CHƯƠNG 17 Thứ Ba
HỒ SƠ
Harry chăm chú nhìn kim giây của cái đồng hồ treo phía trên đầu Tom Waaler.
Họ phải mượn thêm ghế mới đủ cho những người đang có mặt tại phòng họp lớn nằm trong khu vực xanh lục của tầng sáu. Bao trùm khắp phòng là một bầu không khí gần như trang nghiêm: không có tiếng nói chuyện, không ai uống cà phê, cũng chẳng đọc báo, chỉ thấy người ta hí hoáy ghi chép, lặng lẽ chờ cho kim giờ nhích dần tới số tám. Harry đếm được cả thảy mười bảy cái đầu, như vậy nghĩa là chỉ thiếu duy nhất một người. Tom Waaler đứng đằng trước, hai tay khoanh lại, mắt đang nhìn chằm chằm cái đồng hồ Rolex của anh ta.
Kim giây của chiếc đồng hồ treo tường dịch chuyển rồi dừng lại, khẽ rung rinh, sau đó chỉ thẳng lên trời.
“Chúng ta bắt đầu thôi,” Tom Waaler nói.
Có tiếng sột soạt vang lên khi mọi người đồng loạt ngồi thẳng dậy trên ghế.
“Cuộc điều tra này sẽ do tôi chỉ huy, với sự trợ giúp của Harry Hole.”
Những cái đầu quanh bàn ngạc nhiên quay về phía Harry, người đang ngồi ở cuối phòng.
“Trước hết, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến tất cả những người đã rút ngắn kỳ nghỉ để về đây mà không một lời ca thán,” Waaler nói tiếp. “Chỉ e các bạn sẽ phải hy sinh không chỉ kỳ nghỉ mà còn nhiều thứ khác nữa trong những ngày sắp tới, và tôi không chắc mình sẽ có cơ hội đích thân cảm ơn từng người không, vì vậy hãy coi như lời cảm tạ này là dành cho cả tháng. Được chứ?”
Các nhân vật quanh bàn mỉm cười và gật đầu. Ngay cả Harry, nhưng với cung cách hệt như một sĩ quan chỉ huy đơn vị tương lai, anh thầm nghĩ.
“Hôm nay quả là một ngày đặc biệt về nhiều mặt.”
Waaler bật chiếc máy chiếu trên cao. Trang bìa tờ Dagbladet hiện lên màn hình phía sau anh ta. SÁT NHÂN HÀNG LOẠT ĐANG NHỞN NHƠ? Không có ảnh đi kèm mà chỉ có hàng tít bằng chữ in hoa như đang hét thẳng vào mặt. Ngày nay hiếm có tờ báo nghiêm túc nào dám dùng dấu chấm hỏi trên trang bìa, ngoài ra còn một điều rất ít người nói chung - và không một ai trong phòng họp K615 nói riêng - biết được, đó là quyết định thêm dấu hỏi ấy chỉ được đưa ra vài phút trước lúc báo đi in sau khi quyền biên tập viên gọi điện xin ý kiến của vị sếp đang đi nghỉ ở Tvedestrand.
“Ở Na Uy chưa thấy xuất hiện sát nhân hàng loạt nào - hay ít ra là theo như những gì chúng ta biết - kể từ sau vụ án rúng động của Arnfinn Nesset hồi thập niên tám mươi,” Waaler nói. “Sát nhân hàng loạt rất hiếm, thậm chí hiếm đến nỗi vụ này hẳn sẽ thu hút sự quan tâm vượt ra ngoài lãnh thổ Na Uy. Hiện tại chúng ta đã là tâm điểm chú ý của đông đảo người dân rồi, các đồng chí ạ.”
Cái cách ngừng lại giây lát để tạo ấn tượng sau đó của Tom Waaler thực ra chẳng cần thiết. Tất cả những người có mặt ở đây đều đã được nhắc nhở về tầm quan trọng của vụ án khi Møller gọi điện thông báo tình hình sơ bộ cho họ vào tối qua.
“Được rồi,” Waaler nói tiếp. “Nếu thực sự giờ chúng ta đang phải đương đầu với một kẻ sát nhân hàng loạt thì chúng ta cũng nắm trong tay nhiều lợi thế. Thứ nhất, trong đội có một thành viên đã có kinh nghiệm điều tra và bắt được một tên sát nhân hàng loạt. Chắc các bạn đều đã nghe nói về màn trình diễn xuất sắc của thanh tra Harry Hole ở Sydney. Mời Harry?”
Nhìn những gương mặt đang quay về phía mình, Harry đằng hắng một tiếng. Anh cảm thấy giọng nói của mình có nguy cơ tiêu biến nên lại đằng hắng thêm lần nữa.
“Tôi không dám chắc những gì tôi làm ở Sydney có thể được coi là chuyên án mẫu mực.” Anh cố nặn ra nụ cười tự giễu. “Vì hẳn các bạn hãy còn nhớ, cuối cùng tôi vẫn phải bắn chết gã đó.”
Không có tiếng cười, thậm chí ngay cả một thoáng nhếch môi cũng không. Thế này thì không làm được chỉ huy đơn vị tương lai rồi.
“Chúng tôi có thể hình dung ra những viễn cảnh tồi tệ hơn thế, Harry ạ,” Waaler nói và lại liếc đồng hồ đeo tay. “Nhiều người trong số các bạn đã biết chuyên gia tâm lý Ståle Aune, cố vấn chuyên môn của chúng ta trong một số vụ án. Ông đã nhận lời tham dự buổi họp này để trình bày đôi nét về hiện tượng sát nhân hàng loạt. Với một số người trong các bạn, thông tin đó không có gì mới mẻ, nhưng ôn lại kiến thức cũ một chút cũng chẳng mất gì. Ông sẽ có mặt ở đây lúc…”
Những cái đầu đồng loạt ngẩng lên khi cửa phòng bật mở. Một người đàn ông bước vào, thở hồng hộc. Phía trên cái bụng căng tròn nhô ra khỏi vòng kiềm tỏa của cái áo khoác bằng vải tweed là chiếc cà vạt mềm oặt màu da cam và cặp kính bé đến nỗi người ta phải tự hỏi có thể nhìn thấy được gì qua chúng không. Bên dưới cái đầu bóng loáng là vầng trán lấp lánh mồ hôi, dưới nữa là hai hàng lông mày sẫm màu có thể do nhuộm nhưng nhìn chung khá ngay ngắn, gọn gàng.
“Vừa nhắc đến phát…” Waaler nói.
“Là hắn tới liền!” Ståle Aune tiếp lời, rút khăn mùi soa trong túi áo ngực ra lau trán. “Cả cái nóng chảy mỡ nữa!”
Ông bước tới cuối bàn và thả đánh bịch chiếc cặp da màu nâu cũ mèm xuống sàn.
“Xin chào quý vị. Thật vui khi được thấy nhiều bạn trẻ tỉnh táo như vậy vào giờ này. Có vài người ở đây tôi đã gặp từ trước, số còn lại thì xin miễn cho.”
Harry mỉm cười. Anh là một trong số những kẻ “không miễn được” ấy. Lần đầu tiên anh đến gặp Aune là để xin lời khuyên về vấn đề nghiện rượu cách đây nhiều năm rồi. Aune tuy không phải chuyên gia về vấn đề lạm dụng chất kích thích, nhưng Harry phải thừa nhận giữa bọn họ đã hình thành một mối quan hệ ngấp nghé ngưỡng tình bạn.
“Còn không mau mở sổ ra, đám lười kia!”
Aune vắt chiếc áo khoác lên lưng ghế.
“Trông mặt mũi các anh chị cứ như đưa đám vậy, xét về một số khía cạnh thì chắc cũng đúng thôi, nhưng tôi muốn trông thấy vài nụ cười trước khi rời khỏi đây. Lệnh đã ban rồi đó. Nai nịt đầy đủ chưa? Tôi sẽ phóng như gió đấy.”
Aune vớ lấy cây bút dạ đặt trên mép dưới tấm bảng lật và bắt đầu vừa múa bút lia lịa vừa nói, “Chúng ta hoàn toàn có lý do để tin rằng sát nhân hàng loạt ra đời cùng với sự xuất hiện của loài người trên trái đất. Tuy nhiên, nhiều người coi sự kiện có tên ‘Mùa thu Hãi hùng’ vào năm 1888 là vụ giết người hàng loạt đầu tiên xảy ra ở thời hiện đại. Đó là vụ án đầu tiên được ghi chép về một kẻ sát hại nhiều người để thỏa mãn ham muốn xác thịt thuần túy. Tên sát nhân đã giết năm người phụ nữ trước khi lặn mất tăm. Người ta đặt cho hắn biệt danh ‘Jack Kẻ Phanh Thây’, còn danh tính thật đã bị hắn mang theo xuống mồ. Nhân vật nổi tiếng nhất đại diện cho đất nước chúng ta góp mặt trong danh sách đó không phải là Arnfinn Nesset, kẻ mà như các anh chị đều nhớ là đã hạ độc khoảng hai chục bệnh nhân hồi thập niên tám mươi, vì Belle Gunness mới thực sự là của hiếm: một nữ sát nhân hàng loạt. Cô ta di cư sang Mỹ rồi kết hôn với một gã ‘hoi’ vào năm 1902, sinh sống tại một nông trại ở ngoại ô thành phố La Porte, bang Indiana. Tôi nói ‘gã hoi’ vì gã nặng có bảy mươi cân, trong khi cô vợ nặng trăm hai.”
Aune kéo nhẹ những chiếc đai quần của mình.
“Cơ mà theo ý tôi thì cân nặng của cô ả như thế là vừa đẹp.” Một tràng cười rộ lên.
“Quý bà đẫy đà vừa phải này đã xuống tay giết hại chồng, mấy đứa con cùng một cơ số người theo đuổi bị cô ta dụ đến nông trại thông qua mục tìm bạn trăm năm trên các báo ở Chicago. Thi thể các nạn nhân được phát hiện vào năm 1908, khi nông trại bị thiêu rụi một cách đầy bí ẩn. Trong số đó có nửa thân trên không đầu bị cháy sém và nở nang lạ thường của một người phụ nữ. Người ta cho rằng Belle đã cố tình vứt cái xác đó lại để khiến các điều tra viên tin rằng người chết là cô ta. Cảnh sát nhận được tin báo của một số nhân chứng khai rằng họ đã trông thấy Belle xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau trên khắp nước Mỹ, nhưng cô ta không bao giờ bị bắt. Và đó là điểm mấu chốt tôi muốn nói, thưa các bạn. Thật đáng tiếc, Jack và Belle là hai trường hợp khá tiêu biểu của những kẻ sát nhân hàng loạt.”
Aune kết thúc bài viết bằng một tiếng gõ bút đanh gọn vào tấm bảng lật.
“Chúng không bị bắt.”
Cả phòng im lặng nhìn ông.
“Vậy,” Aune nói, “sát nhân hàng loạt là khái niệm gây ra nhiều tranh cãi cũng y như tất cả những điều tôi sắp trình bày với các bạn sau đây. Lý do là vì tâm lý học là ngành khoa học vẫn còn rất non trẻ, và cũng vì các nhà tâm lý học về bản chất là những người thích tranh luận. Tôi sẽ nói với các anh chị những gì chúng ta biết được về sát nhân hàng loạt - có biết nhiều thì cũng như không thôi. Nhân tiện, ‘sát nhân hàng loạt’ là thuật ngữ vô nghĩa đối với nhiều nhà tâm lý học giàu kinh nghiệm, vì cụm từ đó vốn dùng để miêu tả một nhóm bệnh tâm thần bị những nhà tâm lý khác phủ nhận sự tồn tại. Mọi người hiểu chứ? Hừm, ít ra có vài người trong các bạn đã cười, vậy là tốt đấy.”
Aune gõ ngón trỏ lên luận điểm thứ nhất ông đã viết trên bảng.
“Sát nhân hàng loạt điển hình là nam giới da trắng, tuổi từ hai mươi tư đến bốn mươi. Theo quy luật thì hắn thường hành động đơn lẻ, nhưng cũng có thể có đồng phạm, chẳng hạn như gây án theo cặp. Cách đối xử tàn bạo với nạn nhân là dấu hiệu cho thấy hắn ra tay một mình. Nạn nhân có thể là bất cứ ai, nhưng nhìn chung họ thuộc cùng một nhóm người thiểu số với hắn và trong những trường hợp đặc biệt còn có thể là người quen của hắn nữa.
“Thường thì hung thủ sẽ tìm kiếm nạn nhân đầu tiên tại khu vực hắn biết rõ. Trong trí tưởng tượng của công chúng, những vụ giết người luôn đi kèm với những nghi thức đặc biệt nào đó gắn liền với hung thủ. Điều này không đúng, nhưng nếu những nghi thức đó thật sự có diễn ra thì đa phần sẽ liên quan đến một tên giết người hàng loạt nào đấy.”
Aune chỉ vào luận điểm tiếp theo gồm mấy từ TÂM THẦN / THÁI NHÂN CÁCH XÃ HỘI.
“Tuy nhiên, đặc trưng tiêu biểu nhất của sát nhân hàng loạt nằm ở chỗ, chúng thường là người Mỹ. Vì sao lại thế thì chỉ có Chúa - và có lẽ là một vài giáo sư tâm lý ở Blindern - mới biết. Bởi vậy, thật thú vị khi những người có hiểu biết sâu rộng nhất về giết người hàng loạt - FBI và giới luật pháp Mỹ - lại chia những kẻ sát nhân hàng loạt thành hai loại: tâm thần và thái nhân cách xã hội. Mấy vị giáo sư tôi nhắc đến ở trên tin rằng hai khái niệm và cách phân loại đó hoàn toàn nhảm nhí, nhưng tại quê hương của lũ sát nhân hàng loạt, phần lớn các tòa án đều tuân theo luật McNaughten, trong đó quy định bằng sắc lệnh rằng chỉ những kẻ tâm thần mới không nhận thức được hành động của mình khi phạm tội. Do đó, khác với nhóm thái nhân cách xã hội, nhóm tâm thần thoát được án tù, hay thậm chí là án tử, nếu chiếu theo điều luật có lẽ vẫn áp dụng ở xứ sở của Chúa. Ý tôi là đối với tội danh giết người hàng loạt ấy, hừm…”
Ông đưa chiếc bút dạ lên mũi ngửi và nhướn một bên chân mày vẻ ngạc nhiên.
Waaler giơ tay xin phát biểu. Aune gật đầu.
“Việc lựa chọn bản án nào là đề tài rất thú vị,” Waaler lên tiếng, “nhưng muốn thế thì trước tiên chúng ta phải bắt được hung thủ cái đã. Ông có bất kỳ lời khuyên thực tế nào chúng tôi có thể áp dụng được không?”
“Anh có điên không vậy? Tôi là chuyên gia tâm lý cơ mà, không phải sao?”
Tiếng cười lại vang lên. Aune cúi chào vẻ hài lòng.
“Vâng, tôi sắp đề cập đến điều đó đây, thanh tra Waaler. Nhưng trước hết, nếu có bất cứ ai trong số những người đang ngồi đây bắt đầu cảm thấy sốt ruột, thì tôi xin phép được nói luôn rằng các anh chị sắp phải đương đầu với một giai đoạn khó khăn đấy. Kinh nghiệm của tôi cho thấy, không gì mất thời gian bằng việc truy tìm kẻ sát nhân hàng loạt. Nhất là những kẻ thuộc loại không giống ai.”
“Không giống ai là sao?” Câu hỏi đó là của Magnus Skarre.
“Trước hết, chúng ta hãy cùng xem xét cách thức xây dựng chân dung tâm lý tội phạm giúp FBI phân biệt giữa tâm thần và thái nhân cách xã hội. Những kẻ tâm thần thường là người không có khả năng thích nghi, không nghề ngỗng, không được học hành, có tiền án tiền sự và gặp nhiều vấn đề trong đời sống. Những kẻ thái nhân cách xã hội thì lại khác, chúng thông minh, có vẻ thành đạt và sống một cuộc đời bình thường như bao người. Đối tượng tâm thần khá nổi bật và dễ bị nghi ngờ, trong khi đó, những kẻ thái nhân cách xã hội rất giỏi ẩn mình trong đám đông. Khi một kẻ thái nhân cách xã hội bị lật mặt luôn khiến bạn bè hàng xóm của hắn bị sốc nặng. Tôi đã từng trao đổi với một chuyên gia tâm lý phụ trách xây dựng chân dung tâm lý tội phạm cho FBI, bà ấy nói điều đầu tiên bà ấy xem xét là thời điểm gây án. Gây án là việc mất thời gian, dĩ nhiên rồi. Bà ấy cho rằng, một trong những đầu mối hữu ích đến từ việc xác định được những vụ án đó diễn ra vào thời gian nào, ngày thường, cuối tuần, hay những dịp quốc lễ. Nếu là vào ngày nghỉ thì có thể cho rằng hung thủ có công ăn việc làm, từ đó xác suất hắn là kẻ thái nhân cách sẽ cao hơn.”
“Vậy nếu đối tượng của chúng ta gây án vào những dịp quốc lễ thì có thể cho rằng hắn có công ăn việc làm và là kẻ thái nhân cách xã hội sao?” Beate Lønn hỏi.
“Tất nhiên, đưa ra kết luận ấy vào lúc này e hơi sớm, nhưng dựa vào những thông tin chúng ta thu thập được thì cũng có thể nói vậy. Anh thấy điều đó đã đủ thực tế chưa?”
“Thực tế thì phải rồi,” Waaler nói, “nhưng đồng thời cũng là một tin tức rất tệ, nếu tôi hiểu đúng ý ông.”
“Chính xác. Đối tượng của chúng ta xem ra rất giống loại sát nhân hàng loạt không giống ai. Loại thái nhân cách xã hội.”
Aune chờ vài giây cho mọi người kịp ngấm rồi mới nói tiếp.
“Theo nhà tâm lý học người Mỹ Joel Norris, mỗi lần giết người, kẻ sát nhân hàng loạt sẽ trải qua diễn biến tâm lý gồm sáu giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất gọi là hào quang, khi đối tượng dần dần mất đi khả năng nhận thức thực tại. Giai đoạn thứ năm, hay totem, là khi hắn thực sự ra tay giết người. Đây được coi như giai đoạn cao trào đối với kẻ sát nhân hàng loạt ấy, hay đúng hơn là giai đoạn phản cao trào, vì hành vi giết chóc chẳng bao giờ có thể làm thỏa mãn ước mong lẫn hy vọng được giải tỏa và thanh tẩy mà hắn cho rằng luôn song hành với mỗi lần tước đoạt một mạng sống. Đó là lý do vì sao kẻ giết người sẽ lập tức chuyển sang giai đoạn thứ sáu: suy sụp. Và tất cả lại tái diễn khi giai đoạn ấy dẫn đến một giai đoạn hào quang mới, hắn xốc lại tinh thần để chuẩn bị cho vụ giết người tiếp theo.”
“Vậy là vòng tròn cứ thế lặp lại,” Bjarne Møller lên tiếng, ông đã lẻn vào phòng từ lúc nào chẳng ai hay và đang đứng bên cửa. “Hệt như một bánh xe vĩnh cửu.”
“Chỉ có điều, cỗ máy chuyển động vĩnh cửu hoạt động theo quy trình lặp lại và không có sự thay đổi,” Aune nói. “Nhưng sát nhân hàng loạt lại trải qua quá trình khiến hành vi của hắn biến đổi về lâu dài. Đặc trưng của quá trình đó, may thay, là khả năng kiểm soát càng lúc càng suy giảm, và rủi thay, là mức độ tàn bạo theo đó cũng tăng lên. Vụ giết người đầu tiên luôn là vụ khó bị phát hiện nhất, do vậy giai đoạn có tên hạ nhiệt diễn ra sau đó cũng là giai đoạn tồn tại lâu nhất. Nó dẫn đến giai đoạn hào quang kéo dài mà hung thủ chuẩn bị cho lần giết người tiếp theo và hắn sẽ tự cho mình một khoảng thời gian cực lâu để lên kế hoạch cho nó. Nếu hắn để ý đến từng chân tơ kẽ tóc ở hiện trường gây án, nếu những nghi thức được tiến hành chuẩn xác và nguy cơ bị phát hiện là rất nhỏ, thì có thể cho rằng hắn vẫn đang ở giai đoạn đầu của quá trình. Trong thời gian này hắn sẽ mài giũa cho thành thạo thủ pháp để trở nên hiệu quả hơn nữa. Đây là giai đoạn khó khăn nhất đối với những người truy bắt hắn. Tuy nhiên, sau một vài lần gây án, giai đoạn hạ nhiệt sẽ càng ngày càng ngắn lại, đặc tính là vậy. Thời gian lên kế hoạch của hắn sẽ ít hơn, hiện trường để lại ngày một lộn xộn hơn, những nghi thức được thực hiện không còn được gọn gàng như trước, và hắn trở nên liều lĩnh hơn. Tất cả những dấu hiệu trên cho thấy cảm giác vỡ mộng của hắn càng ngày càng gia tăng. Hay nói cách khác là, cơn khát máu trong hắn đang không ngừng leo thang. Hắn mất đi khả năng kiềm chế và dễ bị tóm hơn. Nhưng nếu trong giai đoạn này nỗ lực truy bắt hắn thất bại, hắn có thể sẽ hoảng sợ mà lui về ở ẩn một thời gian. Như thế, hắn sẽ có cơ hội bình tâm rồi sau đó bắt đầu lại từ đầu. Những ví dụ tôi vừa nêu chắc không quá đen tối chứ?”
“Chúng tôi vẫn ổn,” Waaler nói. “Ông có thể phân tích đôi chút về chuyên án hiện tại không?”
“Được,” Aune đáp. “Ở đây chúng ta có ba vụ giết người có chủ đích…”
“Hai thôi!” Lại là Skarre. “Tạm thời, Lisbeth Barli mới chỉ được trình báo là mất tích.”
“Ba vụ giết người,” Aune nói. “Tin tôi đi, anh bạn trẻ.”
Vài viên cảnh sát đưa mắt nhìn nhau. Skarre dường như còn muốn nói thêm gì đó, nhưng rồi lại thôi. Aune tiếp tục.
“Ba vụ án diễn ra cách nhau một khoảng thời gian tương đồng. Và thi thể trong cả ba vụ đều bị cắt xẻo và sắp đặt theo cùng một cách thức. Hắn cắt cụt một ngón tay rồi bù đắp cho nạn nhân bằng một viên kim cương. Nhân tiện, sự bù đắp cũng là một đặc điểm quen thuộc đối với kiểu gây án tàn bạo này, điển hình của những kẻ sát nhân lớn lên trong môi trường giáo dục đạo đức khắc nghiệt. Có lẽ các anh chị có thể lần theo manh mối này, vì ở Na Uy còn được mấy gia đình biết luân thường đạo lý đâu.”
Không có tiếng cười.
Aune thở dài.
“Đó là một cách pha trò giảm căng thẳng thôi mà. Tôi không có ý giễu cợt hay gì, và có lẽ tôi nên chọn cách nói khác thích hợp hơn, chỉ là tôi đang cố không để vụ này ăn tươi nuốt sống mình trước khi chúng ta thực sự bắt tay vào xử lý. Và tôi khuyên mọi người cũng nên như thế. Dù sao đi nữa, với riêng chuyên án này, khoảng cách về thời gian giữa các vụ và nghi thức tiến hành là hai chi tiết cho thấy hung thủ biết kiềm chế và đang ở giai đoạn đầu.”
Có tiếng đằng hắng khẽ vang lên.
“Gì vậy, Harry?” Aune hỏi.
“Cách lựa chọn nạn nhân và địa điểm,” Harry nói.
Aune đưa ngón tay trỏ lên xoa cằm, ngẫm nghĩ giây lát rồi gật gù.
“Anh nói đúng, Harry.”
Quanh bàn, những ánh mắt ngơ ngác nhìn nhau.
“Đúng về chuyện gì?” Skarre cao giọng hỏi.
“Cách lựa chọn nạn nhân và địa điểm cho thấy điều ngược lại,” Aune nói. “Rằng hung thủ đang nhanh chóng chuyển sang giai đoạn mất kiểm soát và bắt đầu giết người vô tội vạ.”
“Sao lại thế?” Møller thắc mắc.
Harry lên tiếng, mặt vẫn cúi gằm xuống bàn.
“Vụ nổ súng đầu tiên, của Camilla Loen, xảy ra trong căn hộ nơi nạn nhân sống một mình. Hung thủ có thể tự do ra vào mà không lo bị bắt hoặc bị người khác nhận diện. Hắn có thể ra tay giết người và tiến hành nghi thức của mình mà không bị làm phiền, nhưng hắn đã liều lĩnh khi chọn nạn nhân thứ hai. Hắn bắt cóc Lisbeth Barli ngay trong khu dân cư, giữa thanh thiên bạch nhật, có thể hắn sử dụng một chiếc xe hơi và xe hơi thì kiểu gì cũng có biển. Vụ thứ ba hoàn toàn hú họa - trong phòng vệ sinh nữ tại một khu văn phòng. Đúng là vụ án xảy ra sau khi đã hết giờ làm hành chính, nhưng ở đó vẫn còn quá nhiều người nên phải may mắn lắm hắn mới không bị bắt quả tang hoặc chí ít là cũng bị nhận diện.”
Møller quay sang phía Aune.
“Vậy kết luận ở đây là gì?”
“Là chúng ta chưa thể kết luận được bất cứ điều gì,” Aune đáp. “Hiện tại chúng ta chỉ có thể suy đoán rằng hắn là một kẻ thái nhân cách xã hội giỏi hòa nhập. Và cũng chưa biết được hắn sắp sửa hóa điên chưa hay vẫn còn duy trì được khả năng kiềm chế.”
“Vậy chúng ta có thể hy vọng điều gì đây?”
“Một viễn cảnh có khả năng xảy ra là chúng ta sắp phải chứng kiến một cuộc tàn sát đẫm máu, nhưng cũng có khả năng chúng ta may mắn tóm được hắn vì hắn sẽ tiếp tục liều lĩnh hành động. Hoặc viễn cảnh khác nữa là khoảng thời gian giữa các vụ giết người sẽ kéo dài hơn, nhưng kinh nghiệm lâu năm của tất cả chúng ta đều cho thấy chúng ta sẽ không thể bắt được hắn trong một sớm một chiều. Lựa chọn như thế nào là tùy ở các vị.”
“Nhưng chúng ta biết bắt đầu từ đâu đây?” Møller hỏi.
“Nếu có thể đặt lòng tin nơi các bạn đồng nghiệp trong ngành thống kê thì tôi sẽ nói, hãy bắt đầu với những kẻ mắc chúng đái dầm, bạo hành động vật, hiếp dâm, cuồng phóng hỏa, nhất là phóng hỏa. Nhưng tôi lại không tin họ. Đáng tiếc, tôi không khoanh vùng được nhóm đối tượng đặc biệt nào thay thế, vì vậy có lẽ câu trả lời của tôi là: tôi không biết.”
Aune đóng nắp bút lại. Sự im lặng bao trùm thật nặng nề.
Tom Waaler đúng phắt dậy.
“Nào, các đồng chí. Chúng ta có việc phải làm rồi. Trước hết, tôi muốn mọi người thẩm vấn lại toàn bộ những người đã được lấy lời khai. Kiểm tra hồ sơ của tất cả những tên sát nhân đã bị buộc tội và rà soát thông tin của những kẻ bị kết án hiếp dâm hoặc phóng hỏa.”
Harry âm thầm quan sát Waaler trong lúc anh ta giao việc cho mọi người, anh nhận thấy ở anh ta toát ra sự tự tin và hiệu quả, tốc độ và linh hoạt khi xử lý những ý kiến bất đồng mang tính thực tế và xác đáng, cũng như khả năng tư duy đáng nể và sự quyết đoán khi gạt đi những ý kiến không xác đáng.
Chiếc đồng hồ phía trên cửa chính đang chỉ chín giờ mười lăm phút. Ngày mới bắt đầu chưa được bao lâu mà Harry đã cảm thấy kiệt sức, chẳng khác gì con sư tử già yếu sắp chết tụt lại phía sau đàn dù đã có thời nó có thể thách đấu với con đầu đàn. Nói vậy không có nghĩa anh từng ôm ấp tham vọng làm kẻ dẫn đầu, nhưng dù thế nào đi nữa, mọi chuyện cũng đã xuống dốc không phanh. Giờ anh chỉ còn biết im lặng nằm chờ và cầu mong có người thí cho mình một khúc xương mà thôi.
Và có người đã thí cho anh một khúc xương thật. Lại còn rất to là đằng khác.
Lớp cách âm trong căn phòng thẩm vấn chật chội khiến Harry có cảm giác như thể vừa chui vào một tấm chăn lông vịt.
“Tôi nhập khẩu máy trợ thính,” người đàn ông có vóc người thấp đậm nói, đưa tay vuốt dọc cái cà vạt lụa của ông ta. Một chiếc kẹp vàng trang nhã cố định cà vạt với sơ mi trắng.
“Máy trợ thính ư?” Harry hỏi lại, cúi nhìn tờ thông tin thẩm vấn Tom Waaler đưa cho anh. Trong ô họ tên, ông ta viết hai chữ André Clausen, còn ô nghề nghiệp ghi Doanh nhân tư nhân.
“Thính giác của anh có vấn đề gì không?” Clausen hỏi. Harry không xác định được câu chọc ngoáy này là cố tình nhằm vào anh hay Clausen chỉ châm biếm vậy thôi.
“Ừm. Vậy là ông đến công ty Halle, Thune & Wetterlid để trao đổi về máy trợ thính?”
“Tôi chỉ muốn nhờ họ thẩm định bản hợp đồng đại diện. Một đồng nghiệp tốt bụng của anh đã xin bản sao của hợp đồng đó chiều qua rồi.”
“Cái này phải không?” Harry chỉ vào một tập hồ sơ.
“Phải.”
“Tôi vừa xem qua rồi. Hợp đồng đã ký từ hai năm trước. Ông sẽ cho gia hạn à?”
“Không. Tôi chỉ muốn chắc chắn là mình không bị lừa.”
“Bây giờ mới kiểm tra sao?”
“Muộn còn hơn không.”
“Ông không có luật sư riêng à?”
“Có, nhưng e rằng ông ta sắp xuống lỗ rồi.” Anh nhác thấy miếng trám răng bằng vàng khi Clausen mỉm cười và nói tiếp, “Tôi đã đề nghị gặp gỡ bước đầu để xem năng lực của công ty luật này đến đâu.”
“Và ông đồng ý gặp gỡ trước cuối tuần? Với một công ty chuyên thu hồi nợ?”
“Tôi chỉ nhận ra được điều đó trong lúc họp mà thôi. Ý tôi là trong khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi xảy ra sự việc động trời.”
“Nhưng nếu muốn tìm luật sư mới thì chắc ông phải hẹn gặp với vài công ty chứ,” Harry nói. “Ông có thể cho chúng tôi biết đó là những công ty nào không?”
Harry không nhìn vào mặt André Clausen. Đó không phải thứ cho biết đối phương đang nói dối. Vừa gặp Harry đã biết ngay Clausen là kiểu người không thích để lộ suy nghĩ qua nét mặt. Có thể là vì tính tình nhút nhát, hoặc vì tính chất công việc yêu cầu ông ta phải giữ vẻ mặt vô cảm, mà cũng có thể do trong quá khứ của ông ta, sự tự chủ được coi là phẩm chất thiết yếu. Bởi vậy, Harry chú ý quan sát nhằm tìm kiếm những dấu hiệu khác, chẳng hạn như liệu bàn tay đang đặt trên đùi của ông ta có lại đưa lên vuốt cà vạt không. Nhưng điều đó không xảy ra. Clausen chỉ đang ngồi nhìn Harry. Tuy không chằm chằm nhưng cặp mắt đờ đẫn chúng tỏ dường như ông ta cảm thấy tình cảnh này khó chịu và hơi có chút tẻ nhạt.
“Những công ty tôi gọi điện đến phần lớn đều không muốn sắp xếp lịch hẹn cho tới sau kỳ nghỉ,” Clausen nói. “Còn Halle, Thune & Wetterlid lại sốt sắng hơn nhiều. Anh nói đi, tôi có bị tình nghi gì không?”
“Ai cũng bị tình nghi cả,” Harry đáp.
“Cũng phải.”
Clausen thốt ra hai từ ấy bằng giọng Anh chuẩn giọng đài BBC.
“Tôi để ý thấy kiểu phát âm của ông có chút pha tạp.”
“Vậy sao? Mấy năm gần đây tôi thường xuyên đi công tác. Chắc là vì vậy đấy.”
“Ông đi những đâu?”
“Thực ra mà nói thì chủ yếu chỉ quanh quẩn trong phạm vi Na Uy. Tôi đến các bệnh viện và viện nghiên cứu. Hoặc không thì tôi thường sang nhà máy sản xuất máy trợ thính bên Thụy Sĩ. Sản phẩm ngày càng tân tiến nên cũng phải chịu khó bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.”
Một lần nữa giọng nói của ông ta ẩn chứa hàm ý mỉa mai khó lòng xác định rõ.
“Ông đã kết hôn chưa? Có gia đình không?”
“Nếu anh xem bản khai do đồng nghiệp của anh viết, anh sẽ thấy tôi chưa kết hôn.”
Harry nhìn xuống tờ khai.
“Vâng, tôi thấy rồi. Vậy là ông sống một mình ở… xem nào… đường Gimle Terrasse.”
“Không,” Clausen đáp. “Tôi sống cùng với Truls.”
“Đúng vậy. Tôi biết.”
“Anh biết?” Clausen mủn cười, hai mí mắt sụp xuống thêm chút nữa. “Truls là chú chó giống golden retriever.”
Harry có thể cảm thấy cơn đau đầu đang manh nha trỗi dậy đằng sau mắt. Liếc qua bản danh sách, anh thấy mình còn bốn cuộc thẩm vấn trước giờ nghỉ trưa và năm cuộc sau đó. Anh làm gì có sức để đối đáp với từng ấy người kia chứ.
Anh yêu cầu Clausen thuật lại đầu đuôi sự việc kể từ lúc ông ta bước vào tòa nhà ở quảng trường Carl Berners cho đến khi cảnh sát tới.
“Rất sẵn lòng,” ông ta nói và ngáp dài.
Harry ngả người ra sau ghế lắng nghe Clausen kể lại, một cách rành mạch và tự tin, về việc ông ta bắt taxi tới tòa nhà, đi thang máy lên công ty, và sau khi trao đổi đôi câu với nhân viên lễ tân, ông ta chờ khoảng năm, sáu phút để cô ta mang nước ra. Khi không thấy cô ta quay lại, ông ta tự lang thang đi tìm giữa các văn phòng và thấy tấm biển đề tên luật sư Halle gắn trên cửa văn phòng riêng của anh ta.
Harry thấy trong tài liệu Waaler ghi chép có viết Halle đã xác nhận Clausen gõ cửa phòng mình lúc năm giờ năm phút.
“Ông có trông thấy ai ra vào phòng vệ sinh nữ không?”
“Nhìn từ chỗ tôi ngồi chờ ở khu lễ tân thì không thấy cửa. Tôi cũng không thấy ai ra vào lúc tôi đến văn phòng. Mà điều này tôi đã nhắc đi nhắc lại mấy lần rồi.”
“Ông sẽ còn phải nhắc lại nhiều nữa,” Harry nói, ngoác miệng ngáp thành tiếng và đưa tay xoa mặt. Đúng lúc đó, Magnus Skarre gõ cửa sổ phòng thẩm vấn và giơ đồng hồ đeo tay lên. Harry nhận ra Wetterlid đang đứng cạnh anh ta. Anh gật đầu đồng ý và liếc nhìn lần cuối tờ giấy ghi lời khai.
“Trong bản khai có viết ông không trông thấy người nào khả nghi đến và đi khỏi khu lễ tân trong thời gian ông ngồi chờ ở đó.”
“Đúng vậy.”
“Ừm, rất cảm ơn ông đã hợp tác với chúng tôi,” Harry nói, cất tờ khai vào túi hồ sơ và nhấn nút dừng trên máy ghi âm. “Chúng tôi chắc chắn sẽ còn liên lạc lại với ông.”
“Không thấy người nào khả nghi ” Clausen nói và đứng dậy.
“Sao cơ?”
“Tôi nói tôi không trông thấy người nào khả nghi ở khu lễ tân, nhưng có một cô lao công xuất hiện và đi vào khu vực văn phòng.”
“Phải, chúng tôi đã nói chuyện với cô ta. Cô ta khai cô ta đi thẳng vào trong bếp và không trông thấy ai cả.”
Harry đứng dậy, lướt mắt nhìn xuống bản danh sách. Cuộc thẩm vấn tiếp theo diễn ra lúc mười giờ mười lăm phút tại phòng số bốn.
“Dĩ nhiên còn cả nhân viên giao nhận nữa,” Clausen nói.
“Nhân viên giao nhận ư?”
“Phải. Anh ta đi ra khỏi cửa chính ngay trước khi tôi đi tìm vị luật sư đã hẹn. Chắc là đến giao hoặc lấy hàng gì đó. Sao anh lại nhìn tôi như thế, thanh tra? Thật tình, một nhân viên giao nhận bình thường đến công ty luật có phải là điều gì khả nghi lắm đâu.”
Nửa giờ sau, khi kiểm tra xong với công ty luật và vài công ty chuyển phát tại Oslo, Harry xác thực được một điều: không có ai đăng ký gửi hoặc nhận bất cứ đồ gì ở Halle, Thune & Wetterlid vào hôm thứ Hai cả.
Hai giờ sau khi rời khỏi Sở Cảnh sát, ngay trước lúc mặt trời lên tới đỉnh, Clausen đã được cảnh sát điều xe đến đón tại văn phòng và đưa về Sở để miêu tả lại ngoại hình của gã nhân viên giao nhận nọ.
Ông ta không cung cấp được nhiều thông tin lắm: cao khoảng 1m80, tầm vóc trung bình. Clausen không mấy chú ý đến đặc điểm bên ngoài của gã nhân viên. Ông ta cho rằng hành động đó vừa chẳng có gì thú vị vừa không phù hợp với đàn ông, ông ta nói vậy, đồng thời nhắc lại là gã mặc trang phục thường thấy của nhân viên giao nhận bằng xe đạp: áo phông cua rơ kiểu bó sát màu vàng pha đen, quần soóc, đi đôi giày phát ra tiếng lách cách ngay cả khi bước trên thảm. Mặt gã đã bị chiếc mũ bảo hiểm và cặp kính râm che mất.
“Phần miệng thì sao?” Harry hỏi.
“Bịt khăn trắng quanh miệng,” Clausen nói. “Giống kiểu Michael Jackson dùng. Tôi nghĩ nhân viên giao nhận bằng xe đạp đeo nó để bảo vệ mình tránh hít phải khói xe.”
“Ở New York và Tokyo thì đúng. Nhưng đây là Oslo.”
Clausen nhún vai. “À thì, tôi không cảm thấy điều đó có gì bất thường cả.”
Sau khi cho Clausen ra về, Harry sang phòng Tom Waaler. Lúc anh bước vào, Waaler đang ngồi nghe điện thoại, miệng lẩm bẩm ậm ừ.
“Tôi nghĩ mình đã đoán ra hung thủ làm cách nào để có thể lọt vào căn hộ của Camilla Loen rồi,” Harry nói.
Tom Waaler cúp máy luôn mà không buồn kết lại cuộc nói chuyện.
“Ở cổng tòa nhà cô ta ở có lắp camera ghi hình kết nối với hệ thống điện thoại nội bộ, đúng không?”
“Đúng…?” Waaler nhoài người tới trước.
“Ai có thể nhấn chuông bất cứ căn hộ nào, chường bộ mặt kín bưng trước camera mà vẫn hoàn toàn tự tin rằng người ta sẽ cho phép mình vào?”
“Ông già Noel?”
“Chưa chắc, nhưng nếu người đó mang theo bưu kiện chuyển phát nhanh hoặc một bó hoa, một nhân viên giao nhận, thì anh sẽ cho vào chứ?”
Waaler nhấn nút gọi trên điện thoại.
“Từ lúc Clausen đến công ty cho tới lúc ông ta trông thấy gã nhân viên giao nhận rời đi qua khu lễ tân chỉ vừa hơn bốn phút một chút. Một nhân viên giao nhận đi vào, giao hàng rồi nhanh chóng ra về, không ai la cà đến bốn phút cả.”
Waaler chậm rãi gật đầu.
“Nhân viên giao nhận bằng xe đạp,” anh ta nói. “Đơn giản đến không tưởng. Người có lý do hợp lý để tạt vào bất cứ đâu trong khi vẫn bịt mặt. Người mà ai ai cũng trông thấy nhưng lại không để ý.”
“Con ngựa thành Troy,” Harry nói. “Quả là một vỏ bọc hoàn hảo đối với kẻ sát nhân hàng loạt.”
“Chẳng ai thèm bận tâm đến một nhân viên giao nhận vội vã rời đi cả. Và hắn sử dụng phương tiện di chuyển không cần phải đăng ký, có lẽ là cách hiệu quả nhất để tẩu thoát trong thành phố.” Waaler lấy tay che điện thoại.
“Tôi sẽ cử vài người đi hỏi xem có ai trông thấy một nhân viên giao nhận bằng xe đạp xuất hiện ở các hiện trường vào thời điểm gây án không.”
“Còn một điều nữa chúng ta cần cân nhắc,” Harry nói.
“Phải,” Waaler nói. “Có cần cảnh báo người dân về những đối tượng là nhân viên giao nhận lạ mặt không.”
“Ừ. Anh sẽ trao đổi vấn đề này với Møller chứ?”
“Vâng. Mà Harry này…”
Harry ra đến cửa thì dừng lại.
“Làm tốt lắm,” Waaler nói.
Harry gật nhanh một cái rồi rời đi.
Ba phút sau, trong hàng ngũ Đội Hình sự rộ lên tin đồn Harry đã tìm được đầu mối.