CHƯƠNG 21 Thứ Năm
PYGMALION
Trưởng nhóm phục vụ bàn nhìn vị khách từ đầu tới chân bằng cặp mắt dò xét. Kinh nghiệm ba mươi năm trong nghề đã đem lại cho ông ta một cái mũi có tài đánh hơi được rắc rối, mà gã này thì “bốc mùi” từ tận xa tít tắp. Không phải rắc rối nào cũng tệ. Thỉnh thoảng, một chút scandal hay ho lại là điều được các vị khách ở Theatre Café, nhà hàng phong cách Vienna, mong đợi. Nhưng rắc rối cũng phải đúng kiểu mới được, chẳng hạn như khi đám nghệ sĩ trẻ tuổi đầy tham vọng kéo nhau lên sân khấu của Theatre Café ông ổng hát rằng họ là những ngôi sao đang chờ được tỏa sáng, hay một gã diễn viên đóng vai chính hết thời của Nhà hát Quốc gia say xỉn mạnh miệng tuyên bố điều tử tế duy nhất gã có thể nói về vị chuyên gia tài chính nổi tiếng đang ngồi ở bàn bên cạnh là ông ta bị “gay” nên không thể nào đẻ được con nối dõi. Nhưng còn cái người đang đứng trước mặt trưởng nhóm phục vụ bàn lúc này xem chừng chẳng thể phát ngôn được câu gì dí dỏm hay độc đáo, diện mạo của gã cho thấy gã thiên về kiểu rắc rối chán ngắt: quịt tiền, say xỉn và ẩu đả. Những dấu hiệu bên ngoài - quần jean đen, mũi đỏ, tóc húi cua - khiến ông ta đoán gã là một trong mấy tay nhân viên hậu trường sân khấu suốt ngày say xỉn và nơi dành cho gã là tầng hầm ở quán Burns mới phải. Nhưng khi gã bảo muốn nói chuyện với Wilhelm Barli, ông ta biết chắc gã phải cùng một giuộc với đám cặn bã ở Tostrupkjelleren, quán rượu dành cho đám ký giả, nằm bên dưới nhà hàng ngoài trời có cái tên không thể hợp hơn: Loo Lid. Ông ta chẳng có chút tôn trọng nào đối với lũ kền kền tranh nhau xâu xé những gì còn lại của Barli đáng thương sau thảm án mất tích của cô vợ xinh đẹp.
“Anh có chắc vị khách anh cần tìm đang có mặt ở đây không?” trưởng nhóm phục vụ bàn hỏi, dò tìm trong sổ đặt chỗ dù biết thừa Barli đã đến nhà hàng vào lúc mười giờ đúng, như thường lệ, và ngồi ở bàn quen ngoài hàng hiên mái kính trông ra phố Stortingsgata. Tuy nhiên có một điều hơi lạ - khiến người trưởng nhóm phục vụ bàn có chút lo lắng cho tình trạng sức khỏe tinh thần của Barli - đó là nhà sản xuất tính tình vui vẻ kia đã nhầm ngày và đến đây vào thứ Năm thay vì thứ Tư như mọi khi.
“Thôi không cần. Tôi trông thấy ông ta rồi,” gã đàn ông trước mặt ông ta nói, và sau đó rời đi.
Harry nhận ra Wilhelm Barli nhờ mái tóc bờm xờm, nhưng khi lại gần hơn, anh bỗng băn khoăn không biết mình có nhìn lầm không.
“Ông Barli phải không?”
“Harry!”
Hai mắt Wilhelm bừng sáng rồi ánh sáng đó nhanh chóng tắt lịm. Hai má ông ta hóp vào, làn da rám nắng khỏe khoắn mấy ngày trước giờ đang được phủ lên một lớp phấn trắng vô hồn. Wilhelm Barli dường như hốc hác đi vài phần, ngay cả đôi vai rộng là thế cũng có vẻ bé lại.
“Anh dùng món cá trích nhé?” Wilhelm trỏ vào chiếc bàn trước mặt. “Đặc sản số một Oslo đây. Thứ Tư nào tôi cũng ăn. Nghe nói tốt cho tim. Đấy là nếu anh có một trái tim, chứ những người đến nhà hàng này…” Wilhelm dang tay ra hiệu về phía căn phòng gần như không một bóng người.
“Thôi, cảm ơn ông,” Harry nói và ngồi xuống.
“Thế thì ăn miếng bánh mì vậy.” Wilhelm chìa giỏ bánh mì ra. “Cả Na Uy chỉ mỗi nơi này có món bánh mì tiểu hồi đích thực còn nguyên hạt tiểu hồi bên trong thôi. Ăn cùng cá trích thì hết ý.”
“Cảm ơn, tôi chỉ uống cà phê thôi.”
Wilhelm ra hiệu cho người phục vụ.
“Sao anh biết tôi ở đây mà tìm?”
“Tôi ghé qua nhà hát.”
“Ồ? Tôi đã dặn họ có ai hỏi thì bảo tôi rời thành phố rồi mà. Đám nhà báo…”
Wilhelm làm động tác bóp cổ. Harry không hiểu ông ta đang minh họa cho tình cảnh của bản thân hay đó là việc ông ta muốn làm với đám nhà báo.
“Tôi trình thẻ cảnh sát và nói là có chuyện quan trọng,” Harry nói.
“Tốt. Tốt.”
Sự chú ý của Wilhelm đang lạc trôi đâu đó trước mặt Harry thì người phục vụ mang đến cho họ cái cốc thứ hai và rót cà phê trong chiếc bình đã đặt sẵn trên bàn ra. Sau khi người phục vụ rời đi, Harry đằng hắng một tiếng. Wilhelm giật mình và tập trung trở lại.
“Nếu anh có tin xấu thì làm ơn cho tôi biết luôn đi, Harry.”
Harry vừa nhấp một ngụm cà phê vừa lắc đầu.
Wilhelm nhắm mắt lại, miệng lẩm bẩm điều gì không nghe rõ.
“Tình hình vở kịch thế nào rồi?” Harry hỏi.
Wilhelm mỉm cười yếu ớt.
“Hôm qua, một phụ nữ phụ trách chuyên mục văn hóa của tờ Dagbladet đã gọi điện đến hỏi một câu y hệt. Tôi đã giải thích cho cô ta khía cạnh nghệ thuật sẽ diễn ra như thế nào, nhưng hóa ra điều cô ta thực sự muốn biết là liệu những ồn ào xung quanh vụ mất tích bí ẩn của Lisbeth và việc chị gái cô ấy ra tay cứu nguy có giúp bán được nhiều vé không.”
Ông ta đảo tròn mắt.
“Ừm,” Harry nói, “vậy có không?”
“Anh điên à, anh bạn?”
Giọng Wilhelm oang oang như báo trước điềm gở.
“Giờ đang là mùa hè. Người ta muốn ăn chơi nhảy múa, chứ ai muốn đau buồn thương tiếc một người đàn bà nào đó mà thậm chí họ còn không quen biết. Chúng tôi đã mất đi nhân tố quan trọng nhất để thu hút khán giả: Lisbeth Barli, viên ngọc quý chưa được khai phá của dòng nhạc đồng quê. Đánh mất cô ấy ngay trước đêm mở màn thì tốt cho việc làm ăn ở chỗ nào ! ”
Vài người ngồi ở những bàn bên trong quay ra nhìn, nhưng Wilhelm vẫn oang oang nói tiếp.
“Chúng tôi hầu như không bán được vé nào. Ừm, ngoại trừ đêm mở màn - vé hôm đó thì lại bán chạy như tôm tươi. Dân tình thích hóng những chuyện máu me, họ có thể đánh hơi thấy mùi scandal. Nói chung, lần này chúng tôi hoàn toàn chỉ dựa vào những lời bình luận có cánh để xoay chuyển tình thế. Nhưng lúc này đây…”
Wilhelm nện nắm đấm lên mặt bàn trải khăn trắng, khiến bình cà phê nẩy lên.
“… tôi không biết còn việc gì kém quan trọng hơn chuyện làm ăn chết tiệt!”
Wilhelm nhìn Harry chằm chằm. Tất cả những dấu hiệu đó đang cho thấy cơn kích động vẫn còn chưa nguôi thì chẳng hề báo trước, một bàn tay vô hình xuất hiện xóa sạch vẻ phẫn nộ trên khuôn mặt ông ta. Ông ta ngẩn người trong giây lát, cứ như thể không biết mình đang ở đâu. Sau đó mặt ông ta nhăn lại và vội vàng đưa hai tay lên che nó đi. Harry nhận thấy người trưởng nhóm phục vụ bàn đang nhìn về phía họ bằng ánh mắt lạ lẫm, đầy trông đợi.
“Xin lỗi anh,” Wilhelm lẩm bẩm đằng sau những ngón tay. “Mọi khi tôi đâu có… Tôi không thể ngủ được… Ôi, chết tiệt, sao tôi lại phản ứng thái quá thế này!”
Ông ta nấc lên, âm thanh nghe như tiếng cười xen lẫn tiếng khóc, ông ta lại giơ tay đập bàn lần nữa và nhăn mặt, nhưng biểu cảm ấy đã được chuyển thành nụ cười khẩy có phần tuyệt vọng.
“Tôi có thể giúp gì được anh, Harry? Trông anh khổ sở quá.”
“Khổ sở?”
“Buồn bã. U sầu. Ảm đạm.”
Wilhelm nhún vai, xiên một dĩa đầy thịt cá trích và bánh mì cho vào miệng. Lớp da cá óng ánh. Người phục vụ bước đến bên bàn không một tiếng động và rót rượu Chatelain Sancerre vào ly của Wilhelm.
“Tôi buộc phải hỏi ông một chuyện riêng tư mà có lẽ là không mấy dễ chịu,” Harry nói.
Wilhelm vừa lắc đầu vừa chiêu thức ăn bằng một ngụm rượu.
“Càng riêng tư lại càng ít khó chịu, Harry ạ. Anh đừng quên tôi là một nghệ sĩ.”
“Thôi được.”
Harry nhấp một ngụm cà phê nữa để chuẩn bị tinh thần.
“Chúng tôi đã tìm thấy dấu vết của phân và máu dưới móng tay của Lisbeth. Phân tích ban đầu cho thấy nhóm máu đó trùng với nhóm máu của ông. Tôi muốn hỏi xem liệu chúng tôi có cần làm thêm xét nghiệm ADN nữa không.”
Wilhelm ngừng nhai, đặt ngón trỏ bàn tay phải lên môi và trầm ngâm nhìn xa xăm.
“Không,” ông ta nói. “Khỏi cần xét nghiệm cho mất công.”
“Vậy là ngón tay bà nhà có tiếp xúc với… chất thải của ông.”
“Chúng tôi đã làm tình vào đêm trước khi cô ấy mất tích. Đêm nào cũng vậy. Thậm chí chúng tôi làm tình cả ban ngày nếu như trong nhà không quá nóng.”
“Và rồi…?”
“Có phải anh đang muốn hỏi chúng tôi có quan hệ bằng tay qua đường hậu môn không?”
“Hả…?”
“Cô ấy có làm thế với tôi không ư? Bất cứ khi nào có thể. Nhưng rất cẩn thận. Cũng như sáu mươi phần trăm đàn ông Na Uy ở tuổi này của tôi thôi, tôi bị bệnh trĩ. Chính vì vậy Lisbeth chẳng bao giờ để móng tay quá dài. Anh có quan hệ theo cách này không, Harry?”
Harry đang nhâm nhi cà phê thì bị sặc.
“Với chính bản thân anh hay với người khác?” Wilhelm hỏi, “Anh nên làm thế. Nhất là với tư cách một người đàn ông. Việc đó sẽ chạm tới những điều cực kỳ cốt yếu. Nếu dám thử, anh sẽ phát hiện ra mình có ngưỡng cảm xúc lớn hơn nhiều so với anh tưởng tượng. Nếu siết lại, anh sẽ tự cách ly bản thân khỏi những người xung quanh. Nhưng khi mở rộng ra, khiến mình dễ bị tổn thương và cho thấy sự tin tưởng của anh, thì theo nghĩa đen là anh đã trao cho người khác cơ hội bước vào bên trong mình.”
Wilhelm đang vung vẩy cái dĩa cầm trên tay.
“Dĩ nhiên, việc đó luôn đi kèm với rủi ro. Họ có thể hủy hoại anh, xé anh ra từng mảnh từ bên trong. Nhưng họ cũng có thể trao cho anh tình yêu. Và rồi anh siết chặt lấy hết thảy thứ tình yêu của họ, Harry à. Nó là của anh. Người ta vẫn bảo đàn ông chiếm hữu thể xác của đàn bà trong lúc ân ái, nhưng có thật vậy không? Ai chiếm hữu ai? Anh cứ nghĩ đi, Harry.”
Harry trầm ngâm nghĩ ngợi.
“Nghệ sĩ cũng vậy thôi. Chúng tôi phải mở lòng, khiến mình dễ bị tổn thương, cho họ bước vào thế giới của chúng tôi. Để có cơ hội được yêu thương, chúng tôi phải chấp nhận nguy cơ bị hủy hoại từ bên trong. Việc đó chẳng khác nào môn thể thao mạo hiểm thật sự, Harry ạ. Tôi lấy làm mừng vì đã bỏ nghề vũ công đấy.”
Khi Wilhelm mỉm cười, hai giọt lệ thi nhau lăn dài - lần lượt từng bên mắt - thành hai hàng song song và ngoằn ngoèo trên má rồi mất hút trong bộ râu.
“Tôi nhớ cô ấy, Harry à.”
Harry dán mắt vào tấm khăn trải bàn. Anh thầm nghĩ có nên đứng dậy ra về lúc này không, nhưng rồi vẫn ở lại.
Wilhelm rút khăn mùi soa, hỉ mũi một tiếng to như tiếng kèn đồng, sau đó rót nốt chỗ rượu trong chai vào ly mình.
“Tôi không có ý can dự vào việc của anh, Harry, nhưng lúc tôi nói nhìn anh có vẻ khổ sở, tôi nhận ra rằng trông anh lúc nào cũng thế. Có phải vì một người phụ nữ không?”
Harry mân mê cốc cà phê.
“Hay là vài người?”
Harry định đáp một câu để ông ta không thắc mắc thêm nữa, nhưng không hiểu sao anh lại đổi ý. Anh gật đầu.
Wilhelm nâng ly lên.
“Luôn là phụ nữ. Anh có nhận thấy thế không? Anh đã để mất ai?”
Harry nhìn Wilhelm. Trên khuôn mặt râu ria xồm xoàm của nhà sản xuất kia có điều gì đó đặc biệt, vẻ chân thật đến đau lòng, sự cởi mở không chút giấu giếm anh có thể nhận ra và là thứ mách bảo anh rằng anh có thể tin tưởng ở ông ta.
“Mẹ tôi lâm bệnh và qua đời khi tôi còn nhỏ,” Harry nói.
“Và anh nhớ bà ấy phải không?”
“Phải.”
“Nhưng vẫn còn vài người khác nữa, đúng chứ?”
Vai Harry thõng xuống.
“Sáu tháng trước, một nữ đồng nghiệp của tôi bị sát hại. Rakel bạn gái tôi…”
Harry bỗng ngừng lời.
“Cô ấy thì sao?”
“Chuyện này kể ra có ích gì đâu chứ.”
“Tôi nghĩ chúng ta phải tìm hiểu tướng tận gốc rễ của vấn đề,” Wilhelm thở dài. “Anh và cô ấy sắp mỗi người một ngả.”
“Không phải. Chỉ có cô ấy thôi. Tôi đang cố thuyết phục cô ấy thay đổi quyết định.”
“A ha. Mà sao cô ấy lại muốn chia tay?”
“Vì tính cách của tôi. Chuyện dài lắm, nhưng nói ngắn gọn thì tôi chính là vấn đề. Và cô ấy muốn tôi trở thành con người khác.”
“Anh biết sao không? Tôi có ý này. Hãy đưa cô ấy tới xem chúng tôi diễn kịch.”
“Để làm gì?”
“Vì My Fair Lady được viết dựa trên câu chuyện trong thần thoại Hy Lạp về nhà điêu khắc Pygmalion, ông ta đã phải lòng một trong những tác phẩm của mình, bức tượng nàng Galatea xinh đẹp. Ông ta cầu xin thần Vệ Nữ biến bức tượng đó thành người để ông ta có thể cưới làm vợ, và lời cầu nguyện của ông ta được đáp ứng. Biết đâu vở kịch sẽ cho Rakel thấy điều gì có thể xảy ra khi ta cố thay đổi một người.”
“Mọi chuyện trở nên tệ hại à?”
“Ngược lại là khác. Pygmalion, hay ở đây là giáo sư Higgins, đã được thỏa mãn tâm nguyện trong vở My Fair Lady. Tôi chỉ chọn những vở kịch có cái kết hạnh phúc thôi. Đó là phương châm sống của tôi. Nếu không có cái kết hạnh phúc thì tôi sẽ tự mình viết nên nó.”
Harry lắc đầu, nở nụ cười nửa miệng.
“Rakel không cố thay đổi tôi. Cô ấy là người phụ nữ thông minh, nên thay vì làm thế, cô ấy sẽ lựa chọn lối đi riêng.”
“Có điều gì đó khiến tôi nghĩ rằng cô ấy muốn quay lại với anh. Tôi sẽ gửi tặng anh hai vé vào hôm mở màn.”
Wilhelm ra hiệu cho người phục vụ mang hóa đơn tới.
“Dựa vào cái quái gì mà ông nghĩ cô ấy muốn quay lại với tôi chứ?” Harry hỏi. “Ông có biết gì về cô ấy đâu.”
“Anh nói đúng. Những điều tôi nói đều là nhảm nhí. Dùng rượu vang trắng trong bữa xế là ý kiến hay, nhưng chỉ trên lý thuyết. Lúc này tôi uống nhiều quá rồi. Xin lỗi anh.”
Người phục vụ xuất hiện cùng tờ hóa đơn. Wilhelm ký luôn mà chẳng cần nhìn và bảo anh ta cất chung với những hóa đơn trước. Sau đó người phục vụ rời đi.
“Nhưng dù sao, mời một phụ nữ đi xem kịch vào hôm công diễn cùng tấm vé hạng nhất không bao giờ là ý tưởng tệ hại.” Wilhelm mỉm cười. “Tin tôi đi, tôi đã kiểm nghiệm kỹ rồi.”
Nụ cười của ông ta khiến Harry nhớ đến nụ cười buồn bã, cam chịu của bố anh, nụ cười khi người đàn ông hồi tưởng về quá khứ, vì đó là khoảng thời gian chất chứa những kỷ niệm khiến anh ta mỉm cười.
“Cảm ơn ông rất nhiều, nhưng…”
“Không nhưng nhị gì cả. Dù có được hay không thì ít nhất nó cũng là cái cớ để anh gọi điện cho cô ấy nếu hai người đang tạm thời cắt đứt liên lạc. Để tôi gửi vé cho anh, Harry. Tôi nghĩ Lisbeth cũng sẽ muốn thế. Và Toya đã tiến bộ hơn rồi. Đó sẽ là một tác phẩm hay mà.”
Harry mân mê tấm khăn trải bàn.
“Cho tôi suy nghĩ đã.”
“Tuyệt. Tôi sẽ đi thu xếp công việc rồi đánh một giấc.” Wilhelm đứng dậy.
“Nhân tiện.” Harry thọc tay vào trong túi áo khoác. “Chúng tôi tìm thấy biểu tượng này ở gần hiện trường hai vụ án khác. Nó được gọi là ngôi sao của quỷ. Liệu ông có nhớ ra được là mình từng trông thấy nó ở đâu đó sau khi Lisbeth mất tích không?”
Wilhelm nhìn thật kỹ bức ảnh.
“Tôi không thể nói mình từng thấy nó rồi, không.”
Harry chìa tay ra xin lại tấm ảnh.
“Khoan đã.” Wilhelm vừa nhìn lại lần nữa vừa gãi râu.
Harry chờ đợi.
“Tôi từng trông thấy rồi,” ông ta nói. “Nhưng ở đâu mới được chú?”
“Trong căn hộ? Ở cầu thang? Dưới phố?”
Wilhelm lắc đầu.
“Không phải những nơi đó. Và cũng không phải mới đây. Mà là một nơi nào đó khác, khá lâu rồi. Nhưng ở đâu nhỉ? Việc này có quan trọng không?”
“Cũng có thể. Nếu ông nhớ ra được bất cứ điều gì thì gọi cho tôi nhé.”
Sau khi chia tay Wilhelm, Harry đứng nhìn chằm chằm lên phố Drammensveien, nơi mặt trời đang tỏa nắng trên những đường ray tàu điện, luồng khí nóng rung rinh bốc lên khiến anh tưởng như đoàn tàu đang bồng bềnh trôi xa dần.