CHƯƠNG 22 Thứ Năm và thứ Sáu
PHÁT HIỆN
Jim Beam được làm từ hắc mạch, đại mạch, ngoài ra còn chứa đến bảy mươi lăm phần trăm là ngô - thứ nguyên liệu mang lại cho loại rượu bourbon này vị ngọt và cân bằng hoàn hảo, khác hẳn với whisky nguyên chất. Nước để sản xuất Jim Beam được lấy từ nguồn nước gần nhà máy sản xuất rượu ở Clearmont, bang Kentucky, đây cũng là nơi làm ra loại men đặc biệt được một số người cho là nguyên liệu có trong công thức pha chế Jacob Beam sử dụng từ năm 1795. Thành quả sau đó được ủ trong ít nhất bốn năm trước khi được vận chuyển đi khắp nơi trên thế giới và đến tay Harry Hole, người cóc thèm quan tâm đến Jacob Beam cũng như biết rằng những lời tuyên bố xàm xí về nguồn nước kia chỉ là chiêu trò marketing nhằm cạnh tranh với Farris, nước khoáng của Na Uy, và nguồn khoáng Farris. Tỷ lệ phần trăm duy nhất anh quan tâm là mấy con chữ nho nhỏ in trên nhãn chai.
Harry đứng trước tủ lạnh, tay cầm một con dao găm, mắt nhìn chằm chằm cái chai chứa chất lỏng màu vàng nâu. Không một mảnh vải che thân. Cái nóng trong phòng ngủ buộc anh phải cởi bỏ cả quần trong, cái quần vẫn còn ẩm và bốc mùi clo.
Anh đã cai rượu được bốn hôm rồi. Giai đoạn khó khăn nhất đã qua, anh tự nhủ như thế. Nhưng điều đó không đúng, giai đoạn ấy còn lâu mới qua. Có lần Aune đã hỏi rằng anh nghĩ lý do mình uống rượu là gì. Harry đáp không chút do dự, “Vì tôi khát.” Theo nhiều cách khác nhau, anh thường ca thán về thực tế rằng mình đang sống trong một cái xã hội tập trung vào cái hại hơn là cái lợi của uống rượu. Những lý do để anh giữ cho mình tỉnh táo chưa bao giờ liên quan đến nguyên tắc đạo đức, mà chỉ phụ thuộc vào thực tế. Thật sự rất mệt mỏi khi là kẻ nghiện rượu nặng để rồi kết quả nhận được chính là một cuộc đời ngắn ngủi khổ sở, đầy rẫy chán chường và đau đớn về thể chất. Trong mắt đám bợm rượu, cuộc đời chỉ xoay quanh hai thứ là say và khoảng nghỉ giữa những cơn say. Đâu mới là cuộc sống thực, đó là câu hỏi triết lý mà anh chưa bao giờ có đủ thời gian để nghiền ngẫm, bởi vì dù câu trả lời có thế nào thì cũng chẳng thể khiến cuộc đời anh trở nên tốt đẹp hơn. Hoặc tồi tệ hơn. Luật đời cơ bản của bợm rượu - bộ luật có tên Cơn khát Lớn - cho rằng tất cả những thứ tốt đẹp sớm muộn gì cũng tan biến mà thôi. Đó chính là cách anh nhìn nhận phương trình cho tới ngày anh gặp Rakel và Oleg. Nó đã mang tới cho những khoảng thời gian xa rượu một ý nghĩa hoàn toàn mới, nhưng không hề đi ngược lại bộ luật của bợm rượu. Và giờ đây, anh không thể tiếp tục chịu đựng những cơn ác mộng thêm được nữa. Không thể chịu đựng được những tiếng la hét của con bé. Cũng chẳng thể chịu nổi khi phải chứng kiến vẻ hãi hùng trong cặp mắt trợn tròn vô hồn kia trong lúc đầu con bé từ từ nâng dần lên phía trần thang máy. Tay anh vươn về phía chiếc tủ. Anh phải thử mọi cách có thể. Anh đặt con dao găm bên cạnh chai Jim Beam và đóng cửa tủ lại. Sau đó anh quay về phòng ngủ.
Anh không bật đèn, một vạt ánh trăng lọt qua khe hở giữa những tấm rèm.
Mấy cái gối và tấm đệm trông như đang cố tìm cách tống khứ lớp ga phủ giường dính dớp, nhăn nhúm kia.
Anh trèo lên giường. Lần gần nhất anh ngủ mà không gặp ác mộng là khi thiếp đi vài phút trên chiếc giường của Camilla Loen. Lúc ấy anh cũng mơ thấy sự chết chóc, nhưng khác ở chỗ là anh không cảm thấy sợ. Người ta có thể tự cách ly bản thân, nhưng vẫn cần phải ngủ. Mà trong giấc ngủ, thì không ai có thể trốn tránh được.
Harry nhắm mắt lại.
Những tấm rèm lay động, khiến vạt ánh trăng rung rinh. Nó rọi lên bức tường phía trên đầu giường và những vết dao khắc đen sì. Chỉ có dùng một lực rất mạnh mới để lại vết khắc hằn sâu trên ván gỗ sau lớp giấy dán tường màu trắng đến như vậy. Vết khắc liền mạch tạo thành một hình ngôi sao năm cánh lớn.
Cô nằm đó, lắng nghe tiếng xe cộ đi lại trên phố Trojská ngoài cửa sổ và cả tiếng thở trầm trầm đều đặn của người đàn ông bên cạnh. Thỉnh thoảng cô ngỡ mình có thể nghe thấy những tiếng thét vọng đến từ vườn bách thú, nhưng cũng có thể chỉ là tiếng những đoàn tàu đêm hãm phanh trước khi vào ga chính bên kia sông. Anh nói mình thích những âm thanh khi tàu rời khỏi Troja, miền quê nằm ở đỉnh dấu chấm hỏi màu nâu mà dòng sông Vltava vẽ nên trên đường chảy qua Praha.
Trời đang đổ mưa.
Suốt cả ngày nay anh đi vắng. Anh bảo mình đến Brno. Phải tới khi cuối cùng cũng nghe thấy tiếng anh mở khóa cửa căn hộ, cô mới chịu yên lòng. Tiếp đến là tiếng sột soạt của va li đặt lên sàn hành lang trước khi anh đi vào phòng. Cô vờ như đang ngủ nhưng thực ra vẫn lén quan sát anh trong lúc anh chậm rãi và bình thản treo quần áo lên mắc, chốc chốc lại liếc về phía tấm gương bên cạnh tủ đồ để nhìn cô. Sau đó anh trèo lên giường, hai bàn tay anh lạnh buốt, mồ hôi khô đi để lại trên da một lớp dinh dính. Hai người làm tình trong tiếng mưa rì rào trên mái, anh nếm trải vị mặn mòi của muối rồi lập tức say giấc nồng. Thường thì sau những màn ân ái, cô cũng sẽ buồn ngủ, nhưng hôm nay cô vẫn nằm đó mắt chong chong, để cho chất dịch của anh chảy ra khỏi cơ thể của mình và thấm ướt ga giường.
Cô vờ như không biết điều gì đang khiến mình thao thức, dẫu tâm trí cô vẫn luôn hướng về một chuyện. Đó là sợi tóc vàng hơi dài cô tìm thấy trên ống tay áo vét của anh khi cô chải áo cho anh sau hôm anh từ Oslo về. Là việc anh sắp trở lại Oslo vào thứ Bảy. Đó là lần thứ tư trong vòng một tháng qua. Và rằng anh vẫn không chịu nói cho cô biết anh đến đó để làm gì. Tất nhiên, sợi tóc vàng kia có thể là của bất cứ ai, một người đàn ông hoặc thậm chí là lông của một chú chó.
Anh bắt đầu ngáy.
Cô hồi tưởng lại hồi họ mới quen nhau. Khuôn mặt anh toát lên vẻ cởi mở và sự tự tin phóng khoáng, những điều đã khiến cô lầm tưởng anh là một con người cởi mở. Anh đã khiến tim cô tan chảy như lớp tuyết mùa xuân ở quảng trường Václav, nhưng khi rơi vào lưới tình của đàn ông một cách quá ư dễ dàng, nỗi ngờ vực sẽ luôn gặm nhấm tâm can khiến người ta băn khoăn chắc không chỉ có mình mình phải lòng người đó nhanh đến vậy.
Tuy thế, anh luôn đối xử với cô bằng lòng tôn trọng, gần như là ngang hàng, dù anh có thể mua cô dễ dàng như mua bất cứ cô gái điếm nào ở Perlová. Anh là món quà quý giá mà ông trời ban tặng, người duy nhất từng thuộc về cô, người duy nhất cô có thể vuột mất. Chính vì tin chắc vào điều ấy nên cô luôn dè chừng, không dám hỏi anh đã đi đâu, thực tế đã làm gì, với ai.
Nhưng có chuyện gì đó đã xảy ra khiến cô cảm thấy cần phải biết anh có đáng tin hay không. Lúc này đây, cô còn một thứ khác quý giá hơn có thể vuột mất khỏi tay mình. Cô chưa nói bất cứ điều gì cho anh biết, chính cô cũng không dám chắc cho tới khi đi khám bác sĩ cách đây ba hôm.
Cô rời khỏi giường, nhón chân băng qua phòng. Thận trọng, cô ấn tay nắm cửa trong lúc canh chừng anh qua tấm gương trên bàn trang điểm. Rồi cô bước ra hành lang và lần nữa thận trọng đóng cửa lại sau lưng.
Chiếc va li màu xám chì, kiểu dáng hiện đại, có logo của hãng Samsonite. Trông thì gần như mới nhưng hai bên thân lại đầy vết xước, chi chít sticker xé của những cửa kiểm tra an ninh và tên những điểm đến cô chưa từng nghe nói tới.
Dưới ánh sáng tù mù, cô trông thấy mã số khóa đang là 0-0-0. Lúc nào cũng vậy. Và chẳng cần chạm vào cô cũng biết là va li không mở được. Cô chưa bao giờ thấy nó mở, trừ cái hôm cô nằm trên giường khi anh lấy quần áo trong ngăn kéo tủ ra và bỏ vào va li. Cô chỉ đơn thuần là vô tình nhìn thấy nó trong lần gần đây nhất anh xếp đồ mà thôi. May thay, mã số đó lại nằm ở mặt trong va li. Nào có khó khăn lắm khi phải ghi nhớ ba con số. Nhất là khi chúng ta buộc phải nhớ. Nào có gì khó khăn khi quên đi tất cả những thứ khác và ghi nhớ ba con số của một phòng khách sạn nào đó khi họ gọi cho cô những lúc khách yêu cầu cô phục vụ, nhắc cô phải mặc gì và những yêu cầu đặc biệt khác nếu có.
Cô lắng tai nghe. Tiếng ngáy vang lên trầm trầm như tiếng kéo cưa đằng sau cánh cửa. Có những việc mà anh không biết. Những việc anh không cần phải biết, những việc cô từng bắt buộc phải làm, nhưng tất cả giờ đã thuộc về quá khứ rồi. Cô đặt đầu ngón tay lên ba bánh răng có khía phía trên những con số và bắt đầu xoay. Tương lai từ nay về sau mới là điều quan trọng nhất.
Ổ khóa bật mở với một tiếng “cách” khẽ.
Cô cứ ngồi cúi mình ở đó, ngây ra nhìn.
Bên dưới ổ khóa, trên chiếc sơ mi trắng, là một vật bằng kim loại đen sì, xấu xí.
Không cần sờ vào cô cũng biết đó là súng thật. Cô đã từng trông thấy chúng trong quãng đời trước đây.
Cô nuốt khan và có thể cảm thấy những giọt lệ chực ứa ra. Cô ấn những ngón tay lên đôi mắt. Hai lần gọi thầm tên mẹ cô.
Tất cả chỉ diễn ra trong vòng vài giây.
Rồi cô hít một hơi dài để lấy lại bình tĩnh. Cô nhất định phải vượt qua chuyện này. Họ phải vượt qua chuyện này. Ít nhất thì giờ cô đã hiểu vì sao anh không thể nói cho cô biết nhiều điều về công việc anh làm, nhờ đâu mà anh có được nhiều tiền như thế. Và cô cũng đã từng nghĩ đến điều này rồi, phải không?
Cô đã quyết định xong.
Có những việc cô không biết. Những việc cô không cần phải biết.
Cô khóa va li, xoay những đĩa số trở về không. Cô dỏng tai nghe ngóng qua cánh cửa trước khi thận trọng mở nó ra và lẻn vào phòng. Một ô sáng hình chữ nhật rọi lên chiếc giường. Nếu nhìn qua gương một lần trước khi đóng cửa lại thì có lẽ cô đã thấy một bên mắt anh đang mở. Nhưng lúc ấy tâm trí cô còn đang rối bởi với muôn vàn ý nghĩ. Hay đúng hơn là một ý nghĩ luôn trở đi trở lại trong đầu cô khi cô nằm đó nghe tiếng xe cộ trên phố, những tiếng la hét vọng đến từ vườn bách thú và tiếng thở trầm trầm đều đặn của anh. Tương lai từ nay về sau mới là điều quan trọng nhất.
Có tiếng ai đó hét lên, tiếng chai thủy tinh vỡ vụn trên vỉa hè, sau đó là tiếng cười chói tai. Tiếng rủa sả và tiếng chân chạy huỳnh huỵch xa dần trên phố Sofies, hướng về phía sân vận động Bislett.
Harry đăm đăm nhìn lên trần nhà, lắng nghe những âm thanh từ bên ngoài vọng vào trong đêm vắng. Sau khi ngủ được một giấc dài ba tiếng không mộng mị, anh tỉnh dậy và bắt đầu suy nghĩ, về ba người phụ nữ, hai hiện trường gây án và một gã đàn ông đề nghị trả hậu hĩnh để đổi lấy linh hồn anh. Anh cố gắng tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Để phá được mật mã. Để thấy được quy luật. Để hiểu nguyên lý bao trùm quy luật đó như lời Øystein đã nói, một câu hỏi cần giải quyết trước khi tìm hiểu về cách thức. Đó là câu hỏi “tại sao”.
Tại sao một gã đàn ông lại đóng giả làm nhân viên giao nhận, giết hai người phụ nữ và có thể đã sát hại nạn nhân thứ ba? Tại sao hắn tự làm khó mình khi lựa chọn địa điểm gây án? Tại sao hắn để lại thông điệp? Những tên sát nhân hàng loạt điển hình trong quá khứ dường như đều giết người để thỏa mãn nhục dục, vậy tại sao Camilla Loen và Barbara Svendsen lại không có dấu hiệu bị xâm hại?
Harry cảm thấy con nhức đầu đang dần kéo đến. Anh đạp tấm vỏ chăn sang một bên và trở mình nằm nghiêng. Trên chiếc đồng hồ báo thức hiện lên mấy con số đỏ rực: hai giờ năm mươi mốt phút. Hai câu hỏi cuối cùng đang khiến anh băn khoăn chỉ xoay quanh bản thân anh. Tại sao cứ phải níu giữ tâm hồn mình một cách tuyệt vọng đến như vậy nếu như làm thế chỉ khiến tim mình tan vỡ? Và tại sao cứ phải nặng lòng với cái ngành căm ghét mình kia chứ?
Harry đặt chân xuống sàn rồi đi vào bếp, nhìn chằm chằm cánh cửa tủ đồ phía trên bồn rửa. Anh vặn vòi cho nước chảy lên đầy miệng cốc thủy tinh. Tiếp đó, anh mở ngăn kéo để dao dĩa thìa, cầm cái lọ màu đen lên, cạy mở cái nắp lọ màu xám và dốc thuốc ra lòng bàn tay. Một viên sẽ giúp anh ngủ ngon. Hai viên cùng một ly Jim Beam sẽ khiến anh hưng phấn. Ba viên hoặc hơn có thể mang lại hậu quả khôn lường.
Harry há to miệng, bỏ ba viên thuốc vào rồi chiêu cùng nước ấm.
Sau đó anh sang phòng khách, bật đĩa nhạc của Duke Ellington được anh mua về sau khi xem cảnh Gene Hackman ngồi trên chuyến xe buýt đêm trong bộ phim The Conversation, trên nền nhạc dương cầm có giai điệu phảng phất nỗi cô đơn đến tận cùng mà chưa bao giờ anh được nghe.
Anh ngồi xuống chiếc ghế tựa lưng cao.
“Tôi chỉ biết mỗi một cách,” Øystein đã nói với anh như thế.
Harry bắt đầu đi từ điểm xuất phát. Cái ngày anh lảo đảo lướt qua quán Underwater trên đường tới địa chỉ ở phố Ullevålsveien. Thứ Sáu. Sannergata. Thứ Tư. Carl Berner. Thứ Hai. Ba người phụ nữ. Ba ngón tay bị cắt cụt. Bàn tay trái. Đầu tiên là ngón trỏ, sau đó là ngón giữa, rồi đến ngón áp út. Ba địa điểm gây án. Nằm trong khu phố, không có những ngôi nhà biệt lập. Một tòa chung cư cũ kỹ được xây dựng vào cuối thế kỷ trước, một chung cư từ thập niên 1930, một tòa nhà văn phòng từ thập niên 1940. Thang máy. Anh có thể hình dung ra số tầng ở những cửa thang máy. Skarre đã trao đổi với vài công ty vận chuyển chuyên biệt ở Oslo và các quận thành kế cận. Họ không thu được thông tin gì liên quan đến xe đạp hay trang phục cua rơ màu vàng, nhưng thông qua hợp đồng giữa công ty bảo hiểm với các đơn vị cung cấp dịch vụ khẩn cấp, thì ít nhất họ cũng lọc ra được danh sách những đối tượng trong vòng sáu tháng qua đã mua các loại xe đạp đắt tiền mà công ty vận chuyển hay dùng.
Harry có thể cảm nhận được cảm giác tê liệt đang bắt đầu xuất hiện. Lớp vải bọc ghế bằng len thô ráp cọ vào làn da trần trên mông và đùi anh.
Ba nạn nhân gồm có: Camilla, nhân viên copywriter của một công ty quảng cáo, độc thân, hai mươi tám tuổi, tóc sẫm màu, người hơi mũm mĩm; Lisbeth, ca sĩ, đã kết hôn, ba mươi ba tuổi, tóc vàng sáng, thon thả; Barbara, lễ tân, hai mươi tám tuổi, sống cùng bố mẹ, tóc vàng trung bình. Cả ba đều có ngoại hình ưa nhìn, không có đặc điểm gì nổi bật. Thời điểm gây án. Nếu giả sử Lisbeth bị giết ngay sau khi bị bắt cóc thì cả ba vụ đều diễn ra vào ngày thường. Buổi chiều, sau giờ làm việc.
Duke Ellington đang chơi rất nhanh. Cứ như thể trong đầu ông ta đang tràn ngập những nốt nhạc mà ông ta phải cố nhồi nhét hết vào giai điệu vậy. Giờ thì nhạc đã gần như dừng hẳn. Ông ta chỉ điểm xuyết những dấu chấm cần thiết mà thôi.
Harry chưa đi sâu tìm hiểu lai lịch của các nạn nhân, chưa thẩm vấn họ hàng hay bạn bè của họ, anh chỉ mới đọc lướt qua các báo cáo nhưng không phát hiện ra được bất cứ chi tiết nào đáng chú ý. Câu trả lời không nằm ở đó. Vấn đề không phải nạn nhân là ai, mà quan trọng họ là người thế nào, đại diện cho điều gì. Đối với hung thủ trong vụ án lần này, nạn nhân chỉ là vật bên ngoài, ít nhiều được lựa chọn ngẫu nhiên, giống như mọi thứ xung quanh họ. Mấu chốt ở đây là phải phát hiện được quy luật.
Lúc này, các chất hóa học trong thuốc bắt đầu phát tác mạnh mẽ. Ảnh hưởng mà chúng mang lại giống với ảnh hưởng của thuốc gây ảo giác hơn là thuốc ngủ. Dòng tư duy bắt đầu nhường chỗ cho những ý nghĩ mông lung, và hoàn toàn mất kiểm soát - như thể đang nằm trong một chiếc thùng - anh bị cuốn trôi theo dòng sông. Thời gian ào ạt tuôn chảy, tỏa đi khắp nơi hệt như một vũ trụ đang mở rộng. Khi tỉnh táo trở lại, mọi thứ quanh anh đều đứng im, chỉ có tiếng đầu kim của máy hát đang cọ lên mặt đĩa.
Anh đi vào phòng ngủ, khoanh chân ngồi ở cuối giường và dồn sự chú ý vào ngôi sao của quỷ. Sau khi nhìn được một lúc, nó bắt đầu nhảy nhót trước mắt anh. Anh nhắm mắt lại. Việc cần làm chỉ là tập trung nhìn vào nó mà thôi.
Khi trời bắt đầu hửng sáng thì anh đã hoàn toàn mất đi ý thức. Anh ngồi đó, vẫn nghe đấy, vẫn nhìn đấy, nhưng lại đang chìm vào một giấc mơ. Tiếng tờ báo Aftenposten được ném lên cầu thang khiến anh bừng tỉnh. Anh ngẩng đầu lên, tập trung vào ngôi sao của quỷ, nó không còn nhảy nhót nữa.
Không có thứ gì nhảy nhót hết. Tất cả đã kết thúc. Anh đã nhận ra được quy luật.
Quy luật của một gã đàn ông đã tê liệt mọi cảm xúc đang tuyệt vọng tìm kiếm những cảm giác chân thật. Một kẻ ngu ngốc quá ngây thơ khi tin rằng có người yêu thương mình, rằng trên đời thực sự có tình yêu, và ở đâu có câu hỏi thì ở đó sẽ có câu trả lời. Quy luật của Harry Hole. Trong con thịnh nộ đột ngột bùng phát, anh lao đầu vào hình vẽ trên tường. Hai mắt anh nổ đom đóm và rồi anh nằm phịch xuống giường. Đập vào mắt anh là chiếc đồng hồ báo thức: năm giờ năm mươi lăm phút. Tấm vỏ chăn vừa ướt nhẹp lại vừa âm ấm.
Thế rồi - như thể có ai đó vừa với tay tắt đèn - mọi thứ trước mắt anh bỗng tối sầm lại.
Cô đang rót cà phê vào cốc cho anh. Anh lẩm bẩm câu ‘DankeCảm ơn,’ và lật giở những trang báo Observer mua tại khách sạn ở góc phố. Ngoài ra còn có mấy chiếc bánh sừng bò mới ra lò của Hlinka, người làm bánh trong vùng. Cô chưa bao giờ được ra nước ngoài mà mới chỉ đến Slovakia, như thế không tính là xuất ngoại, nhưng anh trấn an cô rằng Praha bây giờ có thể mang lại mọi thứ có được ở những thành phố lớn khác tại châu Âu. Cô cũng muốn đi đây đó lắm chứ. Trước khi quen anh, có một doanh nhân người Mỹ đã đem lòng yêu cô. Cô vốn là món quà do một đối tác tại Praha - giám đốc điều hành của một công ty dược - mua về để tặng anh ta. Anh ta là người dễ mến, ngây thơ, hơi mập mạp, sẵn sàng trao cho cô mọi thứ nếu cô đồng ý cùng anh ta về Los Angeles. Dĩ nhiên là cô đồng ý. Nhưng sau khi cô kể chuyện này cho Tomas, tên ma cô và cũng là anh cùng cha khác mẹ của mình, gã đã tìm tới phòng của doanh nhân người Mỹ và dùng dao đe dọa anh ta. Hôm sau anh ta ra đi và kể từ đó, cô không bao giờ gặp lại anh ta nữa. Bốn ngày sau, lúc cô đang rầu rĩ ngồi mượn rượu giải sầu ở khách sạn Grand Hotel Europa thì anh xuất hiện. Anh ngồi ở một chiếc ghế cuối phòng, nhìn cô đuổi hết mấy gã đàn ông lì lợm cứ bám lấy mình. Đó là điều đã khiến anh gục ngã, anh luôn nói với cô như vậy, không phải vì cô được rất nhiều đàn ông săn đón, mà là vì thái độ hoàn toàn dửng dưng của cô trước sự theo đuổi của họ, lãnh đạm tuyệt đối, thuần khiết vô ngần.
Cô nhận ly rượu anh mua tặng, cảm ơn anh rồi một mình đi bộ về.
Ngày hôm sau, anh đến tìm cô tại căn hộ tầng hầm bé tí tẹo trên phố Strasnice. Anh không bao giờ nói cho cô hay làm thế nào anh biết được địa chỉ nhà cô. Cuộc đời đang từ xám xịt bỗng được tô hồng trong chớp mắt. Cô vui lắm. Hạnh phúc lắm.
Tờ báo phát ra tiếng sột soạt khi anh lật trang.
Đáng lẽ cô phải đoán ra chứ. Nếu không vì khẩu súng trong cái va li thì cô đã chẳng nghĩ ngợi nhiều đến thế.
Cô quyết định sẽ quên nó đi, quên hết tất cả, chỉ giữ lại những gì quan trọng. Họ đang hạnh phúc bên nhau. Cô yêu anh.
Cô ngồi trên ghế, vẫn mặc nguyên tạp dề. Cô biết anh thích nhìn cô mặc tạp dề. Dù sao cô cũng có chút hiểu biết về tính cách đàn ông, bí quyết ở đây là không được để lộ ra điều đó. Cô cúi đầu nhìn xuống lòng mình. Nụ cười tự nhiên nở trên môi, cô không sao ngăn được.
“Có chuyện này em muốn nói với anh,” cô nói.
“Chuyện gì?” Tờ báo khẽ lay động hệt như cánh buồm trong gió.
“Anh phải hứa là không nổi giận cơ,” cô nói, cảm thấy nụ cười của mình càng tươi hơn.
“Điều đó anh không hứa được,” anh nói mà không buồn ngẩng lên.
Nụ cười chợt hóa đá. “Sao…”
“Anh đang đoán là em định nói với anh chuyện đêm hôm trước em lén lút dậy lục lọi va li của anh.”
Lần đầu tiên cô nhận ra khẩu âm của anh thật khác lạ. Ngữ điệu du dương không còn nữa. Anh đặt tờ báo xuống và nhìn thẳng vào mắt cô.
Tạ ơn Chúa, vậy là cô không cần phải nói dối anh và cô biết mình chẳng bao giờ có thể làm được điều đó. Giờ cô đã có bằng chứng. Cô lắc đầu, rồi chợt nhận ra cô không thể kiểm soát được nét mặt của mình.
Anh nhướn một bên lông mày.
Cô nuốt khan.
Kim giây của chiếc đồng hồ to tướng hiệu IKEA treo trong bếp, chiếc đồng hồ cô đã mua bằng tiền của anh, lặng im nhích từng vạch.
Anh mỉm cười.
“Rồi em tìm thấy đống thư mà đám người tình của anh gửi đến phải không?”
Cô chớp mắt, hoàn toàn không hiểu gì.
Anh nhoài người tới trước. “Anh đùa đấy, Eva. Thế có vấn đề gì sao?”
Cô gật đầu.
“Em có thai rồi,” cô thì thầm thật nhanh như thể mọi chuyện bỗng trở nên gấp gáp. “Em… chúng ta… sắp có con.”
Anh ngồi đó, sửng sốt, mắt nhìn chằm chằm về phía trước trong lúc nghe cô kể về những mối ngờ vực ban đầu, buổi đi khám bác sĩ, và cuối cùng là lời khẳng định chắc chắn. Khi cô nói xong, anh liền đứng dậy và rời khỏi nhà bếp. Sau đó anh quay lại, đưa cho cô một chiếc hộp nhỏ màu đen.
“Về thăm mẹ anh,” anh nói.
“Sao cơ?”
“Em đang thắc mắc sắp tới anh đi Oslo để làm gì. Anh sẽ về thăm mẹ anh.”
“Anh có mẹ…”
Đó là ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong tâm trí cô. Anh thực sự có mẹ ư? Nhưng cô vội vã nói thêm: “… ở Oslo sao?”
Anh mỉm cười và hất đầu về phía chiếc hộp.
“Em không định mở nó ra à, Liebling? Quà dành cho em đấy. Dành cho đứa bé.”
Cô chớp mắt hai cái rồi mới định thần lại đủ để mở hộp ra.
“Đẹp quá,” cô nói, cảm thấy những giọt lệ đã dâng đầy trong mắt.
“Anh yêu em, Eva Marvanova.”
Ngữ điệu du dương đã trở lại trong lời nói của anh.
Cô mỉm cười qua làn nước mắt khi được anh ôm vào lòng.
“Hãy tha thứ cho em,” cô khẽ thì thầm. “Tha thứ cho em nhé. Em chỉ cần biết anh yêu em, thế là đủ. Tất cả những điều khác đều không quan trọng. Anh không cần phải kể cho em nghe về mẹ anh. Hay khẩu súng…”
Cô cảm thấy người anh cứng đờ ra trong vòng tay của mình. Cô thì thầm vào tai anh.
“Em đã trông thấy khẩu súng,” cô nói. “Nhưng em chẳng cần biết điều gì cả. Không gì hết, anh hiểu không?”
Anh rời khỏi vòng tay cô.
“À, ừ,” anh nói. “Anh xin lỗi, Eva, nhưng không còn cách nào khác. Không phải lúc này.”
“Ý anh là sao?”
“Em cần phải biết anh là ai.”
“Nhưng em biết anh là ai rồi mà, anh yêu.”
“Em không biết anh làm những gì đâu.”
“Em không biết mình có muốn biết hay không.”
“Bắt buộc phải thế thôi.”
Anh cầm chiếc hộp trong tay cô, lấy ra sợi dây chuyền trong đó và giơ nó lên.
“Việc anh làm chính là đây.”
Viên kim cương hình ngôi sao tỏa sáng long lanh như ánh mắt kẻ đang yêu dưới ánh sáng ban mai đang ùa vào qua cửa sổ phòng bếp.
“Và đây nữa.”
Anh rút tay ra khỏi túi áo khoác. Anh đang cầm khẩu súng cô đã nhìn thấy trong va li. Nhưng lúc này nó đã dài hơn, đầu nòng được gắn một trụ kim loại màu đen cỡ lớn. Eva Marvanova tuy không biết nhiều về các loại vũ khí, nhưng thứ này thì cô biết. Đó là ống giảm thanh, một cái tên quả là thích hợp.
Harry bừng tỉnh khi nghe thấy tiếng điện thoại reo. Anh cảm giác như có ai đó đã nhét một chiếc khăn bông vào miệng mình. Anh cố gắng dùng lưỡi làm ẩm nó, nhưng vật đó phát ra tiếng lạo xạo chẳng khác nào một miếng bánh mì thiu dính trên vòm miệng. Đồng hồ trên chiếc kệ đầu giường báo mười giờ mười bảy phút. Có một điều nửa như ký ức, nửa như hình ảnh len lỏi vào tâm trí của anh. Harry đi ra phòng khách. Điện thoại đổ chuông lần thứ sáu.
Anh nhấc ống nghe lên.
“Harry đây. Ai đấy?”
“Em chỉ muốn xin lỗi anh.”
Chính là giọng nói anh luôn hy vọng được nghe.
“Rakel?”
“Đó là công việc của anh mà,” cô nói. “Em không có quyền nổi giận. Em xin lỗi.”
Harry ngồi xuống ghế. Có điều gì đó đang cố gắng trỗi dậy từ bên dưới mớ hỗn độn của những giấc mơ đã phần nào bị rơi vào quên lãng.
“Em hoàn toàn có quyền nổi giận chứ,” anh nói.
“Anh là cảnh sát mà. Phải có ai đó bảo vệ cuộc sống của chúng ta chứ.”
“Ý anh không phải muốn nói tới công việc,” Harry đáp.
Cô không trả lời. Anh đợi.
“Em khao khát có anh,” cô nói, giọng chan chứa nước mắt.
“Em khao khát cái người em ao ước anh có thể trở thành,” anh đáp. “Trong khi anh lại…”
“Tạm biệt,” cô nói, hệt như ca khúc bị cắt ngang lưng chừng đoạn mở đầu.
Harry ngồi nhìn chằm chằm điện thoại, vừa vui sướng lại vừa thất vọng. Một mảnh ghép rời rạc của giấc mơ đêm qua đã vận nốt chút sức lực cuối cùng hòng ngoi lên khỏi mặt nước, nhưng đụng phải lớp băng mà mỗi giây trôi qua lại dày thêm một chút khi nhiệt độ không ngừng hạ xuống. Anh bới tung chiếc bàn uống nước tìm thuốc lá và thấy một mẩu đầu lọc trong gạt tàn. Lưỡi anh vẫn còn chưa hết tê. Nghe cách nói líu ríu của anh, chắc Rakel sẽ đoán anh lại phê rồi, điều đó không sai lệch lắm so với sự thật, ngoại trừ việc anh chẳng có tâm trạng nào để rước thêm chất độc ấy vào người.
Anh quay về phòng ngủ, liếc đồng hồ trên chiếc kệ đầu giường. Đến giờ đi làm rồi. Có điều…
Anh nhắm mắt lại.
Giai điệu của Duke Ellington còn vang vọng trong ống tai của anh. Nó không có ở đó, anh sẽ phải đào sâu hơn thôi. Anh tiếp tục nghe. Và rồi anh nghe thấy tiếng tàu điện rít lên đau đớn, tiếng chân mèo bước trên mái nhà cùng tiếng sột soạt báo điềm gở giữa những tán lá bạch dương um tùm xanh mướt trong sân. Sâu hơn nữa đi. Anh nghe thấy tiếng rên rỉ của cái sân, tiếng răng rắc của keo dán bằng đất sét trên khung cửa sổ, tiếng ầm ì của căn phòng tầng hầm trống không nằm sâu tít dưới lòng vực thẳm. Anh nghe thấy tiếng lạo xạo chói tai của lớp ga trải giường cọ vào da thịt anh, tiếng gót giày gõ lách cách đầy sốt ruột khi anh đi lại ngoài hành lang. Anh nghe thấy tiếng mẹ thì thầm câu nói quen thuộc ngày xưa mỗi khi anh đi ngủ: “ Bak skapet bakenfor skapet bakenfor skapet til hans madam. ” Và thế là anh lại chìm vào giấc mơ.
Giấc mơ đêm qua. Anh bị mù, chắc chắn là bị mù, vì anh chỉ có thể nghe được thôi.
Anh nghe thấy tiếng cầu kinh khe khẽ hòa cùng tiếng rì rầm cầu nguyện ở hậu cảnh. Dựa vào độ vang âm, anh đoán mình đang ở trong một căn phòng rộng lớn giống như nhà thờ, nhưng còn có âm thanh tí tách không ngừng vang lên. Dưới vòm trần cao vời vọi, nếu thứ đó đúng là như thế, vọng đến tiếng vỗ cánh loạn xạ. Chim bồ câu ư? Một linh mục hoặc cha xứ có lẽ đang chủ trì buổi gặp gỡ, nhưng nghi lễ thì lạ lùng, kỳ dị quá. Nghe gần như tiếng Nga, hoặc là thứ tiếng lạ. Giáo đoàn đồng thanh đọc phần Thánh Vịnh. Những dòng thơ ngắn ngủn, trúc trắc chẳng mấy hòa hợp với nhau. Không có những từ quen thuộc như Chúa Jesus hay Đức Mẹ Maria. Đột nhiên, giáo đoàn cất tiếng ca vang và dàn nhạc bắt đầu diễn tấu. Anh nhận ra giai điệu này. Nó được phát trên ti vi. Khoan đã nào. Anh nghe thấy tiếng một vật gì đó đang lăn. Một trái bóng. Nó dừng lại rồi.
“Năm,” một giọng phụ nữ vang lên. “Đó là số năm.”
Mật mã chính là đây.