← Quay lại trang sách

PHẦN BỐN CHƯƠNG 26 Thứ Bảy
LINH HỒN. NGÀY TRỌNG ĐẠI

Khi những tia nắng lan tỏa khắp sườn núi Ekeberg vào sáng thứ Bảy, hứa hẹn lại một ngày nhiệt độ cao kỷ lục khác, Otto Tangen kiểm tra bộ trộn âm thanh một lần cuối.

Trong xe buýt vừa tối tăm vừa chật chội, lại còn bốc mùi mốc meo của quần áo, thứ mùi mà cả nước hoa xe hơi hiệu Elvis Presley lẫn thuốc lá cuốn của Otto đều không tài nào trị nổi. Đôi lúc gã có cảm giác như đang ngồi trong một boong ke ở chiến hào, với mùi tử khí nồng nặc xộc vào mũi, nhưng vẫn tách biệt khỏi những gì đang diễn ra ngay bên ngoài.

Ký túc xá sinh viên tọa lạc tại trung tâm mảnh đất ở đầu khu Kampen, trông ra khu Tøyen. Án ngữ hai bên, gần như song song với ngôi nhà bốn tầng xây bằng gạch đỏ cũ kỹ ấy, là hai tòa chung cư cao hơn có từ thập niên năm mươi. Ký túc xá có màu sơn và kiểu cửa sổ y hệt hai tòa nhà lân cận, hẳn là để cho cả khu có sự đồng bộ về hình thức. Thế nhưng, không gì có thể xóa nhòa sự cách biệt về tuổi tác giữa chúng, trông cứ như thể ký túc xá đã bị một vòi rồng hút lên cao rồi nhẹ nhàng thả xuống, lọt thỏm giữa khu nhà ở theo mô hình hợp tác xã.

Harry và Waaler thống nhất đỗ xe buýt trong bãi cùng với tất cả những xe khác, ngay phía trước ký túc xá sinh viên, ở đó không những bắt được tín hiệu tốt mà trông cái xe cũng không quá đáng ngờ. Người nào đi qua để ý thấy có thể sẽ cho rằng cái xe buýt han gỉ màu xanh dương hiệu Volvo với những ô cửa được phủ cao su isoprene là của ban nhạc rock Kindergarden Accident, chiếc xe với dòng chữ đen bên thân và hai hình đầu lâu thay cho dấu chấm trên hai chữ “i”.

Otto lau mồ hôi rồi kiểm tra xem toàn bộ hệ thống camera đã hoạt động tốt chưa, bao quát được hết các ngóc ngách chưa, và bất cứ thứ gì chuyển động bên ngoài nhà sẽ được phát hiện bởi ít nhất một chiếc camera, bằng cách đó họ có thể theo dõi mục tiêu ngay từ lúc hắn bước chân vào sảnh cho tới khi đứng trước ngưỡng cửa của một trong tám mươi phòng ký túc trải dài khắp tám dãy hành hang trên cả bốn tầng nhà.

Họ đã làm việc thâu đêm để chuẩn bị, sắp xếp vị trí và bắt vít camera lên tường. Otto vẫn còn cảm thấy cái vị đăng đắng như kim loại của vữa khô trong miệng và lớp vụn thạch cao trát tường màu vàng phủ kín hai vai chiếc áo khoác denim bẩn thỉu của gã, trông chẳng khác gì vảy gàu.

Cuối cùng Waaler cũng chịu nghe phân tích và nhận ra rằng nếu muốn công việc hoàn thành đúng thời hạn thì bắt buộc phải hy sinh phần âm thanh. Điều đó hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến việc bắt giữ, điểm trừ duy nhất chỉ là không thu được bằng chứng xác thực nếu mục tiêu nói ra điều gì có thể buộc tội hắn.

Họ cũng không lắp được camera ở thang máy. Nếu dùng camera không dây thì Otto ngồi trong xe buýt sẽ không thể thu được hình ảnh rõ nét vì tường bê tông đã chặn mất tín hiệu, còn nếu dùng loại có dây thì dù có đặt kiểu gì đi nữa, trông chúng hoặc là rất lộ liễu hoặc có thể bị vướng vào hệ thống máy móc của thang. Waaler chấp thuận đề xuất này vì dù sao thì trong thang máy lúc đó cũng sẽ chỉ có một mình đối tượng thôi. Những sinh viên ở ký túc phải cam kết giữ bí mật tuyệt đối và được cảnh sát nghiêm khắc chỉ thị khóa cửa, ở yên trong phòng từ bốn đến sáu giờ chiều.

Otto Tangen di chuyển vị trí của những ô hình ảnh nhỏ trên ba màn hình hiển thị cỡ lớn rồi tăng kích cỡ lên cho đến khi chúng tạo thành một bức tranh tổng thể đầy logic. Màn hình bên trái bao quát các hành lang phía Bắc, tầng bốn ở trên cùng và tầng trệt dưới cùng. Màn hình giữa theo dõi cổng vào ký túc xá sinh viên, tất cả các chiếu nghỉ và cửa các phòng nhìn ra thang máy. Màn hình bên phải sẽ bao quát các hành lang phía Nam.

Otto nhấn nút “Lưu”, đan hai tay đặt sau đầu và ngả người ra ghế kèm theo tiếng ậm ừ mãn nguyện. Gã có thể quan sát được toàn bộ ngôi nhà. Đám sinh viên trẻ. Nếu có thêm thời gian, có lẽ gã sẽ lắp thêm vài camera trong một số phòng ký túc. Dĩ nhiên là không để sinh viên nào biết. Những ống kính kiểu mắt cá bé tí tẹo được cài vào những nơi không bao giờ có thể phát hiện ra. Cùng với những chiếc micro của Nga. Những cô y tá thực tập người Na Uy trẻ trung phơi phới, rạo rực sức xuân. Gã có thể quay phim họ rồi bán những đoạn video qua các đầu mối liên lạc của mình. Tiên sư thằng khốn Waaler. Làm thế quái nào hắn biết được về Astrup và cái nhà kho ở Asker kia chứ! Một mối ngờ vực lướt qua tâm trí Otto rồi lại tan biến mất. Từ lâu gã đã nghi Astrup chịu xì tiền nuôi người xòe cánh che chở cho việc làm ăn của hắn ta rồi.

Otto châm một điếu thuốc lá. Hình ảnh từ các camera trông chẳng khác gì ảnh tĩnh, không có bất cứ chuyển động nào ở các hành lang sơn màu vàng hoặc trên cầu thang cho thấy đây là hình ảnh được phát trực tiếp. Đám sinh viên đang tận hưởng mùa hè trong phòng ký túc xá của mình chắc giờ vẫn đang nằm trên giường ngủ nướng. Nhưng nếu chịu khó đợi vài tiếng đồng hồ, biết đâu gã sẽ nhìn thấy mặt cái thằng được cô em xinh tươi phòng 303 mở cửa cho vào lúc hai giờ sáng thì sao. Cô nàng có vẻ ngà ngà say. Say và sẵn sàng nhập cuộc. Còn thằng kia thì chỉ trông sẵn sàng thôi. Otto nhớ đến Aud-Rita. Lần đầu tiên gã gặp cô ta trong buổi tiệc rượu ở nhà Nils trước khi kéo nhau đi quẩy tiếp, ai nấy đều chìa bàn tay mập ú ra bắt và khi cô ta đặt bàn tay nhỏ nhắn trắng trẻo vào tay Otto rồi dài giọng xưng tên “Aud-Rita”, gã cứ ngỡ như vừa nghe cô ta hỏi có phải gã đang tức giận không: Er’u drita.

Otto thở dài đánh thượt.

Thằng khốn Waaler bàn bạc phương án hành động với bên Đặc nhiệm mãi tới tận nửa đêm mới xong. Otto nghe thấy cuộc trao đổi giữa Waaler và sĩ quan chỉ huy lực lượng ở bên ngoài xe buýt. Trong hôm nay, một số sĩ quan thuộc đơn vị đặc biệt sẽ được chia theo nhóm ba người mai phục ở hành lang các tầng, tổng cộng là hai mươi tư người. Họ sẽ mặc trang phục đen, đội mũ trùm đầu đen, được trang bị súng tiểu liên MP5 đã no đạn cùng lựu đạn hơi cay và mặt nạ phòng độc. Nhận được tín hiệu từ xe buýt, tất cả sẽ lập tức hành động ngay khi mục tiêu gõ cửa hoặc tìm cách đột nhập vào một phòng nào đó. Ý nghĩ này khiến Ottto run lên vì phấn khích. Gã đã hai lần được chứng kiến họ hành động, phải nói là cực kỳ ấn tượng. Những tiếng phá cửa đánh rầm cùng ánh đèn lóe lên, chẳng khác gì buổi biểu diễn nhạc rock heavy, và trong cả hai lần đó, mục tiêu đều chết đứng vì sợ nên mọi chuyện kết thúc chỉ trong vòng vài giây. Otto được biết, mục đích của họ chính là thế, dọa cho mục tiêu sợ đến mất trí để chúng không còn khả năng suy nghĩ mà chống cự.

Otto dụi tắt điếu thuốc. Bẫy đã giăng xong. Giờ chỉ còn chờ con chuột xuất hiện nữa thôi.

Khoảng ba giờ cảnh sát sẽ có mặt. Waaler đã cấm mọi hành vi ra vào xe buýt trước và sau thời điểm đó. Hôm nay sẽ là một ngày vừa dài vừa nóng bức cho xem.

Otto quẳng người nằm xuống tấm đệm trên sàn xe. Gã băn khoăn tự hỏi lúc này chuyện gì đang diễn ra trong phòng 303 nhỉ. Gã nhớ chiếc giường của mình. Nhớ những chuyển động của nó. Và gã nhớ Aud-Rita.

Cùng lúc đó, cánh cổng đóng sầm lại sau lưng Harry. Anh đứng yên châm điếu thuốc lá đầu tiên trong ngày, mắt ngước nhìn bầu trời vẫn còn chìm trong màn sương sớm giống như tấm mạng mỏng tang sắp bị mặt trời đốt cháy. Đêm qua anh đã ngủ được một giấc. Rất sâu, liền mạch, không mộng mị. Một điều cứ ngỡ như không thể.

“Thứ kia rồi sẽ bốc mùi phải biết, Harry ạ! Dự báo nói hôm nay sẽ là ngày nóng kỷ lục kể từ năm 1907. Có thể thế.”

Người vừa thốt ra câu đó là Ali, sống ở tầng dưới nhà Harry và là ông chủ cửa hàng Niazi. Dù Harry có dậy sớm đến đâu đi nữa, thì tới lúc anh rời nhà đi làm, hai anh em Ali cũng tất bật công việc rồi. Ali giơ cây chổi và chỉ vào thứ gì đó trên vỉa hè.

Harry căng mắt ra nhìn thứ Ali đang chỉ. Một bãi phân chó. Anh đã không hề trông thấy nó lúc Vibeke đứng đúng chỗ đó vào đêm qua. Rõ ràng có người đã sao nhãng đôi chút khi dắt chó đi dạo vào sáng nay. Hoặc đêm qua.

Anh xem đồng hồ đeo tay. Hôm nay là một ngày trọng đại. Chỉ vài giờ nữa thôi, họ sẽ có được câu trả lời.

Harry hít khói thuốc tràn sâu vào hai lá phổi và cảm nhận sự hòa trộn giữa không khí trong lành với nicotine khiến anh sảng khoái đến nhường nào. Đây là lần đầu tiên trong suốt một thời gian rất dài anh có thể cảm nhận được vị của thuốc lá. Không những thế anh còn thấy ngon nữa. Trong giây phút ngắn ngủi, anh đã quên đi tất cả những thứ mình sắp đánh mất: công việc, Rakel, và linh hồn của anh.

Vì hôm nay là ngày trọng đại.

Và nó còn khởi đầu một cách rất thuận lợi.

Một lần nữa, đó là điều cứ ngỡ như không thể.

Harry có thể cảm thấy cô rất vui khi nghe được giọng anh.

“Anh nói chuyện với bố rồi. Ông rất vui lòng trông Oleg. Sis cũng sẽ đến chơi cùng.”

“Đêm mở màn?” Cô nói kèm theo điệu cười rộn rã ẩn chúa trong giọng nói. “Tại Nhà hát Quốc gia sao? Ôi chao ơi.”

Cô đang cường điệu hóa - thỉnh thoảng cô vẫn thế - nhưng Harry phát hiện anh cũng đang háo hức chẳng kém.

“Anh định mặc gì?” cô hỏi.

“Nhưng em đã bảo đồng ý đâu.”

“Còn phải xem đã.”

“Anh mặc vét.”

“Bộ nào?”

“Để xem… bộ anh mua trên phố Hegdehaugsveien ngày 17 tháng Năm năm kia nhé. Em biết mà, bộ màu xám với…”

“Đấy là bộ vét duy nhất anh có mà.”

“Thế thì chắc chắn anh sẽ mặc bộ đó.”

Cô bật cười. Tiếng cười mượt mà, giống như làn da và nụ hôn của cô vậy, nhưng vẫn là tiếng cười anh thích nhất. Đơn giản vậy thôi.

“Anh sẽ qua đón em lúc sáu giờ,” anh nói.

“Được rồi. Nhưng Harry này…”

“Sao?”

“Anh đừng nghĩ…”

“Anh biết. Chỉ là một vở kịch thôi mà.”

“Cảm ơn anh, Harry.”

“Ồ, em đừng khách sáo.”

Cô lại cười. Một khi cô đã bắt đầu vui vẻ, anh gần như có thể làm cô bật cười trước bất cứ điều gì, cứ như thể tâm trí họ đã hòa làm một, cùng nhìn mọi thứ qua một đôi mắt, và anh cứ chỉ trỏ bâng quơ mà chẳng cần phải nói bất cứ một lời nào cụ thể. Anh cố ép mình phải cúp máy.

Hôm nay là ngày trọng đại. Và đến giờ mọi thứ vẫn tốt đẹp.

Họ đã thống nhất để Beate ở cùng Olaug Sivertsen trong suốt thời gian diễn ra chiến dịch. Møller không muốn liều lĩnh khiến mục tiêu (hai ngày trước, Waaler bắt đầu gọi kẻ sát nhân là “mục tiêu” và giờ thì ai cũng bắt chước gọi theo) phát hiện ra cái bẫy rồi thay đổi thứ tự địa điểm gây án.

Điện thoại reo vang. Øystein gọi. Cậu ta hỏi thăm tình hình hiện giờ ra sao. Harry nói mọi chuyện vẫn tốt đẹp và hỏi cậu ta muốn gì. Øystein trả lời đó chính là điều cậu ta muốn: muốn biết tình hình thế nào rồi. Harry bỗng cảm thây lúng túng - anh không quen với kiểu thăm hỏi chu đáo như thế này.

“Cậu đang ngủ à?”

“Tôi ngủ đêm qua rồi,” Harry nói.

“Tốt. Còn mật mã thì sao? Đã giải xong chưa?”

“Ít nhiều. Tôi đã biết được thời gian và địa điểm. Chỉ chưa hiểu lý do thôi.”

“Vậy tức là giờ cậu đã đọc được chữ, nhưng lại không hiểu được ý nghĩa?”

“Đại loại thế. Những điều khác đành phải đợi đến khi chúng ta bắt được hắn thôi.”

“Cậu chưa hiểu chỗ nào?”

“Nhiều lắm. Chẳng hạn, tại sao hắn lại giấu xác của một nạn nhân? Hoặc những chi tiết nhỏ nhặt như chặt mất ngón tay ở bàn tay bên trái các nạn nhân, chỉ khác vị trí. Ngón trỏ của nạn nhân thứ nhất, ngón giữa của nạn nhân thứ hai, và ngón áp út của nạn nhân thứ ba.”

“Theo thứ tự à. Giống thể chế nhà nước nhỉ.”

“Ừ, nhưng sao không bắt đầu từ ngón cái? Chi tiết đó có ẩn chứa thông điệp nào không?”

Øystein phá lên cười.

“Bảo trọng nhé, Harry. Mật mã cũng giống như đàn bà: nếu không xử được họ thì cậu sẽ bị họ xử.”

“Chí lý.”

“Thế hả? Tốt, vì như vậy có nghĩa tôi là người chu đáo. Tôi có nhìn nhầm không đây, hình như vừa có khách vào xe, Harry ạ. Nói chuyện sau nhé.”

“Được.”

Harry quan sát làn khói thuốc đang chậm rãi bay lên theo vòng tròn. Anh nhìn đồng hồ. Vẫn còn một điều anh không nói với Øystein: anh có linh cảm những mảnh ghép còn lại rồi sẽ sớm trở về đúng vị trí của chúng thôi. Mọi chuyện xem ra dễ dàng quá thì phải, vì dù có đi theo nghi thức thì những vụ án mạng này có vẻ vẫn còn ẩn chứa một điều gì đó vô cảm, gần như dễ dàng nhận thấy trong đó không có bóng dáng nỗi oán hận, dục vọng hoặc đam mê. Hoặc thậm chí là tình yêu. Chúng diễn ra một cách quá hoàn hảo, gần như máy móc, đầy sách vở. Anh có cảm giác mình đang đấu cờ với máy tính chứ không phải một con người có đầu óc bấn loạn, không bình thường. Nhưng thôi, thời gian sẽ trả lời tất cả.

Anh nhìn đồng hồ đeo tay lần nữa.

Tim anh bắt đầu đập dồn.