô ta lần nữa. Anh kiên nhẫn đợi trong lúc dòng nước ấm thấm ướt quần áo mình. Tia sáng dần dần trở lại. Anh đặt tay kia lên bụng của cô ta. Sức sống trở lại trong mắt cô ta và anh có thể cảm thấy thân thể cô ta khẽ cựa quậy dưới những ngón tay mình. Anh biết chính sự đụng chạm đã khiến cô ta hồi sinh, không có nó, cô ta sẽ tan biến, sẽ chết. Anh tì trán mình lên trán của cô ta. Nước chảy thành dòng sau lớp quần áo anh, làm da anh ướt nhẹp, giống như một màng lọc ấm áp giữa hai người. Đến lúc này anh mới phát hiện ra mắt cô ta không phải màu xanh dương, mà là màu nâu. Đôi môi kia cũng không còn nhợt nhạt nữa mà đỏ hồng và tràn đầy sức sống. Rakel. Anh hôn lên làn môi ấy. Rồi giật mình lùi lại khi phát hiện ra chúng lạnh như băng.
Cô ta đang nhìn anh chằm chằm. Cái miệng mấp máy.
“Anh đang làm gì vậy?”
Tim Harry ngừng đập, phần vì câu hỏi ấy vẫn còn vang vọng trong căn phòng nên anh biết chắc chắn không phải là mơ, phần vì giọng nói đó không phải giọng phụ nữ, nhưng chủ yếu là vì có người đang đứng phía trước giường, cúi nhìn anh.
Tim anh lại bắt đầu đập như trống dồn và anh lật người lại hòng với lấy chiếc đèn pin vẫn còn đang bật. Nó rơi xuống sàn cùng một tiếng “bộp” khẽ rồi lăn lông lốc, khiến luồng sáng và bóng người chạy khắp bức tường.
Thế rồi đèn trần bật sáng.
Harry lóa cả mắt, phản xạ đầu tiên của anh là giơ hai tay lên che mặt. Một giây trôi qua. Chẳng có gì xảy ra. Không có tiếng súng, không có cú đâm nào. Harry hạ tay xuống.
Anh nhận ra người đàn ông đang đứng trước mặt mình.
“Anh đang làm cái quái gì vậy?” anh ta hỏi.
Ngoài cái áo choàng ngủ màu hồng đang mặc, trông anh ta không có vẻ gì là giống như vừa tỉnh giấc. Đường rẽ ngôi trên mái tóc vẫn thẳng tắp.
Đó là Anders Nygård.
“Tiếng động đã khiến tôi thức giấc,” Nygård nói, đẩy cốc cà phê phin về phía Harry. “Điều đầu tiên tôi nghĩ đến là chắc có kẻ biết được căn hộ tầng trên không có người ở nên đã đột nhập vào. Vì vậy tôi mới lên kiểm tra.”
“Tôi hiểu,” Harry nói. “Nhưng tôi nhớ là mình đã khóa cửa sau khi vào rồi mà.”
“Tôi có chìa khóa của người quản lý nhà. Để phòng bất trắc.”
Harry nghe thấy tiếng chân loẹt quẹt, anh bèn quay lại.
Vibeke Knutsen xuất hiện ở ngưỡng cửa trong chiếc áo choàng ngủ, vẻ mặt vẫn còn lơ mơ, mái tóc đỏ chĩa lung tung. Khi không có lớp trang điểm, lại còn dưới ánh sáng chói gắt trong căn bếp, trông cô có vẻ già hơn so với lần trước Harry gặp. Cô giật mình khi thấy anh ở đó.
“Có chuyện gì vậy?” cô lẩm bẩm, hết nhìn Harry lại đến anh bạn trai.
“Tôi đang kiểm tra lại mấy thứ trong căn hộ của Camilla,” Harry vội vã giải thích khi thấy cô có vẻ đang tự mình suy đoán. “Tôi đang ngồi trên giường, định nhắm mắt nghỉ ngơi chốc lát thì thiếp đi mất. Nygård đây nghe thấy tiếng động nên đã đánh thức tôi. Ngày hôm nay dài quá.”
Dù hoàn toàn không hiểu là vì sao, Harry vẫn ngáp một cái như để minh chứng cho lời nói của mình.
Vibeke đưa mắt nhìn bạn trai.
“Anh đang mặc cái gì vậy?”
Anders Nygård cúi nhìn chiếc áo choàng màu hồng như thể đến lúc này anh ta mới nhận ra mình đang mặc nó.
“Chà, chắc trông anh chuẩn drag queen nhỉ.”
Anh ta cười khùng khục.
“Đây là quà anh mua tặng em đó, em yêu. Anh vẫn để nó trong va li, lúc nãy vội quá không tìm được gì nên anh đành mặc tạm. Trả em này.”
Anh ta tháo dây đai, cởi áo ném về phía Vibeke. Tuy sửng sốt nhưng cô vẫn đưa tay bắt lấy.
“Cảm ơn anh,” cô nói, vẻ bối rối.
“Mà em lại thức giấc cơ à, lạ nhỉ,” anh ta rủ rỉ nói. “Em không uống thuốc ngủ sao?”
Vibeke ngượng ngùng liếc Harry một cái.
“Chúc ngủ ngon,” cô lẩm bẩm rồi rời đi.
Anders bước tới chỗ máy pha cà phê, đặt bình cà phê vào chỗ cũ. Da trên lưng và hai bắp tay của anh ta có màu sáng, gần như trắng bệch, nhưng phần cẳng tay lại rám nắng hệt như tay của các tài xế xe tải vào mùa hè. Nước da ở phần trên và phần dưới đầu gối cũng có sự khác biệt rõ rệt như thế.
“Thường thì cô ấy ngủ say tít thò lò cả đêm,” anh ta nói.
“Còn anh thì không?”
“Sao anh lại hỏi thế?”
“Phải vậy anh mới biết cô ấy ngủ say tít thò lò chứ.”
“Đấy là cô ấy kể với tôi.”
“Tức là chỉ cần có tiếng chân người đi lại ở tầng trên là anh tỉnh giấc?”
Anders nhìn Harry giây lát. Sau đó anh ta gật đầu.
“Anh nói đúng, thanh tra. Tôi không ngủ được. Thật khó mà yên giấc sau những chuyện đã xảy ra. Anh cứ nằm đó thao thức và vẽ ra vô số giả thuyết có khả năng.”
Harry nhấp một ngụm cà phê. “Có giả thuyết nào anh muốn chia sẻ với chúng tôi không?”
Anders nhún vai.
“Tôi không biết nhiều lắm về những vụ giết người tập thể. Nếu quả thực vụ này là như thế.”
“Không phải. Đây là giết người hàng loạt. Hai khái niệm khác hẳn nhau.”
“Rồi, nhưng chẳng lẽ anh không nhận thấy các nạn nhân đều có điểm chung gì đó sao?”
“Họ đều là những phụ nữ trẻ. Còn gì nữa không?”
“Họ có lối sống buông thả, phóng túng, hay đã từng như vậy.”
“Thế sao?”
“Anh cứ đọc báo thì biết. Những bài báo viết về quá khứ của mấy người phụ nữ ấy đã tự nói lên tất cả.”
“Lisbeth Barli đã có chồng và, theo như tôi biết, là người chung thủy.”
“Sau khi kết hôn thì đúng, nhưng trước đó, chẳng phải cô ta từng ở trong một ban nhạc đi lưu diễn tại các buổi vũ hội khắp cả nước hay sao. Chắc anh không ngây thơ đến mức ấy chứ, thanh tra?”
“Ừm. Vậy anh suy luận được điều gì từ điểm tương đồng đó?”
“Hung thủ trong những vụ án kiểu này thường coi mình là người nắm quyền sinh quyền sát và tự nâng bản thân lên ngang hàng với Chúa. Và trong Kinh Thánh, phần Thư gửi tín hữu Do Thái, chương 13, câu số 4, có nói rằng Chúa sẽ phán xử tất cả những kẻ mắc tội ngoại tình.”
Harry gật đầu và đưa tay lên xem đồng hồ.
“Tôi sẽ ghi nhớ điều đó.”
Nygård mân mê cốc cà phê.
“Anh đã tìm thấy thứ mình đang tìm chưa?”
“Có thể nói là vậy. Tôi đã tìm thấy hình ngôi sao năm cánh. Tôi cho là vì anh làm nghề buôn bán đồ nội thất trong nhà thờ nên anh biết nó là gì đúng không.”
“Ý anh là ngôi sao có năm đỉnh?”
“Phải, được vẽ bằng một nét liền. Anh có biết biểu tượng này có thể có ý nghĩa gì không?”
Đầu Harry tuy đang cúi xuống bàn nhưng thực tình anh đang lén quan sát vẻ mặt Nygård.
“Tôi biết cũng kha khá.” Nygård nói, “Số năm là con số quan trọng nhất trong hắc thuật. Ngôi sao đó có mấy đỉnh hướng lên trên, một hay hai?”
“Một.”
“Vậy thì không phải là dấu hiệu của quỷ. Biểu tượng mà anh nhắc đến có thể tượng trưng cho cả sức sống lẫn đam mê. Anh đã tìm thấy nó ở đâu?”
“Ở cột xà phía trên giường cô ta.”
“À, ra vậy,” Nygård nói. “Thế thì dễ hiểu thôi.”
“Ồ?”
“Chúng tôi gọi biểu tượng đó là yểm linh giá, hay ngôi sao của quỷ.”
“Yểm linh giá ư?”
“Một biểu tượng của những người ngoại giáo. Họ từng khắc nó phía trên đầu giường hoặc ngưỡng cửa để xua đuổi yểm quỷ.”
“Yểm quỷ?”
“Đúng vậy, yểm quỷ. Chữ yểm trong từ mộng yểm, nghĩa là ác mộng. Đó là một nữ quỷ ngồi đè lên lồng ngực của một người đang ngủ và khiến anh ta gặp ác mộng. Những người ngoại giáo cho rằng con quỷ ấy chính là yêu linh. Điều đó cũng dễ hiểu thôi, vì tên của nó, ‘mare’, bắt nguồn từ chữ ‘mer’ trong ngữ hệ Ấn-Đức.”
“Thú thật, kiến thức của tôi về ngôn ngữ Ấn-Đức khá ít ỏi.”
“Nó có nghĩa là ‘chết’.” Nygård cúi nhìn cốc cà phê của mình. “Hay chính xác hơn là, ‘giết’.”
Về đến nhà, Harry thấy trong máy trả lời tự động có lưu một lời nhắn. Là của Rakel. Cô muốn nhờ anh trông Oleg trong lúc thằng bé đi bơi tại bể bơi ở Frogner vào ngày mai, vì cô có hẹn với nha sĩ từ ba đến năm giờ. Oleg đã đề nghị như vậy, cô nói.
Harry ngồi xuống, nghe đi nghe lại đoạn tin nhắn để xem trong đó có tiếng thở giống như trong tin nhắn anh nhận được cách đây vài ngày không, nhưng chẳng phát hiện thấy điều gì.
Anh cởi đồ, không mặc gì đi ngủ. Đêm qua anh đã tháo ruột bông ra, chỉ đắp mỗi vỏ chăn. Sau một hồi trằn trọc đạp chăn, cuối cùng anh cũng thiếp đi, nhưng rồi một chân móc vào khoảng hở ở đầu chăn, làm anh hoảng hốt và tỉnh giác khi nghe tiếng vải bông rách toạc. Ngoài kia, bóng tối đã bắt đầu ngả sang màu xám xịt. Anh ném vỏ chăn lông vịt rách bươm xuống sàn và nằm quay mặt vào tường.
Thế rồi cô xuất hiện. Cô cưỡi lên người anh, tròng dây cương vào miệng anh và kéo. Đầu anh giật ngửa. Cô cúi xuống và phả hơi thở nóng hổi vào tai anh. Một con rồng phun lửa. Một thông điệp không lời, một tiếng rít, trong máy trả lời tự động. Cô quất mạnh vào mạng sườn anh, vào hông và đùi anh, cảm giác đau đớn mói ngọt ngào làm sao, và cô nói, chẳng bao lâu nữa cô sẽ là người đàn bà duy nhất anh có thể yêu, vì vậy tốt hơn hết anh nên quen với điều đó ngay từ đầu đi.
Cô chỉ chịu buông tha cho anh khi mặt trời đã lên cao tới đỉnh.