← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 27 Thứ Bảy
VÀO CUỘC

Tâm trạng Otto Tangen càng lúc càng hưng phấn.

Gã mới chợp mắt được vài tiếng thì bị đánh thức bởi cơn đau đầu như búa bổ và tiếng đập cửa rầm rầm đầy giận dữ. Cửa vừa mở, Waaler, Falkeid thuộc Lực lượng Đặc nhiệm và một nhân vật tự xưng là Harry Hole nào đó, người trông chẳng giống thanh tra cảnh sát tí nào, gạt phăng gã sang một bên để nhảy lên xe buýt và điều đầu tiên họ làm là phàn nàn không khí trong này sao mà khó chịu. Vậy nhưng, sau khi nhấm nháp cà phê ở một trong bốn chiếc bình giữ nhiệt, bật ba cái màn hình lên và khởi động chế độ ghi hình, Otto cảm thấy niềm phấn khích tuyệt diệu bắt đầu trỗi dậy hệt như bao lần khác, khi mục tiêu đang càng lúc càng đến gần.

Falkeid giải thích rằng các chiến sĩ mặc thường phục đã được bố trí canh gác xung quanh khu ký túc xá sinh viên từ đêm qua. Sĩ quan huấn luyện và chó nghiệp vụ đã đi kiểm tra cả tầng áp mái lẫn tầng hầm để đảm bảo không có ai trốn bên trong tòa nhà. Những người ra vào đây chỉ có sinh viên, tuy nhiên một cô gái ở phòng 303 có giải thích với lính gác cổng rằng cô ta đã bảo bạn trai ở lại cùng. Người của Falkeid đều đã vào vị trí và đang chờ lệnh.

Waaler gật đầu.

Falkeid chốc chốc lại kiểm tra hệ thống bộ đàm một lần. Đó là thiết bị riêng của Lực lượng Đặc nhiệm, không liên quan đến Otto. Otto nhắm mắt lại, thoải mái lắng nghe những âm thanh xung quanh. Tạp âm khí quyển vang lên khoảng một giây khi họ nhả nút đàm thoại, sau đó là tiếng rì rầm trao đổi bằng mật hiệu đầy khó hiểu, một kiểu mật ngữ ở sân chơi trẻ con, nhưng dành cho người lớn.

“Nghe rõ trả lời.” Otto lẩm nhẩm không thành tiếng bốn từ ấy và nhớ lại kỷ niệm về buổi tối mùa thu năm xưa, gã ngồi trên cây táo để nhìn trộm người lớn qua những ô cửa sổ sáng choang. Thì thầm “nghe rõ trả lời” vào một cái ống bơ có xỏ một sợi dây thừng nhỏ thòng xuống bên kia hàng rào, nơi Nils đang chồm hỗm ngồi chờ cùng một cái ống bơ khác áp lên tai. Đấy là trong trường hợp nó chưa thấy chán và bỏ về nhà ăn tối thôi. Cái trò điện thoại ống bơ này chẳng bao giờ có tác dụng như mô tả trong truyện Woodchuck cả.

“Chuẩn bị lên sóng thôi,” Waaler nói. “Đồng hồ sẵn sàng chưa, Tangen?”

Otto gật đầu.

“Mười sáu giờ đúng,” Waaler nói. “Bắt… đầu.”

Otto khởi động đồng hồ đếm giờ của hệ thống ghi hình. Những con số hiển thị từng tích tắc và từng giây vùn vụt trôi qua trên màn hình. Trong lòng, gã những muốn phá lên cười thầm lặng và thích thú như con trẻ. Trò này còn tuyệt hơn trò cây táo. Tuyệt hơn bánh bông lan kem của Aud-Rita. Tuyệt hơn cả lúc cô ta rên rỉ bằng giọng đớt và chỉ cho gã biết nên làm như thế nào với cô ả.

Cuộc chơi bắt đầu.

Olaug Sivertsen mỉm cười khi bà ra mở cửa cho Beate, như thể bà đã mong chờ được gặp lại cô từ lâu.

“Ồ, lại là cháu à! Cháu vào đi. Cứ đi cả giày cũng được. Trời nóng khủng khiếp nhỉ?”

Olaug Sivertsen đi trước Beate trên hành lang.

“Bà đừng lo, bà Sivertsen. Có vẻ vụ này sẽ sớm qua thôi ạ.”

“Chỉ cần có khách đến chơi với bà thì các cháu muốn kéo dài bao lâu cũng được.” Bà bật cười rồi hoảng hốt đưa tay che miệng, “Trời đất ơi, bà nói linh tinh gì thế này! Rốt cuộc thì kẻ đó vẫn đang tước đi mạng sống của người ta mà, đúng không cháu?”

Chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách điểm bốn hồi chuông khi họ bước vào.

“Dùng trà nhé, cháu yêu?”

“Vâng ạ.”

“Bà có được phép vào bếp một mình không?”

“Dạ được, nhưng nếu cháu có thể đi theo…”

“Được chứ, được chứ.”

Ngoài một cái bếp mới và chiếc tủ lạnh, căn bếp trông có vẻ không khác gì mấy so với thời chiến. Beate tìm thấy một chiếc ghế bên cạnh cái bàn ăn lớn bằng gỗ trong lúc Olaug đi đun nước.

“Nơi này có mùi tuyệt quá ạ,” Beate nói.

“Cháu thấy thế à?”

“Vâng. Cháu thích nhà bếp có mùi giống như thế này. Nói thật, cháu thích được ngồi trong bếp hơn. Cháu không khoái mấy phòng khách cho lắm.”

“Vậy sao?” Olaug Sivertsen nghiêng đầu sang một bên. “Cháu biết gì không? Có vẻ chúng ta không khác nhau là mấy đâu, bà và cháu ấy. Bà cũng là người thích quanh quẩn trong bếp.”

Beate mỉm cười.

“Phòng khách tượng trưng cho những gì chúng ta muốn thể hiện bản thân với bên ngoài. Nhưng lúc ở trong bếp, mọi người đều cảm thấy thoải mái hơn. Như thể ta được phép sống thật với chính mình. Cháu có để ý thấy là chúng ta trở nên cởi mở hơn với nhau ngay khi vào đây không?”

“Cháu nghĩ những gì bà nói hoàn toàn đúng.”

Hai người phụ nữ cười vang.

“Cháu biết gì không?” Olaugh nói. “Bà mừng vì họ đã cử cháu đến đây. Bà rất quý cháu. Và không cần phải đỏ mặt lên thế đâu, cháu yêu. Bà chỉ là một bà lão già nua, cô độc thôi. Hãy để dành điều đó cho người mà cháu cảm mến ấy. Hay là cháu kết hôn rồi? Chưa à? Ừm, như thế cũng chẳng phải điều gì tệ hại cả.”

“Bà đã kết hôn lần nào chưa ạ?”

“Bà á?”

Olaug vừa cười vừa bày mấy chiếc tách ra bàn.

“Chưa bao giờ, bà sinh Sven hồi bà còn quá trẻ nên chưa từng có cơ hội…”

“Chưa từng có cơ hội ấy ạ?”

“À, ừm, chắc cũng có một, hai mối. Nhưng hồi ấy, phụ nữ ở hoàn cảnh của bà rẻ rúng lắm, nên nếu có đàn ông ngỏ lời thì đó thường là những gã chẳng ai muốn cưới. Người ta nói môn đăng hộ đối là có lý do cả.”

“Chỉ vì bà làm mẹ đơn thân ư?”

“Vì Sven là con trai của một người Đức, cháu ạ.”

Ấm nước bắt đầu phát ra tiếng réo rắt khe khẽ.

“À, cháu hiểu,” Beate nói. “Vậy thì anh ấy hẳn là có tuổi thơ khốn khó lắm.”

Olaug dõi mắt nhìn xa xăm mà không nhận thấy tiếng réo rắt đang ngày một lớn.

“Tuổi thơ khốn khó nhất cháu có thể hình dung. Đến tận bây giờ, chỉ nghĩ đến điều đó thôi cũng khiến bà không cầm được nước mắt. Tội nghiệp thằng bé.”

“Nước sôi kìa bà…”

“Đây cháu xem. Bà càng ngày càng lẩn thẩn.”

Olaug nhấc ấm nước trên bếp ra và rót vào tách.

“Bây giờ con trai bà đang làm nghề gì ạ?” Beate hỏi và nhìn đồng hồ đeo tay: bốn giờ mười lăm phút.

“Xuất nhập khẩu. Đủ loại hàng hóa từ các nước cộng sản cũ.” Olaug mỉm cười. “Bà chẳng biết nó kiếm được bao nhiêu tiền, nhưng cái tên có vẻ hay. ‘Xuất nhập khẩu.’ Nghe thì chẳng ra đâu vào đâu, nhưng bà lại thích.”

“Cuối cùng mọi chuyện cũng tốt đẹp. Ý cháu là dù anh ấy có phải trải qua tuổi thơ khó khăn.”

“Ừ, nhưng không phải lúc nào cũng vậy đâu. Có thể tên nó có trong hồ sơ của các cháu đấy.”

“Nhiều người có tên trong hồ sơ của bọn cháu lắm ạ. Nhưng về sau họ vẫn trở thành người tốt đấy thôi.”

“Đã từng xảy ra một chuyện hồi nó đi công tác ở Berlin. Bà không rõ là chuyện gì. Sven không thích kể về công việc của nó bao giờ. Lúc nào cũng giữ bí mật. Nhưng bà nghĩ có thể nó sang thăm bố nó. Và bà cho là việc đó khiến nó thấy yêu bản thân hơn. Ernst Schwabe là một người đàn ông có sức hấp dẫn mà.”

Olaug thở dài.

“Nhưng cũng có thể bà nhầm. Dù sao thì sau lần đó Sven đã thay đổi.”

“Thay đổi thế nào ạ?”

“Nó trở nên điềm tĩnh hơn. Trước kia, nó chỉ mải miết chạy theo đủ thứ.”

“Thứ gì ạ?”

“Tất cả. Tiền bạc. Sự náo nhiệt. Phụ nữ. Nó giống bố mà, cháu biết đấy. Típ đàn ông lãng tử, đào hoa hết thuốc chữa. Nó mê phụ nữ trẻ, Sven ấy. Và họ cũng mê nó. Nhưng bà nghi là nó đã tìm được người nào đó đặc biệt. Nó gọi điện bảo có tin tức muốn nói với bà. Nghe chừng phấn khởi lắm.”

“Anh ấy không nói là tin gì hả bà?”

“Nó muốn đợi đến khi về đây rồi mới nói.”

“Về đây sao?”

“Ừ, tối nay nó về. Trước đó nó còn có cuộc hẹn. Nó sẽ ở lại Oslo đến mai rồi quay về.”

“Về Berlin ạ?”

“Không, không. Lâu lắm rồi Sven không sống tại đó nữa. Giờ nó đang ở Cộng hòa Séc cơ. Bohemia, nó toàn gọi thế, cái thằng chỉ giỏi khoe khoang.”

“Ở… ờ… Bohemia ạ?”

“Praha.”

Marius Veland đăm đăm nhìn ra cửa sổ phòng 406. Một cô gái đang nằm trên chiếc khăn bông ở bãi cỏ phía trước ký túc xá sinh viên. Trông cô ta không khác mấy so với cô gái phòng 303, người được anh ta bí mật đặt cho cái tên Shirley, theo tên ca sĩ Shirley Manson của ban nhạc Garbage. Nhưng người nằm đó không phải là cô ta. Mặt trời trên vịnh hẹp Oslo đã nép mình đằng sau những đám mây. Rốt cuộc thì thời tiết cũng bắt đầu ấm lên rồi - đài dự báo một đợt nắng nóng sẽ xảy ra trong tuần này. Mùa hè ở Oslo. Đó là điều Marius Veland đang mong chờ. Hoặc là ở lại đây, hoặc là trở về nhà ở Bøfjord cùng những đêm trắng và công việc làm thêm mùa hè ở trạm xăng. Chịu đựng món thịt viên của mẹ cùng những câu hỏi bất tận của bố về việc tại sao anh ta lại chọn theo học ngành Truyền thông ở Oslo trong khi đủ điểm để vào khoa Kỹ thuật xây dựng dân dụng của Đại học Khoa học Công nghệ Na Uy tại Tronheim. Chịu đựng những ngày thứ Bảy ở nhà văn hóa cùng những gã say xỉn, đám bạn cùng lớp to mồm nhưng cả đời chỉ quanh quẩn trong cái ao làng và cho rằng những ai ra đi đều là kẻ phản bội; chịu đựng ban nhạc dance tự xưng là ban nhạc blues nhưng toàn chơi thể loại pha tạp giữa Creedence Clearwater Revival và Lynyrd Skynyrd.

Nhưng đó không phải lý do duy nhất để anh ta ở lại Oslo mùa hè này. Anh ta đã xin được công việc trong mơ. Sắp tới anh ta sẽ nghe các đĩa nhạc, xem những bộ phim rồi gõ lại nhận xét của mình lên máy tính và được trả công. Hai năm qua anh ta đã gửi bài phê bình tới vài tờ báo có tiếng nhưng đều không được đăng, tháng trước anh ta đến câu lạc bộ So What! và được một người bạn giới thiệu với Runar. Runar kể cho Marius nghe anh ta vừa ngừng kinh doanh quần áo để thành lập Zone, tờ báo miễn phí sẽ ra số đầu tiên vào tháng Tám nếu mọi chuyện đi theo đúng kế hoạch. Người bạn kia có nhắc đến việc Marius thích viết bài phê bình, còn Runar thì bảo anh ta thích chiếc áo Marius đang mặc và tuyển Marius vào làm luôn. Với vai trò nhà phê bình, Marius sẽ viết những bài tóm tắt phản ánh “những giá trị mới của cuộc sống đô thị bằng cách phân tích đặc điểm nền văn hóa đại chúng theo phong cách châm biếm nhẹ nhàng, đầy đủ thông tin và có tính bao quát”. Đó chính là công thức Runar dành cho nhiệm vụ của Marius, và khi hoàn thành, Marius sẽ được trọng thưởng, nhưng không phải bằng tiền mà bằng những tấm vé miễn phí đến các buổi biểu diễn, buổi chiếu phim, quán bar mới mở, cũng như được tiếp cận với giới nghệ thuật để có thể thiết lập những mối quan hệ thú vị, chuẩn bị cho tương lai sau này. Đây là cơ hội của Marius và anh ta cần phải chuẩn bị thật tốt. Tất nhiên, dù đã có kiến thức cơ bản khá tốt về nhạc pop, anh ta vẫn mượn vài đĩa CD trong bộ sưu tập của Runar mang về “cày” để có thêm hiểu biết về lịch sử nhạc pop. Thời gian gần đây dân tình đang chuộng các ban nhạc rock từ thập niên tám mươi của Mỹ: R.E.M., Green On Red, Dream Syndicate, Pixies. Và ngay lúc này đây, máy nghe CD đang phát nhạc của Violent Femmes. Chất nhạc tuy có vẻ lỗi thời, nhưng nghe cũng sôi động.

Dưới bãi cỏ, cô gái đang ngồi dậy trên tấm khăn. Ngoài kia chắc hơi lạnh. Marius dõi mắt nhìn theo cô ta đi về phía tòa chung cư bên cạnh. Trên đường đi, cô ta lướt qua một người đang dắt xe đạp. Trang phục khoác trên người cho thấy anh ta có vẻ là nhân viên giao nhận. Marius nhắm mắt lại. Chuẩn bị viết thôi.

Otto Tangen đưa mấy ngón tay dính đầy nicotine lên dụi mắt. Bầu không khí căng thẳng đã bao trùm khắp xe buýt, dù bên ngoài nhìn vào có thể vẫn bình yên. Không một ai nhúc nhích và cũng chẳng ai nói gì. Đã năm giờ hai mươi phút rồi mà chẳng thấy bất cứ động tĩnh gì trên mấy màn hình, chỉ có những thời khắc trôi đi vùn vụt được thể hiện bằng mấy con số màu trắng ở góc. Một giọt mồ hôi nữa lăn xuống khe mông của Otto. Cứ ngồi mãi thế này dễ bị sinh hoang tưởng, bạn sẽ tưởng tượng có người đã can thiệp vào hệ thống máy móc và lúc này đây bạn đang ngồi xem băng ghi hình những chuyện xảy ra từ hôm qua hoặc kiểu thế.

Gã nhịp ngón tay lên mặt bàn cạnh bảng điều khiển. Thằng khốn Waaler không cho phép hút thuốc trong xe buýt.

Otto nghiêng người sang phải, thả một “quả bom” không tiếng trong lúc đưa mắt nhìn gã tóc vàng húi cua. Từ lúc đến đây hắn cứ ngồi lì trên ghế chẳng nói chẳng rằng. Trông hắn giống nhân viên bảo vệ hộp đêm đã về vườn.

“Xem ra nhân vật của chúng ta hôm nay không đi làm rồi,” Otto nói. “Có lẽ hắn nghĩ trời nóng quá chăng. Có lẽ hắn đã quyết định hoãn lại đến ngày mai và thay vào đó là đi uống bia ở Aker Brygge. Dự báo thời tiết có nói…”

“Im đi, Tangen.”

Waaler nói tuy khẽ nhưng vẫn đủ nghe được.

Otto thở dài thườn thượt và xoay vai.

Đồng hồ ở góc màn hình báo năm giờ hai mươi mốt phút.

“Có ai thấy cậu trai phòng 303 ra về không?”

Đó là giọng của Waaler. Otto phát hiện Waaler đang nhìn mình.

“Hôm nay tôi ngủ cả sáng mà,” gã nói.

“Tôi muốn cho người kiểm tra phòng 303. Falkeid?”

Sĩ quan chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm hắng giọng.

“Tôi không thấy có nguy…”

“Làm đi, Falkeid.”

Quạt tản nhiệt của hệ thống máy móc chạy ro ro trong lúc Falkeid và Waaler nhìn nhau.

Falkeid lại hắng giọng.

“Alpha gọi Charlie Two. Nghe rõ trả lời. Hết.”

Tạp âm khí quyển vang lên.

“Charlie Two nghe.”

“Kiểm tra phòng 303 ngay.”

“Rõ. Kiểm tra phòng 303.”

Otto chăm chú nhìn màn hình. Chẳng có gì xảy ra. Thử tướng tượng xem nếu…

Họ đây rồi.

Ba sĩ quan. Đồng phục đen, mũ trùm đầu đen, súng máy đen, bốt đen. Tất cả đều diễn ra rất nhanh, nhưng lạ thay, chẳng thấy có gì gay cấn cả. Là tại âm thanh. Không có âm thanh.

Họ không dùng mấy quả mìn hay ho cỡ nhỏ để mở cửa mà dùng cách cổ điển là xà beng. Otto cảm thấy thật thất vọng. Chắc là do ít người.

Ba sĩ quan trên màn hình không có tiếng vào vị trí như thể đang chuẩn bị chạy đua, một người móc đầu xà beng vào bên dưới ổ khóa, hai người còn lại đúng cách một mét phía sau, vũ khí sẵn sàng. Bất thình lình, cả ba cùng hành động. Một động tác phối hợp đồng loạt, một màn vũ đạo thật dứt khoát. Cửa bật mở. Hai người trong tư thế sẵn sàng lập tức ập vào phòng, người thứ ba lao theo đúng nghĩa đen. Chưa gì Otto đã nóng lòng muốn cho Nils xem đoạn băng ghi hình. Cánh cửa khép lại nửa chừng rồi giữ nguyên như thế. Thật quá đáng tiếc khi họ không kịp lắp thêm camera trong các phòng.

Tám giây trôi qua.

Bộ đàm của Falkeid kêu lẹt xẹt.

“Đã kiểm tra phòng 303. Một nam một nữ, không có vũ khí.”

“Còn sống chứ?”

“Sống… ờ… nhăn.”

“Đã lục soát cậu thanh niên chưa?”

“Báo cáo Alpha, cậu ta trần như nhộng.”

“Lôi cậu ta ra ngoài,” Waaler nói. “Mẹ kiếp!”

Otto chằm chằm nhìn ngưỡng cửa. Hai đứa đang làm chuyện đó. Trần như nhộng. Làm cả đêm lẫn cả ngày. Gã cứ nhìn như bị thôi miên về phía ô cửa đó.

“Bảo cậu ta mặc quần áo vào rồi dẫn về vị trí mai phục của các anh, Charlie Two.”

Falkeid đặt bộ đàm xuống, nhìn những người xung quanh và khẽ lắc đầu.

Waaler đập mạnh bàn tay lên tay vịn ghế.

“Ngày mai xe buýt cũng rảnh đấy,” Otto nói, liếc nhanh một cái về phía vị thanh tra.

Giờ gã phải ăn nói cẩn thận hơn mới được.

“Tôi không tính thêm phí cho ngày Chủ nhật đâu, nhưng tôi cần phải biết khi nào…”

“Ê, nhìn kìa.”

Otto vô thức quay lại. Tên bảo vệ cuối cùng cũng đã chịu mở miệng. Hắn đang chỉ vào màn hình ở giữa.

“Trong sảnh. Hắn đi vào qua cửa trước và tới thẳng chỗ thang máy.”

Không khí trong xe buýt lặng đi khoảng hai giây. Sau đó là tiếng Falkeid nói vào bộ đàm.

“Alpha gọi tất cả các đơn vị. Mục tiêu tình nghi đã vào thang máy. Sẵn sàng đợi lệnh.”

“Dạ thôi, cháu cảm ơn ạ,” Beate mỉm cười.

“Ừ, ăn bao nhiêu bánh như thế chắc cháu cũng chán rồi,” bà cụ thở dài, đặt lại hộp bánh quy xuống bàn. “Bà nói đến đâu rồi nhỉ? À, phải. Thật tốt khi Sven thỉnh thoảng lại về chơi, vì bây giờ bà sống có mỗi mình.”

“Vâng, ở trong ngôi nhà lớn thế này chắc là cô đơn lắm.”

“Bà hay nói chuyện với Ina, nhưng hôm nay nó đi nghỉ ở căn nhà gỗ của bạn trai nó rồi. Bà bảo nó cho bà gửi lời chào anh ta, nhưng bọn trẻ bây giờ nhìn nhận mấy chuyện này theo kiểu lạ lắm. Cứ như thể cái gì chúng cũng muốn thử, song đồng thời lại nghĩ chẳng có gì bền lâu. Có lẽ vì vậy mà chúng giữ bí mật rất kỹ.”

Beate lén nhìn đồng hồ đeo tay. Harry bảo họ sẽ gọi cho cô ngay sau khi mọi chuyện kết thúc.

“Có việc gì đang khiến cháu bận tâm phải không?”

Beate chậm rãi gật đầu.

“Không sao đâu,” Olaug nói. “Hy vọng họ sẽ bắt được hắn.”

“Bà có cậu con trai thật ngoan.”

“Ừ, đúng vậy. Nếu trước đây nó thường xuyên về thăm bà như bây giờ thì bà chẳng có gì phải phàn nàn.”

“Ồ? Thường xuyên đến mức nào ạ?” Beate hỏi. Đáng lẽ giờ này mọi chuyện phải kết thúc rồi chứ. Sao Harry chưa gọi nhỉ? Hay là cuối cùng hắn không xuất hiện?

“Mỗi tuần một lần, trong suốt một tháng qua. Ừm, thực ra thì còn thường xuyên hơn thế. Cứ năm ngày nó lại về đây một lần. Chỉ ở trong thời gian ngắn. Thực tình bà nghĩ chắc có người ở Praha đợi nó thật. Mà bà cũng kể với cháu rồi đấy, hình như nó có tin tức gì đó muốn báo với bà vào tối nay.”

“Ừm.”

“Lần trước, nó đã mang về tặng bà một món trang sức. Cháu có muốn xem không?”

Beate nhìn bà cụ. Và đột nhiên cô cảm thấy mệt mỏi quá chừng, chán công việc, chán tên Sát nhân Giao hàng, Tom Waaler và Harry Hole, chán cả Olaug Sivertsen, và hơn hết, cô chán chính mình, một Beate Lønn ưu tú và sẵn sàng chấp hành nhiệm vụ, người nghĩ rằng mình có thể đạt được thành tựu nào đó, mang lại sự khác biệt nào đó, bằng cách làm một cô gái tốt bụng, tốt bụng và thông minh, thông minh và luôn răm rắp nghe theo yêu cầu của người khác. Đã đến lúc phải thay đổi, nhưng cô không biết liệu mình có làm được không. Trên hết, cô chỉ muốn về nhà, chui vào chăn lông vịt và ngủ.

“Phải đấy,” Olaug nói. “Dù sao cũng chẳng có gì đặc biệt để mà xem. Cháu uống thêm trà nhé?”

“Vâng ạ.”

Olaug vừa định rót trà thì thấy Beate đang lấy tay chặn chiếc tách.

“Cháu xin lỗi,” Beate vừa nói vừa cười. “Vừa rồi ý cháu là cháu muốn xem nó.”

“Gì cơ…?”

“Món trang sức mà con trai bà tặng bà ấy ạ.”

Olaug tươi tỉnh hẳn lên và rời khỏi bếp.

Cô gái tốt bụng, Beate nghĩ thầm. Cô đưa tách trà lên uống nốt. Cô phải gọi cho Harry xem tình hình thế nào mới được.

“Nó đây này,” Olaug nói.

Tách trà của Beate Lønn, đúng hơn là của Olaug Sivertsen, hay chính xác nhất phải nói là của Lực lượng Vệ quốc, khựng lại giữa không trung.

Beate trân trân nhìn vào cái cài áo - chính xác là viên đá quý gắn trên đó.

“Sven nhập khẩu chúng đấy,” Olaug nói. “Bà đoán cách cắt đặc biệt này chắc chỉ có ở Praha.”

Đó là một viên kim cương. Hình ngôi sao năm cánh.

Beate quét lưỡi quanh miệng cho hết khô.

“Cháu phải đi gọi điện thoại đây ạ,” cô nói.

Cảm giác khô khốc vẫn không hết.

“Trong lúc đó, bà tìm giúp cháu một bức ảnh của Sven được không? Ảnh mới chụp là tốt nhất. Việc này khá quan trọng đấy ạ.”

Olaug tỏ ra bối rối nhưng vẫn gật đầu.

Otto vừa há miệng ra thở vừa nhìn chằm chằm màn hình và lắng nghe những tiếng nói quanh mình.

“Mục tiêu tình nghi đang đi về hướng Bravo 2. Mục tiêu tình nghi đã dừng lại trước cửa. Sẵn sàng chưa, Bravo 2?”

“Bravo 2 sẵn sàng.”

“Mục tiêu đứng tại chỗ. Hắn đang cho tay vào túi. Có thể có vũ khí. Không quan sát được tay hắn.”

Giọng Waaler cất lên, “Hành động đi.”

“Bravo 2 hành động.”

“Lạ nhỉ,” tên bảo vệ lẩm bẩm.

Ban đầu, Marius Veland tưởng mình nghe nhầm nên vặn nhỏ tiếng nhạc Violent Femmes xuống để kiểm tra. Âm thanh đó lại vang lên. Có người đang gõ cửa. Có thể là ai được nhỉ? Theo anh ta biết, những người sống ở dãy hành lang này đã về nhà nghỉ hè hết cả rồi. Trừ Shirley. Anh ta đã thấy cô trên cầu thang. Và rồi anh ta dừng lại hỏi cô có muốn cùng anh ta đi xem ca nhạc không. Hoặc là xem phim. Hay xem kịch. Anh ta mời. Tùy cô chọn.

Marius đứng dậy thì phát hiện ra hai tay mình đang ướt đẫm mồ hôi. Sao thế nhỉ? Chẳng có lý do gì xác đáng để cho rằng người gõ cửa là cô ấy. Anh ta đưa mắt nhìn quanh phòng và nhận ra mình chưa bao giờ thực sự để ý đến nó cả, cho tới tận lúc này. Anh ta không có quá nhiều đồ để khiến căn phòng trở thành bãi chiến trường. Bốn bức tường trống trơn ngoại trừ một tấm poster rách của Iggy Pop và cái giá sách trông thảm hại nhưng không lâu nữa trên đó sẽ chất đầy CD và DVD miễn phí. Căn phòng xấu tệ, hoàn toàn không có chất riêng. Tiếng gõ cửa tiếp tục vang lên. Marius vội vã giắt lại một đầu chăn lông vịt đang thò ra ở cuối chiếc sofa giường. Anh ta mở cửa. Không thể là cô ấy. Không thể… Không phải cô ấy.

“Anh là Veland?”

“Vâng?”

Marius sửng sốt nhìn người đàn ông trân trân.

“Tôi có bưu phẩm cần giao cho anh.”

Người đàn ông bỏ ba lô xuống, lấy ra chiếc phong bì khổ A4 và đưa cho Marius. Marius cầm chiếc phong bì trắng có dán tem trong tay. Trên đó không đề tên.

“Anh chắc chắn đây là thư của tôi?” anh ta hỏi.

“Phải. Tôi cần ký nhận…”

Người đàn ông chìa ra tập bìa kẹp hồ sơ với một tờ giấy ở trên.

Marius nhìn ông ta bằng ánh mắt dò hỏi.

“Xin lỗi. Anh có bút không?” ông ta mỉm cười.

Marius lại nhìn ông ta. Có điều gì đó không ổn, nhưng là điều gì thì anh ta không thể xác định rõ.

“Xin đợi chút,” Marius nói.

Anh ta cầm theo chiếc phong bì, đặt nó lên giá bên cạnh chùm chìa khóa có móc treo hình đầu lâu, tìm thấy một cây bút trong ngăn kéo và quay lại. Bỗng Marius giật bắn khi thấy người đàn ông đang đứng trên lối đi tối tăm sau lưng mình.

“Tôi không nghe thấy anh bước vào,” Marius nói và nghe thấy tiếng cười lo lắng của mình dội lại từ khắp bốn bức tường.

Không phải anh ta sợ hãi. Ở quê anh ta, người ta thường tự động đi vào nhà như thế để ngăn nhiệt thoát ra hoặc ngăn khí lạnh tràn vào. Nhưng người đàn ông này có điều gì lạ lắm. Ông ta đã bỏ kính và mũ bảo hiểm ra, giờ đây Marius đã có thể hiểu được điều gì khiến anh ta giật mình. Trông ông ta có vẻ già quá. Nhân viên giao nhận bằng xe đạp thường chỉ trong độ tuổi hai mươi thôi. Người này có thân hình thon gọn và săn chắc, có thể nhầm với thanh niên. Nhưng khuôn mặt kia là khuôn mặt của người đã qua ba mươi từ lâu, thậm chí còn qua ngưỡng bốn mươi.

Marius định lên tiếng nói gì đó thì chợt nhác thấy một vật mà người nhân viên đang cầm trong tay. Trong phòng rất sáng, nhưng hành lang tối om, và Marius Veland thì đã xem nhiều phim đủ để nhận ra đường nét của một khẩu súng có gắn ống giảm thanh.

“Thứ đó là để cho tôi à?” Marius loạng choạng.

Người đàn ông mỉm cười và chĩa khẩu súng về phía anh ta. Ngay thẳng mặt anh ta. Lúc này Marius biết rằng mình nên sợ hãi đi thôi.

“Ngồi xuống,” ông ta nói. “Anh có bút rồi. Mở cái phong bì ra.”

Marius ngồi phịch xuống ghế.

“Anh có vài thứ cần viết đấy,” người đàn ông đó nói.

“Làm tốt lắm, Bravo 2!”

Falkeid kêu lên, mặt đỏ gay và bóng loáng.

Otto đang thở phì phò qua đằng mũi. Màn hình chiếu cảnh người đàn ông đang nằm sấp trên sàn trước cửa phòng 205, hai cổ tay bị còng lại sau lưng. Và tuyệt hơn cả là hắn đang quay mặt về phía camera nên có thể thấy khuôn mặt đó toát lên vẻ ngạc nhiên, nhăn nhó vì đau, thấy thằng khốn đó bắt đầu cam chịu thất bại. Đúng là một đoạn băng “vàng”. Không, còn hơn thế ấy chứ, phải là đoạn băng đi vào lịch sử. Đây là màn cao trào đầy kịch tính trong mùa hè đẫm máu ở Oslo: màn bắt giữ Sát nhân Giao hàng khi hắn đang chuẩn bị tiến hành vụ giết người thứ tư. Cả thế giới sẽ tha hồ giành giật để được chiếu đoạn băng này. Chúa ơi, gã, Otto Tangen, giàu to rồi. Bái bai thứ đồ ăn tởm lạm của 7-Eleven, bái bai thằng khốn Waaler, bây giờ gã có thể mua… gã có thể… Aud-Rita và gã có thể…

“Không phải hắn,” tên bảo vệ nói.

Không khí trong xe buýt bỗng lặng đi.

Waaler nhoài người về phía trước trên ghế.

“Anh bảo sao, Harry?”

“Đấy không phải hắn đâu, 205 là một trong những phòng chúng ta không kiểm tra được. Theo như danh sách phòng tôi đang cầm ở đây, tên anh ta là Odd Einar Lillebostad. Khó có thể nhìn rõ gã nằm trên sàn kia đang cầm thứ gì, nhưng tôi thấy có vẻ giống chiếc chìa khóa. Xin lỗi nhé các anh, nhưng tôi đoán đó chỉ là Odd Einar Lillebostad vừa trở về nhà mà thôi.”

Otto trân trối nhìn hình ảnh thu được. Chiếc xe buýt của gã đang chứa những thiết bị đáng giá hơn một triệu krone, những thiết bị cả đi mua lẫn đi mượn có thể tập trung vào bàn tay và phóng to lên dễ dàng như chớp mắt để xem tên khốn bảo vệ kia nói có đúng không. Nhưng gã chẳng cần phải làm thế. Cành táo đang kêu răng rắc. Gã có thể trông thấy ánh sáng của những ô cửa sổ trong vườn. Cái ống bơ kêu lẹt xẹt.

“Bravo 2 gọi Alpha. Theo như thông tin trên thẻ ngân hàng của đối tượng, gã này tên là Odd Einar Lillebostad.”

Otto ngồi thừ ra trên ghế.

“Các vị cứ bình tĩnh,” Waaler nói. “Hắn có thể vẫn sẽ đến. Đúng không, Harry?”

Tên khốn Harry không trả lời. Thay vào đó, điện thoại di động của hắn kêu bíp bíp.

Marius Veland đăm đăm nhìn hai tờ giấy trắng được anh ta lấy ra khỏi phong bì.

“Người thân của anh là những ai?” người đàn ông hỏi.

Marius nuốt khan và định trả lời, nhưng không sao nói được.

“Tôi sẽ không giết anh,” người đàn ông nói. “Với điều kiện anh chịu làm theo lời tôi.”

“Bố mẹ tôi,” Marius nói khẽ. Giọng nói nghe như tín hiệu SOS thảm hại vậy.

Người đó yêu cầu Marius viết họ tên và địa chỉ của bố mẹ lên phong bì. Marius đặt bút lên giấy. Họ tên. Hai cái tên thân thuộc. Và Bjøford. Viết xong, anh ta nhìn chằm chằm vào đó. Nét chữ run run, nghiêng ngả.

Người đàn ông đó bắt đầu đọc to nội dung một bức thư. Marius ngoan ngoãn cầm bút viết theo lời ông ta.

“Con chào bố mẹ! Kế hoạch của con vừa thay đổi đột ngột! Con sẽ đi chơi Morocco cùng Georg, cậu bạn người Morocco con quen ở đây. Bọn con sẽ về nhà bố mẹ cậu ta tại một ngôi làng nhỏ trên núi, tên là Hassane. Con sẽ đi khoảng bốn tuần. Chắc sẽ khó có sóng điện thoại để liên lạc, nhưng con sẽ cố gắng viết thư cho bố mẹ, dù Georg bảo bưu điện ở đây hơi í ẹ. Nhưng con sẽ liên lạc với bố mẹ ngay khi con về, kính thư…”

“Marius,” Marius nói.

“Marius.”

Người đàn ông bảo Marius nhét thư vào phong bì, sau đó bỏ vào cái túi ông ta đang giơ ra trước mặt anh ta.

“Trên tờ giấy thứ hai, anh chỉ cần viết ‘Đi nước ngoài. Bốn tuần nữa về’. Rồi ký tên Marius và viết ngày tháng hôm nay vào. Xong rồi, cảm ơn.”

Marius ngồi trên ghế, trầm ngâm nhìn xuống đùi mình. Người đàn ông kia đang đứng ngay sau anh ta. Một luồng gió ùa tới khiến tấm rèm lay động. Ngoài kia rộn vang tiếng chim ríu rít. Người đàn ông nhoài người tới và đóng cửa sổ lại. Trong phòng giờ chỉ còn tiếng u u khe khẽ của chiếc radio kiêm máy nghe CD trên giá sách.

“Bài gì vậy?” người đàn ông hỏi.

“Blister In The Sun,” Marius đáp. Trước đó anh ta đã nhấn nút “phát lại”. Anh ta thích bài hát này. Anh ta sẽ viết bài ca ngợi nó. Một bài phê bình mang chất châm biếm nhẹ nhàng, có tính bao quát.

“Tôi từng nghe bài này trước đây rồi,” người đàn ông nói, tìm nút chỉnh âm lượng và vặn to lên. “Chỉ không nhớ được là ở đâu.”

Marius ngẩng đầu, đưa mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn mùa hè đã trở nên câm lặng, nhìn cành bạch dương như đang vẫy chào từ biệt, nhìn bãi cỏ xanh mon mởn. Qua hình ảnh in trên tấm kính, anh ta thấy người đàn ông sau lưng mình giơ súng và chĩa vào sau đầu anh ta.

“ ‘Xõa’ đi thôi!” Tiếng kêu phát ra từ dàn loa nhỏ.

Người đàn ông lại hạ súng xuống.

“Xin lỗi. Quên chưa tháo chốt an toàn. Vậy thôi.”

Marius nhắm chặt mắt lại. Shirley. Anh ta đang nghĩ về cô. Lúc này cô đang ở đâu?

“Giờ tôi nhớ ra rồi,” người đàn ông nói. “Đó là ở Praha. Ban nhạc Violent Femmes thì phải. Vợ tôi đã đưa tôi đi xem họ biểu diễn. Hát chẳng hay cho lắm, nhỉ?”

Marius mở miệng định trả lời, nhưng đúng lúc đó khẩu súng bật ra âm thanh như tiếng ho khô khốc, và chẳng ai biết được Marius nghĩ gì về Violent Femmes nữa.

Otto dán mắt vào ba cái màn hình. Sau lưng gã, Falkeid đang trao đổi với Bravo 2 bằng thứ ngôn ngữ của dân đạo chích. Tên khốn Harry đang trả lời cái điện thoại kêu bíp bíp. Hắn không nói nhiều. Chắc là có cô ả ma chê quỷ hờn nào đó muốn mây mưa đây mà, Otto nghĩ bụng, và dỏng tai lên nghe.

Waaler không nói gì, chỉ ngồi đó cắn đốt ngón tay với vẻ mặt vô cảm trong lúc quan sát Odd Einar Lillebostad bị dẫn đi. Không có còng tay. Không có lý do xác thực để nghi ngờ. Không có cái khỉ gì hết.

Otto vẫn tiếp tục theo dõi màn hình. Gã có cảm tưởng như mình đang ngồi cạnh lò phản ứng hạt nhân. Nhìn bề ngoài thì chẳng có gì đáng xem, còn bên trong lại đang sục sôi những thứ mà dù có cho vàng cũng chớ dại chọc vào. Quan sát màn hình kia đi.

Falkeid nói “nghe rõ và hết” rồi đặt bộ đàm xuống. Tên khốn Harry vẫn đang mớm cho ả kia những câu trả lời một âm tiết.

“Hắn không tới đâu,” Waaler nói, mắt vẫn nhìn các hình ảnh cho thấy những dãy hành lang và cầu thang không người.

“Giờ vẫn còn sớm mà,” Falkeid nói.

Waaler chậm rãi lắc đầu. “Hắn biết chúng ta đang ở đây. Trực giác mách bảo tôi thế. Lúc này hắn đang ngồi đâu đó cười nhạo chúng ta.”

Trên một cái cây ở trong vườn chứ đâu, Otto nghĩ thầm.

Waaler đứng dậy.

“Thôi, cứ thu dọn đồ đạc đi các cậu. Giả thuyết về ngôi sao năm cánh không còn đúng vững nữa rồi. Ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu.”

“Giả thuyết vẫn đứng vững.”

Ba người quay đầu nhìn về phía tên khốn Harry đang đút điện thoại vào túi.

“Tên hắn là Sven Sivertsen,” hắn nói. “Quốc tịch Na Uy, đang sống ở Praha, sinh năm 1946 tại Oslo nhưng trông trẻ hơn tuổi thật rất nhiều, theo như lời Beate Lønn đồng nghiệp của chúng tôi. Hắn đã hai lần bị bắt vì tội buôn lậu. Hắn đã tặng mẹ hắn một viên kim cương giống hệt như mấy viên chúng ta tìm thấy trên thi thể các nạn nhân. Mẹ hắn nói hắn đã về Oslo thăm mình vào tất cả các ngày chúng ta đang nhắc đến. Tại biệt thự Valle.”

Otto thấy mặt Waaler cứng đờ và biến sắc.

“Mẹ hắn,” Waaler gần như thì thào. “Tại ngôi nhà mà đỉnh cuối cùng của ngôi sao chỉ vào ư?”

“Phải,” tên khốn Harry đáp. “Lúc này bà ấy đang chờ hắn đến thăm. Vào tối nay. Một chiếc xe chở đội tiếp viện đang trên đường tới phố Schweigaards. Xe của tôi đang đỗ trên phố này.”

Hắn đứng dậy khỏi ghế. Waaler đang đưa tay xoa cằm.

“Chúng ta phải sắp xếp lại đội hình,” Falkeid nói, vớ lấy bộ đàm.

“Khoan đã!” Waaler la lên. “Không ai được có bất cứ hành động gì khi tôi chưa cho phép.”

Những người xung quanh nhìn hắn đầy trông đợi. Waaler nhắm mắt lại. Hai giây trôi qua. Sau đó Waaler lại mở mắt ra.

“Harry, anh ngăn chiếc xe lại trước khi nó đến nơi. Tôi không muốn xe cảnh sát xuất hiện trong vòng bán kính một cây số xung quanh ngôi nhà đó. Nếu hắn đánh hơi thấy mùi nguy hiểm dù là nhỏ nhất, chúng ta coi như xong. Tôi có biết chút ít về dân buôn lậu ở Đông Âu. Chúng luôn luôn - luôn luôn - chuẩn bị cho mình một lối thoát. Còn nữa, một khi đã để mất chúng thì không bao giờ tìm lại được chúng đâu. Falkeid, anh cùng đồng đội của anh ở lại đây và tiếp tục công việc cho tới khi có lệnh mới.”

“Nhưng vừa rồi chính anh bảo hắn không…”

“Cứ làm như tôi yêu cầu đi. Đây có thể là cơ hội duy nhất chúng ta có, và hiện tại tôi là người gánh mọi trách nhiệm nên tôi muốn đích thân xử lý việc này. Harry, anh phụ trách công việc ở đây nhé. Được không?”

Otto thấy tên khốn Harry nhìn Waaler chằm chằm, nhưng ánh mắt có vẻ vô hồn.

“Được không?” Waaler hỏi lại.

“Được,” tên khốn trả lời.