CHƯƠNG 20 Thứ Tư
NHỮNG NGƯỜI XÂY THÁNH ĐƯỜNG
Harry và Oleg chạm trán Rakel lúc cô đang trên đường rời khỏi bể bơi ngoài trời ở Frogner. Cô chạy ào tới ôm chầm lấy Oleg, đồng thời ném cho Harry ánh mắt hình viên đạn.
“Anh nghĩ mình đang làm cái gì vậy hả?” cô khẽ thì thào.
Harry đứng đó, hai tay buông thõng, lúng túng đổi chân trụ. Anh biết mình có thể cho cô câu trả lời. Anh có thể nói việc anh đang “làm” là cố gắng cứu vớt sinh mạng của những con người trong thành phố này, nhưng ngay cả điều đó cũng là dối trá. Sự thật là anh chỉ đang “làm” việc của anh và để mặc cho những người xung quanh trả giá. Xưa nay đã thế, sau này vẫn vậy, và nếu trong lúc hành sự có mạng sống nào tình cờ được cứu vớt thì cũng coi như là lợi ích ngoài lề.
Thay vào đó, anh nói, “Anh xin lỗi.” ít nhiều gì, đó cũng là sự thật.
“Bọn con tới nơi một kẻ giết người hàng loạt đã đến,” Oleg hớn hở nói nhưng rồi im bặt khi trông thấy vẻ sửng sốt trên mặt mẹ.
“Ừm…” Harry lên tiếng.
“Đừng,” Rakel ngắt lời anh. “Đừng có giải thích.”
Harry nhún vai và trao cho Oleg nụ cười buồn bã.
“Để anh đưa mẹ con em về.”
Chưa cần nghe cô nói, anh cũng đã đoán được câu trả lời. Anh đứng đó nhìn theo hai mẹ con. Rakel quày quả sải bước đi trước. Oleg quay lại và vẫy anh. Anh cũng vẫy chào thằng bé.
Mặt trời chói chang khiến hai mắt anh nhức nhối.
Căng tin nằm trên tầng thượng của Sở Cảnh sát. Bước qua ngưỡng cửa vào bên trong, Harry liền quét mắt nhìn quanh. Ngoài một người đang ngồi quay lưng về phía một trong mấy chiếc bàn thì căn phòng rộng lớn vắng tanh vắng ngắt. Harry đã lái xe từ công viên Frogner tới thẳng Sở Cảnh sát. Lúc đi qua hành lang trên tầng sáu, anh nhận thấy phòng làm việc của Tom Waaler không có ai nhưng đèn thì vẫn bật.
Harry tới chỗ quầy phục vụ, nơi những cánh cửa chớp bằng thép đóng im ỉm. Chiếc ti vi treo ở góc phòng đang phát chương trình quay xổ số. Harry quan sát trái bóng lăn xuống cái phễu. Tiếng ti vi tuy nhỏ nhưng anh vẫn nghe thấy một giọng phụ nữ nói: “Năm, đó là số năm.” Ai đó gặp may rồi. Bỗng có tiếng ghế xô ở bàn có người ngồi.
“Chào Harry. Quầy phục vụ đóng cửa rồi.”
Người đó chính là Tom.
“Tôi biết,” Harry nói.
Anh nghĩ đến điều Rakel đã hỏi, rằng thực sự anh đang làm gì vậy.
“Tôi chỉ định hút điếu thuốc thôi.”
Harry hất đầu về phía cánh cửa mở ra khoảng sân thượng mà thực tế đã bị trưng dụng thành nơi hút thuốc quanh năm suốt tháng.
Quang cảnh nhìn từ sân thượng quả là tuyệt vời, nhưng không khí trên này vẫn nóng bức và tĩnh mịch hệt như dưới mặt đất. Nắng chiều nghiêng nghiêng phủ lên thành phố và dừng lại tại Bjørvika, khu vực ở Oslo có đường cao tốc, cảng container vận chuyển và là chỗ tá túc của dân nghiện, nhưng chẳng bao lâu nữa nơi đây sẽ mọc lên một nhà hát opera, các khách sạn và những căn hộ dành cho giới triệu phú. Sự giàu sang đã bắt đầu lan tỏa khắp thành phố với tốc độ như vũ bão. Nó khiến Harry nghĩ đến loài cá trê sống trong sông ngòi ở châu Phi, những con cá lớn đen sì không biết đường bơi đến những vùng nước sâu hơn khi xảy ra hạn hán, để rồi cuối cùng bị mắc kẹt trong một vũng bùn nào đó cứ ngày một cạn khô. Tất cả các công trình đều đã bắt đầu khỏi công, những chiếc cần trục sừng sững như những chú hươu cao cổ in bóng trên mặt trời buổi chiều.
“Rồi sẽ rất tuyệt cho mà xem.”
Anh thậm chí còn không nghe thấy tiếng bước chân Tom đến gần.
“Để rồi xem.”
Harry rít một hơi thuốc. Anh không chắc mình vừa trả lời cho câu hỏi gì.
“Tôi nghĩ anh sẽ thích,” Waaler nói. “Chỉ cần quen với nó là sẽ ổn thôi.”
Harry có thể hình dung ra trước mặt anh là bầy cá trê đang nằm trong vũng bùn sau khi vùng nước cuối cùng bốc hơi mất, chúng quẫy đuôi, ngắc ngoải ngáp lớn trong lúc vật lộn làm quen với việc thở trên cạn.
“Nhưng tôi muốn nghe câu trả lời của anh, Harry. Tôi cần phải biết anh có đồng ý tham gia hay không.”
Chết vì mắc cạn. Cái chết của bầy cá trê có lẽ chẳng tệ hơn cái chết vì bất kỳ nguyên nhân nào khác cả. Mắc cạn đến chết chắc cũng khá dễ chịu.
“Beate có gọi điện,” Harry nói. “Cô ấy đã kiểm tra những dấu vân tay để lại ở cửa hàng ti vi.”
“Ồ?”
“Chỉ là những dấu vân tay không hoàn chỉnh thôi. Mà chủ cửa hàng cũng chẳng nhớ được điều gì.”
“Thật đáng tiếc. Aune có kể là ở Thụy Điển người ta thu được những kết quả rất tốt nhờ sử dụng thuật thôi miên với những nhân chứng hay quên đấy. Hay là chúng ta cũng thử xem.”
“Được thôi.”
“Chiều nay bên Pháp y còn gửi đến một thông tin đáng chú ý nữa. Về Camilla Loen.”
“Ừm?”
“Hóa ra cô ta đang có thai. Hai tháng. Nhưng chẳng ai trong số những người quen biết với cô ta mà chúng ta thẩm vấn biết được bố đứa bé là ai. Tôi không cho rằng việc đó có liên quan lắm đến cái chết của cô ta, nhưng biết được cũng thú vị đấy chứ.”
“Ừm.”
Hai người đứng đó trong im lặng. Waaler bước tới chỗ lan can và nhoài người tì lên tay vịn.
“Tôi biết anh không ưa tôi, Harry. Và tôi cũng không đòi hỏi anh phải bắt đầu ưa tôi sau một sớm một chiều.”
Anh ta ngừng lại giây lát.
“Nhưng nếu sắp tới tôi và anh hợp tác thì chúng ta cũng phải bắt đầu từ đâu đó chứ, như cởi mở với nhau hơn một chút chẳng hạn.”
“Cởi mở?”
“Đúng vậy. Nghe có khó tin quá không?”
“Một chút.”
Tom Waaler mỉm cười. “Cũng phải, nhưng anh có thể bắt đầu trước. Hãy hỏi tôi bất cứ điều gì anh muốn biết về tôi.”
“Biết ư?”
“Đúng thế. Hỏi gì cũng được.”
“Có phải chính anh đã bắn…?” Harry im bặt. “Được rồi,” anh nói. “Tôi muốn biết động cơ của anh là gì.”
“Ý anh là sao?”
“Điều gì thôi thúc anh thức dậy hằng sáng và làm những việc anh vẫn làm. Anh theo đuổi điều gì và tại sao.”
“Tôi hiểu rồi.”
Tom ngẫm nghĩ về điều đó. Một hồi lâu. Sau đó anh ta chỉ tay về phía những chiếc cần trục.
“Anh có trông thấy những thứ kia không? Cụ tôi đã nhập cư từ Scotland sang đây cùng sáu con cừu giống Sutherland và một lá thư do hội thợ hồ ở Aberdeen gửi cho. Cụ ấy đã góp sức xây dựng nên những ngôi nhà mà anh vẫn thấy bên bờ sông Akerselva và dọc theo đường ray xe lửa về phía Đông. Sau này các con cháu cũng theo nghề của cụ, cho tới đời bố tôi. Ông tôi đã đổi họ sang họ của người Na Uy, nhưng khi chúng tôi chuyển nhà đến khu Tây Oslo, bố tối lại lấy theo họ cũ. Waaler. Nghĩa là bức tường. Cái họ ấy ít nhiều cũng chứa đựng niềm tự hào, nhưng chủ yếu bố tôi nghĩ rằng họ Andersen nghe quá đỗi bình thường đối với một thẩm phán tương lai.”
Harry quan sát Waaler. Anh cố tìm kiếm vết sẹo trên cằm anh ta.
“Vậy ra anh đã được dạy dỗ để trở thành thẩm phán?”
“Đó là mục tiêu ban đầu khi tôi quyết định theo ngành luật. Và có thể tôi vẫn sẽ tiếp tục con đường đó nếu không vì chuyện đã xảy ra.”
“Chuyện gì?”
Waaler nhún vai.
“Bố tôi qua đời vì tai nạn trong lúc làm việc. Có một điều thật lạ là khi bố anh mất, đột nhiên anh sẽ hiểu ra rằng những lựa chọn anh đưa ra không phải chỉ là để thỏa mãn lợi ích của bản thân mà còn là vì ông ấy nữa. Ngay sau đó tôi cảm nhận được mình chẳng có điểm chung gì với những sinh viên luật khác. Tôi tự thấy mình khá giống một kẻ ngây thơ chạy theo mớ lý tưởng hão huyền. Tôi cứ nghĩ mục tiêu là giương cao ngọn cờ công lý, thúc đẩy sự tiến bộ của nền dân chủ hiện đại. Thế nhưng tôi phát hiện ra với phần đông những người khác, điều đó có nghĩa là tìm kiếm danh lợi và một công việc cho bản thân, đủ đánh bóng tên tuổi để ‘cua’ được cô nàng hàng xóm ở Ullern. Ừm, anh cũng đã từng học luật mà…”
Harry gật đầu.
“Có lẽ là do di truyền,” Waaler nói. “Nhưng tựu trung tôi vẫn luôn thích xây dựng nhiều thứ. Những thứ lớn lao. Ngay từ khi còn nhỏ. Tôi đã xây những cung điện khổng lồ bằng những miếng ghép Lego, hoành tráng hơn hết thảy công trình của những đứa trẻ khác. Trong giới luật, tôi nhận ra rằng cách nghĩ của tôi khác hẳn cách nghĩ thiển cận của toàn bộ những con người thiển cận kia. Hai tháng sau khi chôn cất bố, tôi nộp đơn xin vào Học viện Cảnh sát.”
“Ừm. Rồi tốt nghiệp thủ khoa, theo như lời dân tình đồn đại.
“Á khoa.”
“Và anh phải xây dựng lâu đài của mình ở đây, tại Sở Cảnh sát này?”
“Không hề phải. Trên đời làm gì có chuyện phải thế này hay thế khác, Harry ạ. Khi còn nhỏ, tôi đã giành những miếng ghép Lego của các bạn để xây nhà thật to cho mình. Vấn đề chỉ là anh muốn gì mà thôi. Anh muốn một ngôi nhà tủn mủn, bé mọn dành cho những mảnh đời tủn mủn, bé mọn, hay anh muốn những nhà hát opera và thánh đường, những công trình kỳ vĩ hướng về một thứ lớn lao hơn là chính bản thân anh, một thứ anh có thể nỗ lực phấn đấu vì nó?”
Waaler vuốt dọc theo tay vịn bằng thép.
“Xây thánh đường chính là một sứ mệnh thiêng liêng, Harry ạ. Ở Italy, thợ hồ thiệt mạng trong quá trình xây dựng nhà thờ từng được tôn vinh là kẻ tử vì đạo. Mặc dù người ta xây dựng thánh đường vì con người, thế nhưng trong lịch sử nhân loại, làm gì có thánh đường nào không được xây đắp từ xương máu của chính con người cơ chứ. Ông tôi từng nói như vậy đấy. Và điều đó sẽ mãi mãi không bao giờ thay đổi. Máu của gia đình tôi đã hòa cùng vôi vữa để xây nên nhiều tòa nhà mà anh có thể nhìn thấy được từ đây. Tôi chỉ muốn mang lại nhiều công bằng hơn thôi. Cho tất cả mọi người. Và tôi sẽ sử dụng đến những vật liệu xây dựng cần phải có.”
Harry chăm chú nhìn ánh lửa ở đầu điếu thuốc.
“Tôi cũng là một vật liệu xây dựng chứ gì?”
Waaler mỉm cười.
“Đó cũng là một cách nói. Nhưng câu trả lời là, đúng vậy. Nếu anh muốn. Tôi còn những lựa chọn khác nữa…”
Không cần anh ta phải nói hết câu, Harry cũng đã đoán ra phần còn lại: “… chứ anh thì không.”
Harry rít một hơi thuốc dài rồi trầm giọng hỏi, “Nếu tôi đồng ý gia nhập thì sao?”
Waaler nhướn một bên lông mày, nhìn Harry chằm chằm hồi lâu trước khi đáp.
“Anh sẽ được giao phó nhiệm vụ đầu tiên của mình, nhiệm vụ mà anh phải đích thân hoàn thành và không được có bất cứ thắc mắc nào. Tất cả những tiền bối của anh đều đã từng trải qua chuyện này. Để chứng tỏ lòng trung thành.”
“Và nhiệm vụ đó là gì?”
“Đến lúc thích hợp anh sẽ biết. Nhưng như thế nghĩa là anh sẽ phải đoạn tuyệt với quá khứ.”
“Phải chăng điều đó có nghĩa là tôi phải làm trái luật pháp của Na Uy?”
“Có thể.”
“A ha,” Harry nói. “Vậy ra mục đích là để các anh nắm được thóp tôi, để tôi không dám sinh lòng phản trắc với các anh.”
“Đáng ra tôi đã có thể chọn một cách diễn đạt khác, nhưng về cơ bản thì anh hiểu đúng rồi đấy.”
“Công việc mà chúng ta đang nói tới là gì? Buôn lậu à?”
“Hiện tại tôi chưa thể tiết lộ với anh được.”
“Sao anh dám đảm bảo tôi không phải gián điệp của Cục An ninh hay Cơ quan Điều tra Đặc biệt?”
Waaler rướn xa hơn nữa qua lan can và chỉ tay xuống phía dưới.
“Anh có thấy cô ta không, Harry?”
Harry bước tới lan can, và nhìn xuống công viên. Mọi người vẫn đang nằm dài trên bãi cỏ xanh mướt để tận hưởng những tia nắng cuối cùng.
“Cô ta mặc bikini màu vàng,” Waaler nói. “Màu đó khá đẹp đối với một bộ bikini, nhỉ?”
Dạ dày Harry quặn lên, anh lại đứng thẳng dậy.
“Bọn tôi đâu có ngu,” Waaller nói, vẫn không rời mắt khỏi bãi cỏ. “Bọn tôi theo dõi tất cả những người bọn tôi muốn chiêu mộ. Cô ta rất biết cách ăn mặc đấy. Khôn ngoan và độc lập, theo như những gì tôi thấy. Nhưng dĩ nhiên, cô ta muốn những điều mà bất kỳ người đàn bà nào ở địa vị ấy cũng mong muốn. Một người đàn ông đủ khả năng chăm lo cho cô ta. Đó đơn thuần là bản năng thôi. Mà anh thì làm gì còn nhiều thời gian. Đàn bà như cô ta không độc thân lâu đâu.”
Điếu thuốc của Harry rơi qua lan can, để lại những đốm lửa lấp lánh phía sau.
“Có một cảnh báo về cháy rừng được đưa ra đối với toàn vùng Østland hôm qua đấy,” Waaler nói.
Harry không đáp. Anh chỉ rùng mình khi cảm thấy bàn tay Waaler đặt lên vai mình.
“Đúng ra mà nói thì hạn chót đã qua rồi, Harry ạ. Nhưng để bày tỏ thiện chí của bọn tôi, tôi sẽ cho anh thêm hai ngày. Nếu sau thời hạn đó mà tôi không nhận được tin gì thì lời đề nghị sẽ bị hủy bỏ.”
Harry khó nhọc nuốt khan, cố gắng cất lời nhưng lưỡi anh không chịu tuân theo, tuyến nước bọt của anh chẳng khác nào lòng sông khô cạn ở châu Phi.
Cuối cùng, khó khăn lắm anh mới đáp được một câu.
“Cảm ơn.”
Beate Lønn là người yêu công việc. Cô thích những quy trình quen thuộc, thích sự an toàn, hiểu được khả năng của bản thân, và cô biết những đồng nghiệp của cô ở Viện Pháp y tọa lạc tại số 21A phố Kjølberggata cũng biết điều đó. Bởi công việc là điều duy nhất trong đời quan trọng đối với cô, cho cô đủ lý do để thức dậy hằng sáng. Tất cả những thứ khác chỉ giống như những khúc gian tấu mà thôi. Cô sống cùng mẹ đẻ tại căn nhà ở Oppsal, toàn bộ tầng trên cùng chỉ có mình cô ở. Hai mẹ con cực kỳ hợp nhau. Cô là con gái rượu của bố cô hồi ông vẫn còn sống, và cô nghĩ có lẽ vì thế mà cô chọn theo ngành cảnh sát, giống ông. Cô chẳng có sở thích nào cả. Dù cô và Halvorsen, sĩ quan làm cùng phòng với Harry, gần như là một đôi, song cô không tin tưởng lắm vào chuyện này. Cuốn tạp chí phụ nữ cô từng đọc có nói rằng kiểu cảm giác ngờ vực ấy là bình thường, và rằng chúng ta nên chấp nhận mạo hiểm. Nhưng Beate không thích mạo hiểm. Hay sống trong nỗi ngờ vực. Chính vì vậy cô mới yêu công việc của mình.
Hồi mới lớn, cô luôn đỏ mặt trước ý nghĩ có lẽ ai đó đang nghĩ đến mình và phần lớn thời gian cô đều tìm cách để trốn tránh. Đến giờ cô vẫn hay đỏ mặt, nhưng cô đã tìm được những chỗ tốt để trốn. Cô có thể ngồi hàng giờ giữa bốn bức tường gạch đỏ cũ kỹ của Viện Pháp y nghiên cứu những dấu vân tay, báo cáo đạn đạo, xem băng ghi hình, so sánh giọng nói, phân tích ADN hoặc những sợi vải, dấu chân, vết máu cùng vô vàn manh mối chuyên môn có thể giúp phá giải những vụ án quan trọng, phức tạp và gây nhiều tranh cãi, tất cả đều diễn ra trong không gian yên bình, tĩnh lặng tuyệt đối này. Cô còn phát hiện ra rằng công việc thực ra không nguy hiểm như vẻ bề ngoài của nó. Chỉ cần cô phát biểu thật dõng dạc, rõ ràng và cố gắng khắc phục được nỗi sợ mình sẽ đỏ mặt, mất thể diện, trang phục có vấn đề hay trơ trọi đứng đó trong tủi hổ, vì lý do gì thì chính cô cũng chẳng biết. Phòng làm việc ở Kjølberggata giống như lâu đài của cô vậy, còn đồng phục và những công việc chuyên môn cô đảm đương chính là bộ áo giáp tinh thần.
Khi kim đồng hồ chỉ mười hai rưỡi sáng, điện thoại trên bàn làm việc của Beate đổ chuông trong lúc cô đang mải đọc báo cáo xét nghiệm ngón tay của Lisbeth Barli. Tim cô bắt đầu đập dồn vì sợ hãi khi cô thấy màn hình báo số máy gọi đến đã bị ẩn. Vậy thì chỉ có thể là anh ta.
“Beate Lønn nghe.”
Đúng là anh ta thật. Lời lẽ của anh ta tuôn ra như tên bắn.
“Tại sao cô không gọi điện báo cho tôi về những dấu vân tay?”
Cô nín thở một giây trước khi trả lời.
“Harry bảo sẽ chuyển lời đến anh.”
“Cảm ơn. Tôi đã nhận được rồi. Lần sau phải gọi cho tôi trước. Hiểu chưa?”
Beate nuốt khan. Cô không biết mình nên sợ hãi hay nổi giận nữa.
“Được.”
“Còn điều gì cô đã nói với hắn mà không nói với tôi không?”
“Không. Trừ việc tôi đã có kết quả xét nghiệm chất thu được dưới móng của ngón tay được gửi đến cho chúng ta qua đường bưu điện.”
“Của Lisbeth Barli phải không? Kết quả thế nào?”
“Phân.”
“Sao cơ?”
“Chất thải ấy.”
“Rất cảm ơn. Tôi biết nó là gì. Có biết nó từ đâu ra không?”
“Ờ, có.”
“Đính chính lại. Nó là của ai.”
“Tôi chưa dám chắc, nhưng tôi có thể đoán ra được.”
“Vậy nhờ cô…”
“Trong phân có lẫn máu, có thể là do bệnh trĩ. Trong trường hợp này, nhóm máu được xác định là nhóm B. Chỉ bảy phần trăm dân số cả nước có nhóm máu đó thôi. Wilhelm Barli đã đăng ký hiến máu tình nguyện. Ông ta…”
“Hiểu rồi. Và từ đó, cô rút ra kết luận gì?”
“Tôi không biết,” Beate đáp vội.
“Nhưng cô biết hậu môn là bộ phận nhạy cảm chứ, Beate? Với cả đàn ông lẫn đàn bà. Hay là cô quên rồi?”
Beate nhắm nghiền mắt. Làm ơn đừng để anh ta lại bắt đầu khơi chuyện. Đừng như thế nữa. Chuyện đã qua từ lâu, cô cũng đã bắt đầu quên và gạt nó ra khỏi tâm trí rồi. Nhưng giọng nói vẫn còn đó, vừa mượt mà lại vừa cứng cỏi, hệt như da rắn vậy.
“Cô giỏi đóng vai gái ngoan lắm, Beate. Tôi thích thế. Tôi thích cô giả vờ tỏ ra mình không muốn.”
Chuyện chỉ có anh biết, tôi biết, ngoài ra không còn ai khác nữa, cô nghĩ thầm.
“Halvorsen làm chuyện đó có giỏi như tôi không?”
“Tôi cúp máy đây,” Beate nói.
Tiếng cười khanh khách của anh ta dội vào tai cô. Lúc này cô đã hiểu ra. Chẳng có nơi nào để cô trốn tránh cả. Dù cô có đi đâu chúng cũng sẽ tìm được, giống như cái cách chúng tìm ra ba người phụ nữ ở nơi họ cảm thấy an toàn nhất. Không có lâu đài nào hết. Cũng chẳng có áo giáp nào cho cô.
Øystein đang ngồi trong xe tại điểm đỗ taxi trên phố Thereses nghe nhạc Rolling Stones thì điện thoại đổ chuông.
“Oslo Ta…”
“Chào Øystein. Harry đây. Trong xe lúc này có ai không?”
“Chỉ có Mick và Keith thôi.”
“Gì cơ?”
“Ban nhạc vĩ đại nhất thế giới ấy.”
“Øystein.”
“Sao?”
“Stones còn lâu mới là ban nhạc vĩ đại nhất thế giới. Ngay cả hạng nhì cũng không xứng. Có mà ban nhạc được tung hô quá đà nhất thế giới ấy. Hơn nữa, Wild Horses không phải là sáng tác của Keith hay Mick, mà là của Gram Parsons.”
“Dối trá, cậu cố tình chứ gì! Tôi cúp máy đây…”
“A lô? Øystein?”
“Nói câu gì tử tế cho tôi nghe đi. Mau lên.”
“Giai điệu của Under My Thumb không tệ. Exile On Main Street cũng có những đoạn khá ổn.”
“Thôi được. Cậu muốn gì?”
“Tôi cần giúp đỡ.”
“Ba giờ sáng rồi đấy. Giờ này đáng lẽ cậu phải ngủ rồi chứ?”
“Không ngủ được,” Harry nói. “Mỗi lần nhắm mắt là một lần hãi hùng.”
“Vẫn cơn ác mộng lúc trước à?”
“Lời thỉnh cầu của những thính giả từ địa ngục.”
“Vụ cái thang máy phải không?”
“Dù đã biết trước chính xác những gì sắp xảy ra, vậy mà lần nào tôi cũng sợ. Cậu mất tối đa bao lâu để đến được đây?”
“Tôi thấy tình hình này không ổn, Harry ạ.”
“Bao lâu thì tới?”
Øystein thở dài.
“Cho tôi sáu phút.”
Lúc Øystein đi cầu thang lên nhà thì Harry đã đứng chờ sẵn ở cửa, trên người mặc độc chiếc quần jean.
Hai người ngồi trong phòng khách, đèn cũng không buồn bật.
“Cậu có bia không?” Øystein bỏ chiếc mũ lưỡi trai màu đen có logo PlayStation ra và vuốt ngược mớ tóc mỏng đẫm mồ hôi ra sau.
Harry lắc đầu.
“Đây,” Øystein nói và đặt cái lọ đựng phim máy ảnh màu đen lên bàn.
“Cho cậu đấy. Flunipam. Đảm bảo ngủ mê mệt. Một viên là quá đủ.”
Harry nhìn chằm chằm cái lọ.
“Đó đâu phải lý do tôi gọi cậu đến, Øystein.”
“Không ư?”
“Không. Tôi muốn tìm hiểu cách phá giải mật mã. Cậu làm như thế nào.”
“Ý cậu là hack ấy hả?” Øystein ném cho Harry cái nhìn vẻ ngạc nhiên. “Cậu cần bẻ khóa mật khẩu à?”
“Theo một cách nào đó thì đúng. Cậu đã đọc những bài báo viết về kẻ giết người hàng loạt chưa? Tôi nghĩ hắn đang gửi mật mã cho cảnh sát.”
Harry bật đèn lên. “Cậu xem cái này đi.”
Øystein chăm chú nhìn tờ giấy Harry để trên bàn.
“Ngôi sao ư?”
“Ngôi sao năm cánh. Hắn đã để lại những hình này ở hai hiện trường án mạng. Một hình được khắc ở cột xà bên trên giường ngủ và hình kia được vẽ trên màn hình ti vi đầy bụi trong cửa hàng đối diện nơi xảy ra án mạng.”
Øystein nghiên cứu ngôi sao rồi gật đầu. “Và cậu nghĩ tôi có thể cho cậu biết ý nghĩa của nó?”
“Không phải thế.” Harry vùi đầu vào hai bàn tay. “Mà tôi hy vọng cậu có thể chỉ cho tôi một số nguyên tắc của việc giải mã.”
“Loại mã mà tôi từng phá giải là mã thuật toán, Harry ạ. Còn mật mã giao tiếp lại có ngữ nghĩa hoàn toàn khác. Chẳng hạn, đến giờ tôi vẫn chưa giải mã được ý nghĩa thực sự trong lời nói của phụ nữ.”
“Cứ tạm cho rằng đây là sự kết hợp của cả hai đi. Vừa là logic tường minh lại vừa mang nghĩa hàm ẩn.”
“Thôi được, vậy thì ta sẽ nói về mật mã. Những thông điệp ẩn. Để hiểu được nó, cậu cần phải có cả tư duy logic lẫn tư duy loại suy. Tư duy loại suy sẽ dựa trên trực giác và tiềm thức, hay nói cách khác là những điều cậu không nhận ra mình đã biết. Sau đó cậu kết hợp giữa tư duy tuyến tính với nhận diện quy luật. Cậu đã nghe nói đến Alan Turing bao giờ chưa?”
“Chưa.”
“Người Anh đấy. Ông ta đã phá được mật mã của quân Đức hồi chiến tranh. Tóm lại, ông ta đã đánh bại họ trong Thế Chiến II. Ông ta nói rằng để giải mã, đầu tiên chúng ta cần phải biết đối thủ đang lựa chọn nguyên lý mã hóa nào.”
“Nghĩa là sao?”
“Nói một cách ngắn gọn thì đó là mức độ vượt xa những con số và ký tự đơn thuần. Vượt xa cả giới hạn ngôn ngữ. Nó sẽ tiết lộ cho cậu biết nguyên nhân, chứ không phải cách thức. Cậu hiểu chứ?”
“Không hiểu, nhưng cứ nói cách làm của cậu đi.”
“Điều đó thì không ai biết cả. Nó gần giống khải tượng trong tôn giáo, kiểu như một khả năng thiên phú ấy.”
“Cứ giả sử tôi đã biết được nguyên nhân rồi. Thế sau đó thì sao?”
“Cậu có thể chọn phương pháp ‘cố quá’. Nghĩa là xem xét tất cả các khả năng, cho tới khi thành ‘quá cố’.”
“Người sắp thành quá cố không phải tôi. Tôi chỉ có thời gian cho phương pháp ‘cố vừa’ thôi.”
“Tôi chỉ biết mỗi một cách.”
“Cách gì?”
“Thôi miên ý thức.”
“Thôi miên ý thức, phải rồi.”
“Tôi không nói chơi đâu. Cậu cứ nhìn chằm chằm vào các dữ liệu có được cho tới khi tâm trí ngừng lại hết những suy nghĩ có ý thức. Nó cũng tương tự như việc cơ bắp vận động quá sức sẽ dẫn đến chuột rút và bắt đầu tự hoạt động theo cách riêng của nó. Cậu đã bao giờ chứng kiến trường hợp chân của người leo núi lên cơn co giật khi người đó mắc kẹt trên núi chưa? Chưa hả, ừm, nó giống như vậy đấy. Hồi năm 88 tôi đã xâm nhập vào rất nhiều tài khoản của ngân hàng Den Danske suốt bốn đêm, tất cả chỉ nhờ vài giọt LSD đông đá. Nếu tiềm thức của cậu xử được mật mã thì coi như xong. Còn nếu không…”
“Thì sao?”
Øystein bật cười. “Thì nó sẽ xử cậu chứ sao. Những thằng như tôi ở bệnh viện tâm thần có mà đầy.”
“Ừm. Thôi miên ý thức ư?”
“Thôi miên ý thức. Vận dụng trực giác. Cùng với sự trợ giúp nho nhỏ của dược phẩm…”
Harry cầm lấy cái lọ màu đen và giơ nó ra trước mặt.
“Cậu biết sao không, Øystein?”
“Sao?”
Anh tung cái lọ qua bàn và Øystein bắt lấy nó.
“Nhận xét vừa rồi của tôi về Under My Thumb là nói dối đấy.”
Øystein đặt cái lọ lên sát mép bàn rồi thắt dây đôi giày thể thao Puma cũ nát hiếm thấy, được tậu từ rất lâu trước khi phong cách thời trang retro lên ngôi.
“Tôi biết. Dạo này cậu có gặp Rakel không?”
Harry lắc đầu.
“Đấy mới là điều khiến cậu phiền lòng đúng không?”
“Có thể,” Harry đáp. “Tôi vừa nhận được một lời mời làm việc. Chẳng biết tôi có thể từ chối được không.”
“Ờ, lời mời mà cậu đang nói tới chắc không đến từ lão sếp của tôi rồi.”
Harry mỉm cười.
“Rất tiếc, tôi không phải đối tượng phù hợp để cậu xin lời khuyên trong công việc,” Øystein nói rồi đứng dậy. “Tôi sẽ để cái lọ ở đây. Cậu muốn làm gì với nó thì tùy.”