← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 29 Thứ Bảy
CHÌM NGHỈM

Harry cất điện thoại vào túi áo khoác rồi ngả người ra sofa. Đội Pháp y có thể sẽ khó chịu, nhưng thực tình ở đây cũng chẳng có nhiều manh mối để mà phá hủy được. Rõ ràng hung thủ đã dọn dẹp sạch sẽ hiện trường sau khi gây án, hệt như những vụ khác. Harry thậm chí còn ngửi thấy mùi xà phòng thơm thoang thoảng khi áp mặt xuống sàn để kiểm tra mấy cục màu đen mà lúc mới nhìn qua anh tưởng là cao su bị đốt cháy trên vải sơn lót sàn nhà.

Một khuôn mặt hiện ra ở ngưỡng cửa.

“Bjørn Holm, Phòng Giám định Pháp y.”

“Tốt,” Harry nói. “Cậu có thuốc lá không?”

Anh đứng dậy và đi ra đứng ở cửa sổ để Holm cùng đồng nghiệp bắt tay vào việc. Ráng chiều chiếu xiên nhuộm vàng mặt trước những ngôi nhà, góc phố lẫn tàng cây ở Kampen và lan tới Tøyen. Trong những buổi tối như thế này, Harry không biết trên đời có thành phố nào đẹp hơn Oslo nữa không. Chắc chắn phải có chứ, chỉ là anh không biết thôi.

“Các cậu kiểm tra giúp tôi xem mấy cục đen đen kia là gì.”

Harry trỏ xuống sàn.

“Được,” Holm nói.

Harry cảm thấy chóng mặt. Anh đã hút một lèo tám điếu thuốc. Nó giúp anh kiềm chế cơn khát. Kiềm chế thôi chứ không hoàn toàn xua tan được. Anh nhìn chằm chằm ngón tay cái. Có thể nó bị cắt bằng kìm. Được phết sơn và keo dán. Búa và đục dùng để khắc ngôi sao năm cánh phía bên trên cánh cửa. Lần này hung thủ mang theo kha khá đồ nghề đây.

Anh đã hiểu được ý nghĩa của ngôi sao năm cánh. Và cả ngón tay. Nhưng tại sao lại phải dùng đến keo dán?

“Trông có vẻ giống cao su nóng chảy,” Holm nói. Cậu ta ngồi chồm hỗm trên sàn.

“Làm thế nào để khiến cao su chảy ra?” Harry hỏi.

“Châm lửa đốt. Hoặc dùng bàn ủi điện. Hoặc súng nhiệt.”

Holm nhún vai.

“Cao su nóng chảy có tác dụng gì?”

“Làm cao su lưu hóa,” người đồng nghiệp nói. “Dùng để sửa chữa các vật dụng hoặc ngăn chúng thấm nước. Như lốp xe hơi chẳng hạn. Hoặc để bít những vật cần kín hơi. Đại loại thế.”

“Thế còn chỗ cao su kia?”

“Cái đó thì tôi chịu. Xin lỗi nhé.”

“Cảm ơn cậu.”

Ngón cái đang chỉ lên trần phòng. Phải chi nó có thể chỉ cho mình biết đáp án của mật mã, Harry nghĩ thầm. Đây rõ ràng là mật mã. Họ đã bị hung thủ xỏ mũi và dắt đi cứ như mấy con vật ngu ngốc, vì thế mật mã này chắc chắn cũng phải có lời giải. Một lời giải thuộc loại đơn giản thôi nếu như nó được dành cho những tên ngốc có trí tuệ ở mức trung bình giống như anh.

Anh trân trối nhìn ngón tay. Chỉ lên trên. OK. Nghĩa là “Đã rõ”. Đã hiểu thông điệp.

Ánh tà dương vẫn đang rọi vào phòng.

Harry rít mạnh điếu thuốc. Nicotine lan đi trong huyết quản của anh, len qua những mao mạch chật hẹp từ hai lá phổi và chạy ngược lên trên. Người đầy chất độc, sức khỏe xuống dốc, bị thao túng nhưng được trao đủ dữ kiện. Mẹ kiếp!

Toàn thân Harry rung lên trong con ho dữ dội.

Hắn chỉ lên trần. Cửa phòng 406. Trần của tầng bốn. Dĩ nhiên rồi. Ngu. Quá ngu.

Harry xoay chìa khóa, mở cửa và tìm thấy công tắc đèn trên tường. Anh bước vào trong. Căn phòng áp mái khá cao và thoáng đãng dù không có bất kỳ cửa sổ nào. Những kho chứa đồ được đánh số, mỗi kho rộng hai mét vuông, nằm kề bên nhau dọc theo bốn bức tường. Đồ đạc chất đống đằng sau những tấm lưới mắt cáo trong quá trình chuyển giao từ chủ sở hữu tới xe rác: những tấm đệm thủng lỗ chỗ, đồ nội thất lỗi thời, hộp các tông đựng quần áo, đồ điện vẫn còn dùng được nên chưa thể vứt đi.

“Chả khác gì hỏa ngục,” Falkeid lẩm bẩm khi cùng hai sĩ quan Đặc nhiệm bước vào.

Harry nghĩ, hình ảnh so sánh ấy quả là chính xác. Ngoài kia mặt trời dù xuống thấp và đang dần lụi tắt khi ngả về Tây, nhưng nó đã dành cả ngày để thiêu đốt những ô ngói lợp mái mà từ đó hơi nóng hầm hập tỏa ra không khác gì máy sưởi tích nhiệt và biến căn phòng áp mái thành một phòng tắm hơi đúng chuẩn.

“Có vẻ kho chứa đồ của phòng 406 nằm ở hướng này,” Harry nói và đi sang phải.

“Sao anh lại chắc chắn cậu ta đang ở trong căn phòng này?”

“À, vì chính hung thủ đã chỉ ra một sự thật hiển nhiên là tầng năm nằm trên tầng bốn. Trong trường hợp này là tầng áp mái.”

“Chỉ ra ư?”

“Đại loại như đuổi hình bắt chữ ấy mà.”

“Tuyệt đối không thể có xác chết trên này được, anh biết chứ?”

“Sao lại thế?”

“Hôm qua chúng tôi đã cho chó nghiệp vụ lên đây kiểm tra. Một xác chết nằm đây suốt bốn tuần, trong cái nóng nhu thế này… Nếu coi cơ quan khứu giác của loài chó là cơ quan thính giác của con người thì việc tìm xác chẳng khác nào tìm tiếng còi hụ ở trong đây. Con chó dù có kém cỏi đến mấy đi nữa cũng không thể không phát hiện ra. Mà con hôm qua là con giỏi nhất rồi đấy.”

“Thế nếu cái xác bị bọc trong một thứ ngăn không cho mùi thoát ra thì sao?”

“Các phân tử khí chuyển động với tốc độ nhanh và có thể đi qua ngay cả lỗ hổng có kích thước siêu vi. Không thể nào có chuyện…”

“Cao su lưu hóa,” Harry nói.

“Gì cơ?”

Harry dừng lại trước một trong mấy kho chứa đồ. Hai sĩ quan mặc đồng phục lập tức vào vị trí cùng với hai thanh xà beng.

“Ta thử cách này trước nhé, các cậu.”

Harry đung đưa trước mặt họ chùm chìa khóa có móc treo hình đầu lâu.

Chiếc chìa nhỏ nhất tra vừa ổ.

“Để tôi vào một mình,” Harry nói. “Mấy cậu bên Pháp y không thích hiện trường bị giày xéo đâu.”

Anh mượn chiếc đèn pin và đúng trước một tủ quần áo cao lớn màu trắng có cửa đôi, cái tủ choán gần hết không gian bên trong kho. Anh đặt những ngón tay lên tay nắm và chuẩn bị tinh thần trước khi giật cửa mở. Mùi quần áo ẩm mốc, bụi bặm và mùi gỗ xộc vào mũi anh. Anh bật đèn pin lên. Có đến ba thế hệ vét màu xanh dương xếp thành hàng trên thanh treo quần áo, chắc là đồ gia truyền của Marius. Harry rọi đèn vào bên trong và đưa tay vuốt lớp vải. Vải len thô. Một trong mấy bộ đó được phủ một lớp nylon mỏng. Bên trong lớp nylon là một chiếc túi màu xám đựng vét.

Harry đóng cửa tủ lại và hướng về bức tường phía cuối kho, ở đó có hai tấm rèm - trông có vẻ giống đồ tự may - đang phủ lên giá treo quần áo. Harry kéo rèm ra. Một hàm răng nhỏ sắc lẻm của loài thú săn mồi hằm hè nhe về phía anh trong câm lặng. Những phần còn lại của bộ lông giờ đã ngả sang màu xám xịt, cặp mắt nâu tròn như bi ve cần được đánh bóng lại.

“Một con chồn mactet,” Falkeid nói.

“Ừm.”

Harry đưa mắt nhìn quanh. Không có nhiều chỗ để mà tìm. Lẽ nào anh thực sự đã nhầm?

Đột nhiên anh nhìn thấy một tấm thảm cuộn tròn. Đó là thảm Ba Tư - hay ít ra là anh đoán thế - và nó đang dựng dựa vào lưới mắt cáo, bằng nửa chiều cao từ sàn đến trần. Harry đẩy một cái ghế mây tới bên tấm thảm, trèo lên ghế rồi chiếu đèn xuống bên trong tấm thảm. Ba sĩ quan cảnh sát đứng ngoài chăm chú nhìn anh, vẻ mặt đầy căng thẳng.

“Được rồi,” Harry nói, trèo xuống khỏi ghế và tắt đèn pin.

“Thế nào?” Falkeid hỏi.

Harry lắc đầu. Một con thịnh nộ đột ngột bùng lên và anh giơ chân đạp vào thân tủ quần áo khiến nó lắc lư hệt như vũ công múa bụng. Bầy chó sủa ran. Một ly, một ly thôi, một khoảnh khắc giải thoát khỏi sự tra tấn này. Vừa quay người rời đi thì anh nghe thấy tiếng sột soạt. Như thể có vật gì đó đang trượt xuống một bức tường. Anh lập tức quay ngoắt lại và chỉ kịp nhìn thấy cánh cửa tủ bật mở tung trước khi cái túi đựng vét đổ nhào về phía anh, đẩy anh ngã vật ra sàn.

Harry biết chắc mình đã lịm đi trong một giây, vì khi mở mắt ra, anh đang nằm ngửa và cảm thấy con đau nhức nhối phía sau đầu. Anh hít phải đám bụi mù mịt bốc lên từ trên mặt sàn gỗ khô cong. Sức nặng của cái túi đã ép sạch không khí khỏi hai lá phổi của anh, khiến anh tưởng như mình đang chìm nghỉm, bị đè dưới một cái túi nhựa to tướng chúa đầy nước. Anh hoảng hốt đấm mạnh và cảm thấy tay mình chạm phải bề mặt nhẵn nhụi, rồi bên trong có thứ gì đó mềm mại lộ ra.

Harry đờ người, toàn thân bất động. Một cách từ từ, anh cố gắng điều chỉnh tầm nhìn, dần dần cảm giác chìm nghỉm cũng bắt đầu tan biến. Thay vào đó là cảm giác mình đã bị chết đuối.

Một cặp mắt đờ đẫn đang nhìn anh từ phía sau lớp vải nhựa mỏng màu xám.

Họ đã tìm được Marius Veland rồi.