← Quay lại trang sách

Charlie Parker plays bossa nova

Bird [4E] đã trở lại.

Nghe mới kêu làm sao! Phải, Bird đã trở lại với những cái đập cánh mạnh mẽ. Khắp nơi trên hành tinh này, từ Novosibirsk đến Timbuktu, ai nấy đều ngước lên trời, dõi theo bóng chú chim khổng lồ đó và reo hò. Một lần nữa, thế giới sẽ lại tràn ngập ánh dương mới.

Đang là năm 1963. Đã nhiều năm trôi qua kể từ lần cuối cùng mọi người nghe thấy cái tên Charlie Parker, tức Bird. Hiện Bird đang ở đâu, làm gì? Những người yêu nhạc jazz trên khắp thế giới cứ xì xào to nhỏ. Chắc chắn anh ta vẫn chưa chết. Vì chưa ai nghe bảo anh ta đã chết. Nhưng mà, ai đó nói, cũng có ai nghe bảo anh ta vẫn còn sống đâu.

Tin tức cuối cùng mà mọi người nghe thấy về Bird là việc anh được người bảo trợ là nữ bá tước Nica đón về và hiện đang chiến đấu với bệnh tật tại dinh thự của bà. Ai hâm mộ nhạc jazz đều biết Bird là một con nghiện khét tiếng. Nghiện heroin – thứ bột trắng gây chết người. Thêm vào đó còn có tin đồn anh bị viêm phổi nặng, mắc đủ thứ bệnh trong nội tạng, bị các triệu chứng của bệnh tiểu đường hành hạ, hậu quả là mắc cả bệnh thần kinh. Cho dù may mắn kéo dài được sự sống thì giờ cũng giống như người tàn phế, không còn cầm nhạc cụ được nữa. Cứ như thế, Bird biến mất trước mặt mọi người, trở thành một huyền thoại đẹp đẽ trong giới nhạc jazz. Đó là vào khoảng năm 1955.

Nhưng 8 năm sau, vào mùa hè năm 1963, một lần nữa, Charlie Parker lại cầm cây kèn alto saxophone lên và bắt tay thu một album tại phòng thu ở gần New York. Tên của album là Charlie Parker chơi bossa nova [5E] .

Bạn có tin được không?

Bạn nên tin. Vì chuyện đó thực sự đã xảy ra.

Đây là phần đầu của bài luận tôi viết hồi còn là sinh viên. Bài luận đầu tiên trong đời được in cùng với số tiền nhuận bút ít ỏi.

Đương nhiên, chẳng có đĩa hát nào tên là Charlie Parker plays bossa nova cả. Charlie Parker mất vào ngày 12 tháng Ba năm 1955, mãi đến năm 1962, nhạc bossa nova mới bùng nổ tại Mỹ nhờ vào các buổi diễn của Stan Getz... Nhưng tôi đã viết bài phê bình đĩa nhạc giả tưởng đó với giả định rằng nếu Charlie Parker còn sống tới thập niên 60, hứng thú với nhạc bossa nova và biểu diễn loại nhạc đó thì...

Tuy nhiên, tay tổng biên tập của tờ tạp chí văn nghệ trường đại học đã chọn bài luận này lại tưởng đĩa nhạc đó có thật nên cứ thế cho đăng như một bài phê bình âm nhạc bình thường mà không hề nghi ngờ. Em trai tổng biên tập, đồng thời là bạn thân của tôi, đã tiếp thị tôi với tờ tạp chí rằng: “Có tên này viết lách hay lắm, dùng hắn thử xem” (tờ tạp chí này ra đến số thứ tư thì đình bản và bài luận của tôi được đăng ở số thứ ba).

Tôi viết bài luận đó theo bối cảnh là một cuốn băng thu âm quý giá của Charlie Parker được tình cờ tìm thấy trong phòng lưu trữ của công ty thu âm và đây là lần đầu tiên cuốn băng được biết đến. Thật ngại khi tự mình khen mình nhưng đó là một câu chuyện bịa đặt hợp lý đến từng chi tiết, một bài luận chặt chẽ, xét theo ý nghĩa nào đó thì còn hùng hồn nữa. Đến nỗi viết xong, bản thân tôi còn suýt tưởng đĩa nhạc đó có thật.

Khi tờ tạp chí được phát hành, có không ít phản hồi dành cho bài luận của tôi. Đây vốn dĩ chỉ là tờ tạp chí văn nghệ của một trường đại học bình thường nên chẳng mấy khi có phản hồi đối với các bài báo. Nhưng trên thế giới này, số lượng người sùng bái Charlie Parker không hề nhỏ nên đã có một vài bức thư gửi đến ban biên tập để phản đối “trò đùa nhạt nhẽo”, “sự báng bổ vô tâm” của tôi. Thật khó để nhận định do mọi người thiếu óc hài hước hay là óc hài hước của tôi vốn dĩ lệch lạc. Nhưng vẫn có người thành thật tin vào bài báo và ra tận cửa hàng đĩa để tìm mua đĩa nhạc đó.

Tổng biên tập tuy có phàn nàn về việc tôi chơi khăm anh ta (thực tế thì không hẳn là chơi khăm, chỉ là tôi lược bỏ phần giải thích chi tiết thôi) nhưng có vẻ trong thâm tâm lại vui khi thấy bài báo nhận được nhiều phản ứng đến vậy, cho dù phần lớn là chỉ trích. Bằng chứng là anh ta bảo tôi sau này có viết gì, phê bình hay sáng tác, thì cứ đưa cho anh ta xem (chưa kịp đưa thì tờ tạp chí đã biến mất).

Đoạn sau của bài luận mà tôi nói ở trên là thế này:

… Charles Parker và Antonio Carlos Jobim, ai có thể dự đoán về một sự kết hợp đỉnh cao như vậy chứ: Jimmy Raney chơi guitar, Jobim chơi piano, Jimmy Garrison chơi bass, Roy Haynes chơi trống. Thật là một nhóm nhạc công hấp dẫn, chỉ nhìn những cái tên thôi đã thấy trống ngực đập liên hồi rồi. Và đương nhiên, chơi alto saxophone không ai khác là Charlie (Bird) Parker.

Dưới đây là tên các bài trong đĩa nhạc.

Mặt A

Corcovado

One I loved (O Amor em Paz)

Just Friend

Bye Bye Blues (Chega de Saudade)

Mặt B

Out of Nowhere

How Insensitive (Insensatez)

Once Again (Outra Vez)

Dindi

Trừ hai bài “Just Friend” và “Out of Nowhere” ra thì còn lại đều là các bài nổi tiếng do Carlos Jobim sáng tác. Hai bài không phải của Carlos Jobim đó là hai bài điển hình được mọi người biết tới bởi phần trình diễn xuất sắc của chính Parker trước đây, nhưng ở đĩa này lại được trình diễn bằng một phong cách hoàn toàn mới, với giai điệu bossa nova (và riêng hai bài này, phần đệm đàn dương cầm được chuyển từ Jobim sang nhạc công tài hoa dày dạn kinh nghiệm là Hank Jones).

Là một người yêu nhạc jazz, bạn cảm thấy thế nào khi nghe tên của đĩa nhạc là Charlie Parker plays bossa nova ? Đầu tiên bạn sẽ ngạc nhiên kiểu như “Hả!” rồi tiếp theo, sự tò mò và kỳ vọng lớn dần lên trong bạn đúng không? Nhưng chẳng bao lâu sau, sự thận trọng bắt đầu len lỏi vào tâm trí bạn... Như thể bầu trời bên sườn núi mới đây còn đang trong xanh rực rỡ, nay bỗng xuất hiện đám mây đen u ám.

Gượm đã, Bird, tay Charlie Parker đó chơi nhạc bossa nova hả? Bird thực sự muốn chơi loại nhạc đó sao? Phải chăng anh ta đã nhượng bộ với chủ nghĩa thương mại, bị hãng thu âm dụ dỗ nên đã chơi cả “loại nhạc phong trào” thời bấy giờ? Giả dụ anh ta thực sự muốn chơi loại nhạc đó đi nữa thì liệu phong cách trình diễn alto saxophone thấm đẫm chất bebop [6E] đến tận xương tủy của anh ta liệu có hòa hợp được với thể loại nhạc trữ tình bossa nova đến từ vùng Nam Mỹ không?

Mà thôi, chưa bàn tới phong cách âm nhạc, liệu rằng sau 8 năm gián đoạn, anh ta còn sử dụng được nhuần nhuyễn thứ nhạc cụ đó không? Liệu anh ta còn giữ được tính sáng tạo và khả năng biểu diễn ở trình độ cao không?

Thú thực là bản thân tôi cũng không tránh khỏi có những lo lắng tương tự. Một mặt, tôi nóng lòng muốn nghe thứ âm nhạc đó càng sớm càng tốt, nhưng mặt khác, tôi cũng sợ rằng mình sẽ thất vọng sau khi nghe xong. Tuy nhiên, sau khi tập trung nghe hết đĩa nhạc này vài lần, tôi muốn tuyên bố thế này. Mà không, tôi có thể trèo lên nóc nhà cao tầng, hét thật to để mọi ngóc ngách đều nghe thấy. Rằng, nếu bạn là người yêu nhạc jazz, mà không, chỉ cần bạn là người yêu âm nhạc thôi, thì bạn nhất định phải nghe thứ âm nhạc quyến rũ được tạo ra bởi một trái tim nóng và một cái đầu lạnh này.

(Lược bỏ)

Đầu tiên, thứ khiến tôi kinh ngạc ở đĩa nhạc này là phong cách chơi dương cầm giản đơn, không thừa thãi của Carlos Jobim và sự kết nối tài tình không sao tả xiết của những câu nhạc phóng khoáng được phát ra bởi tài đối ứng của Bird. Có thể bạn sẽ nói, chẳng phải giọng của Carlos Jobim (anh ta không hát. Tôi đang nói đến giọng của nhạc cụ thôi) quá khác với giọng của Bird, xét cả về chất lẫn xu hướng sao? Đương nhiên, giọng của hai người có sự khác biệt lớn. Tìm điểm giống còn khó hơn là tìm điểm khác. Chưa kể, dường như cả hai không hề cố gắng để nương âm nhạc của mình theo âm nhạc của đối phương. Tuy nhiên, chính cảm giác lạ lẫm, chính sự lệch pha trong giọng của hai người đã trở thành lực đẩy để tạo ra thứ âm nhạc tuyệt đẹp có một không hai.

Trước hết, tôi muốn bạn nghe bài “Corcovado”, bài đầu tiên của mặt A. Ở bài này, Bird không thổi phần chủ đề mở đầu. Chủ đề mà Bird biểu diễn chỉ là một điệp khúc ở đoạn cuối. Đầu tiên, chỉ có mình Carlos Jobim và cây dương cầm, nhẹ nhàng chơi chủ đề quen thuộc kia. Nhóm nhạc công chỉ lặng lẽ ở phía sau. Giai điệu đó khiến chúng ta liên tưởng tới ánh mắt của một thiếu nữ đang ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh đêm tuyệt đẹp. Hầu hết bản nhạc được trình diễn bằng một tổng, thi thoảng đệm thêm hợp âm đơn giản. Kiểu như nhẹ nhàng luồn cái gối mềm xuống dưới vai thiếu nữ.

Thế rồi, khi đoạn chủ đề bằng dương cầm kết thúc, tiếng alto saxophone của Bird mới âm thầm bước vào, hệt như cái bóng hoàng hôn nhập nhoạng lẻn vào qua khe rèm. Khi ta nhận ra thì anh ta đã ở đó rồi. Câu nhạc trang nhã và mượt mà đó giống như một cảm xúc đẹp đẽ giấu tên, len lỏi vào trong giấc mơ của bạn vậy. Để lại trên đồi cát bên trong tâm hồn bạn những viền cát tinh xảo như những dấu tích mềm mại mà bạn thầm mong không bao giờ biến mất...

Tôi sẽ lược bỏ đoạn sau. Đoạn sau chỉ toàn những câu tô vẽ như đúng rồi. Nhưng hẳn là bạn cũng hình dung được phần nào thứ âm nhạc mà tôi miêu tả rồi đúng không? Dù đương nhiên thứ âm nhạc đó không tồn tại. Hoặc là thứ chắc chắn không thể tồn tại .

Câu chuyện tạm kết thúc ở đây. Giờ đến chuyện xảy ra sau này.

Trong suốt nhiều năm, tôi quên hẳn mình đã từng viết bài luận đó hồi sinh viên. Phần vì đời sống của tôi sau này hối hả hơn tôi tưởng, vả lại, bài phê bình âm nhạc giả tưởng đó rốt cuộc cũng chỉ là một trò đùa tắc trách vô ưu thời tuổi trẻ. Tuy nhiên, khoảng 15 năm sau, bài luận đó đã trở về với tôi theo một cách đầy bất ngờ. Hệt như cái boomerang ta quên bẵng mình đã ném đi bỗng nhiên bay về vào lúc ta không ngờ đến.

Trong một lần lưu lại thành phố New York vì công việc, rảnh rang nên tôi đi tản bộ quanh khách sạn rồi tạt vào một cửa hàng bán băng đĩa cũ nhỏ trên phố East 14. Tại đó, tôi tình cờ tìm thấy đĩa hát có tiêu đề là Charlie Parker plays bossa nova ở quầy đĩa của Charlie Parker. Có vẻ như là một bản thu riêng, được in lậu. Mặt trước vỏ đĩa màu trắng, không có tranh hay ảnh gì, chỉ có duy nhất dòng tiêu đề được in bằng kiểu chữ màu đen ảm đạm. Mặt sau là tên bài hát và các nhân sự. Ngạc nhiên ở chỗ tên bài và người biểu diễn hoàn toàn trùng khớp với những gì tôi bịa ra hồi đại học. Có đúng hai bài là Hank Jones chơi dương cầm thay cho Carlos Jobim.

Cầm cái đĩa trên tay, tôi cứ đứng đực ra đó, không thốt nổi lời nào. Dường như một bộ phận nhỏ đâu đó trong cơ thể tôi đã bị tê liệt. Tôi đưa mắt nhìn quanh lần nữa. Đây có thật là New York không? Chắc chắn đây là trung tâm của thành phố New York rồi. Tôi đang ở trong một cửa hàng nhỏ bán băng đĩa cũ. Không phải bị lạc trong thế giới ảo tưởng. Cũng không phải đang trong giấc mơ siêu thực.

Tôi lấy thử đĩa ra khỏi hộp đĩa. Trên đĩa có dán một nhãn màu trắng, bên trên in tên đĩa và các bài hát. Không có logo của công ty thu âm. Tôi nhìn thử vào rãnh ghi âm thì thấy mỗi mặt đĩa đều có bốn bài. Tôi hỏi người nhân viên trẻ tóc dài ở quầy tính tiền là có thể nghe thử đĩa này không. Cậu ta lắc đầu bảo máy nghe nhạc của cửa hàng đang bị hỏng nên không nghe thử được. Cậu ta xin lỗi.

Đĩa hát đề giá 35 đô la. Tôi lưỡng lự không biết nên làm thế nào. Nhưng rốt cuộc, tôi rời khỏi cửa hàng mà không mua chiếc đĩa. Bởi tôi nghĩ chắc đó là trò đùa tào lao của ai đó. Một người ham vui đã làm chiếc đĩa giả chỉ có vỏ, không có ruột, theo đúng những gì mà tôi từng miêu tả. Người đó đã lấy một chiếc đĩa khác cũng có bốn bài ở mỗi mặt, ngâm vào nước để lột nhãn cũ và thay nhãn tự chế vào. Trả 35 đô la cho một thứ giả mạo đó thì thật ngu ngốc.

Tôi vào quán ăn Tây Ban Nha gần khách sạn, uống bia và ăn bữa tối đơn giản. Khi tiếp tục lang thang tản bộ sau đó, đột nhiên cảm giác hối hận dâng trào trong tôi. Lẽ ra tôi nên mua đĩa hát đó. Dù đó là đĩa hát giả mạo vô nghĩa, dù giá của nó quá đắt đi nữa thì vẫn nên mua. Coi như một món đồ kỷ niệm kỳ quặc trong cuộc đời nhiều ngã rẽ của tôi. Thế là tôi lại đi thẳng đến phố 14. Tôi cố gắng đi thật nhanh nhưng đến nơi thì cửa hàng đã đóng cửa. Tấm bảng gắn trên cửa cuốn ghi ngày thường mở từ 11 giờ 30 sáng, đóng cửa lúc 7 giờ 30 tối.

Gần trưa hôm sau, tôi lại đến đó lần nữa. Một người đàn ông trung niên, tóc lưa thưa, mặc áo len cổ tròn đã sờn ngồi ở quầy tính tiền, vừa đọc trang thể thao của một tờ báo vừa uống cà phê. Hình như cà phê vừa được pha bằng máy, mùi thơm dịu nhẹ, tươi mới còn phảng phất trong cửa hàng. Vì mới mở cửa nên ngoài tôi ra chưa có khách nào, cái loa nhỏ trên trần nhà phát ra tiếng nhạc xưa cũ của Pharoah Sanders. Có vẻ người đàn ông là chủ cửa hàng.

Tôi tìm thử ở quầy của Charlie Parker nhưng không thấy cái đĩa đâu. Chắc chắn tối qua tôi đã trả lại ở quầy đó. Không còn cách nào khác, tôi buộc phải lục tất cả các hộp đĩa ở khu vực nhạc jazz. Biết đâu cái đĩa bị lẫn vào chỗ khác. Nhưng tôi tìm mãi vẫn không thấy cái đĩa. Hay nó đã được bán chỉ trong khoảng thời gian ngắn? Tôi đến quầy tính tiền, nói với người đàn ông trung niên mặc áo len cổ tròn: “Tôi đang tìm đĩa nhạc jazz mà tôi đã trông thấy ở đây hôm qua.”

“Đĩa gì cơ?” Anh ta hỏi, mắt vẫn không rời khỏi tờ New York Times .

“ Charlie Parker chơi bossa nova, ” tôi nói.

Người đàn ông đặt tờ báo xuống, gỡ cặp kính lão gọng kim loại mảnh ra rồi từ từ hướng ánh mắt về phía tôi. “Xin lỗi, anh có thể nhắc lại được không?”

Tôi nhắc lại. Người đàn ông không nói gì, nhấp một ngụm cà phê rồi khẽ lắc đầu.

“Không có đĩa nào như vậy cả.”

“Đương nhiên rồi, tôi nói.

“Nếu là đĩa Perry Como hát Jimi Hendrix thì có.”

“Perry Como hát..” Nói đến đó thì tôi nhận ra là anh ta đang đùa. Kiểu người nói đùa mà không nhếch mép. “Nhưng tôi đã nhìn thấy thật mà, tôi nói. “Dù tôi nghĩ cái đĩa được làm như một trò đùa thôi”

“Ý anh là đã nhìn thấy ở đây ?”

“Vâng. Chiều hôm qua, ở đây.” Tôi giải thích về cái đĩa. Rằng vỏ đĩa trông như thế nào, có những bài gì. Và còn dán giá 35 đô la.

“Chắc anh bị nhầm rồi. Cửa hàng của tôi không có đĩa nào như thế. Việc mua và định giá đĩa nhạc jazz đều do một tay tôi làm nên nếu nhìn thấy đĩa đó thì dù không thích tôi cũng sẽ nhớ.”

Nói rồi anh ta lắc đầu, đeo cặp kính lại. Anh ta tiếp tục đọc nốt bài báo thể thao, nhưng như thể sực nhớ ra, anh hạ kính xuống, nheo mắt lại rồi nhìn tôi chằm chằm. Anh ta nói: “Nhưng nếu sau này anh có được cái đĩa đó thì cho tôi nghe với nhé.”

Còn một chuyện nữa xảy ra sau này.

Chuyện xảy ra sau đó một thời gian (thật ra là mới xảy ra gần đây), một đêm nọ, tôi nằm mơ thấy Charlie Parker xuất hiện. Trong giấc mơ, Charlie Parker trình diễn bài “Corcovado” cho tôi, chỉ riêng cho mình tôi. Một màn độc tấu alto saxophone không có nhóm nhạc công.

Bird đứng một mình trong vệt nắng dài rọi vào từ cái khe nào đó. Có lẽ là nắng buổi sớm. Thứ ánh nắng tươi mới, trực diện, chưa có những ngụ ý không cần thiết. Gương mặt quay về phía tôi của Bird tuy bị ngược nắng nhưng tôi vẫn nhìn ra được anh ta mặc bộ com lê hai hàng khuy sẫm màu cùng chiếc cà vạt sáng màu trên nền áo sơ mi trắng. Cây kèn alto saxophone anh ta cầm trên tay bẩn tới mức không còn lời nào để miêu tả, toàn là bụi và gỉ sét. Một phím đã gãy được cố định tạm bợ bằng băng dính và cán thìa. Trông thấy vậy, tôi chỉ biết lắc đầu. Với thứ nhạc cụ tàn tạ thế này thì làm sao có thể thổi ra được thứ âm thanh tử tế, cho dù đó là Bird?

Đúng lúc ấy, đột nhiên mũi tôi ngửi thấy mùi cà phê thơm phức. Một mùi thơm vô cùng quyến rũ. Mùi cà phê đen mới pha đậm đà, nóng hổi. Lỗ mũi tôi khẽ giật giật vì vui sướng. Nhưng dù bị mùi hương thu hút thì tôi vẫn không rời mắt khỏi Bird dù chỉ một giây. Bởi chỉ cần sểnh một chút thôi, rất có thể Bird sẽ biến mất ngay.

Không hiểu tại sao nhưng lúc ấy, tôi biết rõ đó là giấc mơ... Rằng tôi đang mơ thấy Bird xuất hiện. Điều này thi thoảng vẫn xảy ra. Nằm mơ nhưng lại biết chắc rằng “mình đang mơ”. Tôi cũng thấy bất ngờ rằng mình có thể ngửi được mùi cà phê rõ đến vậy trong giấc mơ.

Cuối cùng Bird cũng đưa búp kèn lên miệng, thận trọng thổi một tiếng như để thử dăm kèn. Khi âm thanh đó dần tan biến đi theo thời gian, anh ta lại thận trọng và nhẹ nhàng thổi thêm vài âm khác tương tự. Những âm thanh ấy lơ lửng trong không trung suốt một lúc lâu rồi mới khẽ khàng rơi xuống mặt đất. Khi tất cả những âm thanh ấy rơi hết xuống mặt đất và bị hút vào trong tĩnh lặng, Bird lại tuôn ra một tràng âm thanh khác, kiên định và sâu sắc hơn hẳn lần trước. Cứ như thế, bản“Corcovado” bắt đầu.

Biết diễn tả thứ âm nhạc đó như thế nào nhỉ. Sau này khi nhớ lại, tôi thấy âm nhạc mà Bird trình diễn cho riêng mình tôi trong giấc mơ giống với sự tỏa sáng toàn diện trong khoảnh khắc hơn là một dòng chảy của âm thanh. Tôi nhớ rất rõ về sự tồn tại của thứ âm nhạc ấy. Nhưng lại không thể tái hiện được nội dung. Cũng không lần ngược lại được thời gian. Tương tự như việc không thể diễn tả bằng lời các họa tiết trong vòng tròn Mandala. Tôi chỉ có thể nói đó là thứ âm nhạc chạm được tới nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn. Thứ âm nhạc mà trước và sau khi nghe, ta dường như thấy cấu tạo cơ thể mình đã khác đi đôi chút... Quả thật, trên thế giới có tồn tại thứ âm nhạc như vậy.

“Khi tôi chết, tôi mới ba tư tuổi. Ba mươi tư tuổi thôi đấy.” Bird nói với tôi. Tôi nghĩ chắc là nói với tôi. Vì trong phòng chỉ có tôi và Bird.

Tôi không biết phải phản ứng thế nào với câu nói của Bird. Rất khó có được hành động phù hợp khi đang trong giấc mơ. Vì vậy, tôi im lặng chờ Bird nói tiếp.

“Thử nghĩ giúp tôi đi, rằng chết ở tuổi ba mươi tư nghĩa là như thế nào?” Bird tiếp tục.

Tôi thử suy nghĩ, giả sử mình chết ở tuổi ba mươi tư thì lúc đó sẽ cảm thấy thế nào. Tôi ở tuổi ba mươi tư đang trong giai đoạn mới bắt đầu nhiều thứ.

“Đúng thế, ngay cả tôi cũng mới bắt đầu thôi” Bird nói. “Mới bắt đầu sống cuộc đời mình. Nhưng khi nhận ra và nhìn xung quanh thì tất cả đã kết thúc. Anh ta khẽ lắc đầu. Toàn bộ gương mặt anh ta vẫn ở trong bóng tối. Thế nên tôi không nhìn được biểu cảm của anh ta. Cây kèn trầy xước, dơ bẩn treo lủng lẳng trên cổ anh ta.

“Tất nhiên cái chết luôn đến bất thình lình,” Bird nói. “Nhưng đồng thời cũng vô cùng chậm chạp. Giống như câu nhạc tuyệt đẹp hiện lên trong đầu cậu ấy. Đó vừa là thứ xảy ra trong khoảnh khắc nhưng cùng lúc cũng có thể kéo dài đến vô tận. Kéo dài từ bờ Đông sang bờ Tây... hoặc dài đến mãi mãi. Không còn khái niệm thời gian nữa. Xét theo nghĩa đó thì có lẽ tôi sống cũng như là đang chết. Nhưng mà, cái chết thật thì nặng nề lắm. Những thứ mới đây vẫn đang tồn tại bỗng dưng biến mất hết. Tất cả quay về với hư vô. Ở trường hợp của tôi, thứ đã tồn tại đó chính là tôi.”

Anh ta gục đầu xuống, nhìn cây kèn một lúc lâu. Sau đó anh ta tiếp tục.

“Cậu có biết tôi nghĩ gì lúc chết không?” Bird nói. “Trong đầu tôi chỉ có duy nhất một giai điệu. Tôi cứ ngâm nga giai điệu đó trong đầu, hết lần này đến lần khác. Tôi không thể xóa giai điệu đó ra khỏi đầu. Có chuyện như vậy mà? Rằng một giai điệu cứ ám ảnh trong đầu ấy. Đó là một đoạn trong chương 3, bản Concerto số 1 soạn cho dương cầm của Beethoven. Là đoạn này.

Bird khẽ hát giai điệu đó. Tôi cũng biết giai điệu này. Đó là phần độc tấu dương cầm.

“Trong số các giai điệu mà Beethoven viết, đây là đoạn nhạc sôi nổi nhất. Bird nói. “Từ xưa tôi đã thích bản Concerto số 1 rồi. Tôi đã nghe không biết bao nhiêu lần. Nghe bằng đĩa than có Schnabel trình diễn. Nhưng lạ thật đấy. Tên Charlie Parker này lúc gần chết, chọn gì không chọn lại chọn giai điệu của Beethoven để ngâm nga hết lần này đến lần khác. Sau đó thì bóng đêm ập tới. Như thể bức màn được hạ xuống” Bird khẽ cười bằng giọng khàn khàn.

Tôi chẳng nói được gì. Phải nói gì trước cái chết của Charlie Parker đây?

“Dù sao thì tôi cũng phải cảm ơn cậu, Bird nói. “Cậu đã cho tôi sống lại lần nữa. Cho tôi trình diễn nhạc bossa nova. Với tôi, đây là một trải nghiệm vui sướng tột bậc. Đương nhiên, nếu thực sự được biểu diễn lúc còn sống thì chắc chắn tôi còn háo hức hơn nữa. Nhưng dù chỉ là trải nghiệm sau khi chết thì cũng đủ tuyệt vời rồi. Vì tôi luôn thích các thể loại âm nhạc mới.”

Hóa ra hôm nay anh xuất hiện ở đây là để cảm ơn tôi à?

“Đúng rồi” Bird nói, như thể đọc được tâm can tôi. “Tôi ghé qua để nói với cậu lời cảm ơn. Rằng cảm ơn cậu nhé. Mong rằng cậu sẽ thích âm nhạc của tôi”

Tôi gật đầu. Lẽ ra tôi cần nói gì đó nhưng lại không thể nghĩ ra được lời lẽ phù hợp với hoàn cảnh.

“Perry Como hát Jimi Hendrix hả?” Bird lẩm bẩm như sực nhớ ra. Rồi anh ta bật cười bằng giọng khàn khàn.

Sau đó Bird biến mất. Đầu tiên là cây kèn, tiếp theo là vệt nắng rọi vào từ đâu đó, cuối cùng mới là Bird.

Khi tôi tỉnh dậy, đồng hồ ở đầu giường đang chỉ 3 giờ rưỡi sáng. Đương nhiên xung quanh vẫn là bóng tối im lìm. Mùi cà phê mới đây còn tỏa khắp cả căn phòng, giờ đã biến mất. Không có bất cứ mùi gì. Tôi đi ra bếp, uống liền tù tì mấy cốc nước lạnh. Tôi ngồi vào bàn ăn, cố tái hiện lại, dù chỉ một chút, giai điệu tuyệt vời mà Bird đã trình diễn cho tôi, chỉ cho riêng mình tôi. Nhưng tôi không nhớ nổi, dù chỉ một tiết tấu nhạc. Dẫu vậy, tôi vẫn nhớ được những lời Bird nói. Tôi đã viết lại chính xác vào sổ tay từng lời nói của anh ta trước khi ký ức đó phai nhạt. Hành động duy nhất tôi có thể làm với giấc mơ đó. Phải, Bird đã xuất hiện trong giấc mơ của tôi để cảm ơn tôi. Vì tôi đã cho anh ta cơ hội trình diễn nhạc bossa nova từ nhiều năm về trước. Và với cây kèn sẵn trong tay, anh ta đã thổi bài “Corcovado” cho tôi.

Bạn có tin được không?

Bạn nên tin. Vì chuyện đó thực sự đã xảy ra.