With the Beatles
Khi có tuổi, điều tôi cảm thấy kỳ lạ không phải việc mình có tuổi. Không phải việc bản thân mới ngày nào còn là thiếu niên, trong chớp mắt đã ở tuổi “lão niên”. Mà điều khiến tôi kinh ngạc chính là sự thật, rằng những người cùng lứa tuổi với mình giờ đã thành những ông lão, bà lão... đặc biệt là những thiếu nữ xinh đẹp phơi phới mà tôi từng biết giờ đã ở cái tuổi có hai, ba đứa cháu rồi. Nghĩ tới điều đó, tôi cảm thấy khá lạ lùng, đôi lúc còn thấy buồn nữa. Dù bản thân chưa bao giờ thấy buồn trước việc mình già đi.
Lý do tôi cảm thấy buồn trước việc các thiếu nữ khi xưa nay đã già đi có lẽ xuất phát từ việc tôi buộc phải chấp nhận, một lần nữa, rằng giấc mộng thời thiếu niên của mình đã trở nên vô hiệu. Xét theo một ý nghĩa nào đó thì việc một giấc mơ chết đi có lẽ còn buồn hơn cả một sinh mệnh mất đi trong đời thực. Đôi lúc thậm chí còn cảm thấy không công bằng nữa.
Đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ rõ một người con gái – một người đã từng là thiếu nữ. Nhưng tôi lại không biết tên nàng. Đương nhiên, tôi cũng không biết hiện nàng đang ở đâu, làm gì. Tôi chỉ biết là nàng học cùng trường cấp ba với tôi, bằng tuổi tôi (trên ngực nàng đeo chiếc huy hiệu cùng màu với khối của tôi), và có lẽ rất sùng bái nhạc Beatles. Ngoài ra thì tôi không biết gì hơn.
Chuyện xảy ra năm 1964, thời mà cơn lốc Beatles khuynh đảo khắp thế giới. Khi ấy là đầu mùa thu, học kỳ mới bắt đầu, đời sống hằng ngày bắt đầu bớt hối hả. Nàng đang một mình rảo bước trên hành lang trường học. Hình như nàng đang rất vội, vạt váy đung đưa. Tôi đi ngược chiều với nàng, trên cái hành lang dài hun hút và nhập nhoạng của ngôi trường cũ kỹ ấy. Không có ai ngoài hai chúng tôi. Nàng đang ôm khư khư một chiếc đĩa than LP ở trước ngực. Là đĩa With the Beatles. Chiếc đĩa có cái bìa rất ấn tượng là bức ảnh đen trắng chụp bốn thành viên với gương mặt bị khuất một nửa. Trong ký ức của tôi thì chiếc đĩa đó không phải bản của Mỹ, cũng không phải bản của Nhật mà là bản gốc của Anh. Chẳng hiểu sao tôi nhớ rất rõ như vậy.
Nàng là một thiếu nữ xinh đẹp. Ít nhất thì trong mắt tôi hồi ấy, nàng xinh đẹp tuyệt trần. Nàng không cao lắm. Mái tóc dài đen tuyền, cặp chân thon, toát ra mùi hương quyến rũ (không, có thể tôi chỉ tưởng tượng thế thôi. Có thể nàng chẳng có mùi hương nào cả. Nhưng tóm lại là tôi thấy như thế. Như thể nàng toát ra mùi hương quyến rũ khi đi ngang qua tôi). Lần ấy, tôi đã bị nàng hút hồn... Một thiếu nữ xinh đẹp tôi không biết tên, ôm khư khư chiếc đĩa LP With the Beatles ở trước ngực.
Tim tôi đập liên hồi, hơi thở dồn dập, âm thanh xung quanh ù đi hệt như lúc bị chìm xuống dưới đáy bể bơi, chỉ còn nghe thấy tiếng chuông văng vẳng bên trong tai. Như thể ai đó đang vội vã thông báo với tôi một điều quan trọng. Nhưng tất cả chỉ diễn ra trong vỏn vẹn có 10 hoặc 15 giây. Nó đột nhiên xảy đến, khi tôi nhận ra thì nó đã kết thúc rồi. Giống như tâm điểm của mọi giấc mơ, thông điệp quan trọng của sự việc bị mất hút trong mê lộ. Phần lớn các sự kiện quan trọng khác xảy ra trong đời người cũng giống vậy.
Hành lang nhập nhoạng của ngôi trường cấp ba, thiếu nữ xinh đẹp, vạt váy đung đưa, và With the Beatles.
Đó là lần duy nhất tôi trông thấy cô gái đó. Suốt cả mấy năm sau cho tới khi tốt nghiệp, tôi không nhìn thấy nàng lần nào nữa. Ngẫm thử thì chuyện này thật bất thường. Trường tôi học là một trường cấp ba công lập quy mô tương đối lớn, nằm trên một ngọn núi ở Kobe, mỗi khối có khoảng 650 học sinh (đây là thời kỳ “bùng nổ trẻ sơ sinh” nên học sinh rất đông). Chính vì vậy mà không phải tất cả mọi người đều biết nhau, ngược lại phần đông là tôi không biết mặt hoặc biết tên. Nhưng kể cả thế thì hầu như tôi đến trường mỗi ngày, qua lại hành lang thường xuyên nên dù thế nào cũng rất vô lý khi không chạm mặt cô gái xinh đẹp đó một lần nào nữa. Bởi lẽ, mỗi lần đi ngang qua hành lang, tôi luôn nhìn quanh để xem liệu có gặp được nàng không.
Lẽ nào nàng đã biến mất như một làn khói? Hoặc có lẽ buổi chiều đầu thu đó, tôi đã mơ thấy một giấc mơ không có thật? Hoặc ở hành lang tranh tối tranh sáng đó, tôi đã vô tình mỹ nhân hóa một cô gái, để rồi khi gặp nàng trong hiện thực, tôi đã chẳng thể nhận ra? (Trong ba khả năng trên thì khả năng cuối cùng có vẻ là đúng nhất).
Sau này, tôi quen biết một vài cô gái, cũng thân mật với họ. Và mỗi khi gặp một người con gái mới, tôi lại mong mỏi một cách vô thức rằng giá có thể làm sống dậy cảm giác hồi ấy, giây phút huy hoàng mà tôi đã trải qua tại hành lang nhập nhoạng của trường học vào mùa thu năm 1964. Cảm giác hồi hộp câm lặng mà dai dẳng trong tim, lồng ngực thắt lại, tiếng chuông văng vẳng bên trong tai.
Có lúc tôi làm được, có lúc lại không (tiếc là chuông không đủ mạnh). Cũng có lúc, tưởng như sắp có trong tay rồi nhưng lại để mất dấu ở một ngã rẽ nào đó. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, đối với tôi, cảm giác về sự tái hiện đó luôn có vai trò như “thước đo sự ngưỡng mộ”.
Và khi không có được cảm giác tái hiện đó trong thế giới thực, tôi lại nhẹ nhàng tái hiện lại trong thâm tâm ký ức về cảm giác đó trong quá khứ. Cứ như vậy, có lúc ký ức trở thành một tài sản tình cảm đáng quý nhất của tôi, đồng thời cũng là phương tiện để tôi tồn tại. Giống như chú mèo nhỏ ấm áp, cuộn mình ngủ ngon lành trong chiếc túi áo khoác thùng thình.
Giờ tôi sẽ kể về Beatles.
Một năm trước khi tôi nhìn thấy cô gái ấy, Beatles trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Sang năm tiếp theo, vào tháng Tư năm 1964, Beatles chiếm trọn cả năm vị trí đầu trong bảng xếp hạng của nước Mỹ. Đây là chuyện chưa từng xảy ra trong thế giới nhạc pop. Tôi xin liệt kê năm ca khúc đứng đầu bảng xếp hạng thời đó:
Can't buy my love
Twist and Shout
She loves you
I want to hold your hand
Please please me
Tại Mỹ, đĩa đơn Can't buy my love bán được hai triệu bản chỉ với số lượng đặt trước. Nghĩa là từ khi chưa phát hành, nó đã đạt gấp đôi chứng nhận bạch kim (một triệu bản).
Lẽ dĩ nhiên, Beatles cũng được ưa chuộng tại Nhật Bản. Chỉ cần bật radio lên là hầu như lúc nào cũng nghe thấy Beatles. Tôi cũng thích nhiều bài của Beatles cho hợp với thời đại, thuộc hết lời các bài thịnh hành. Thậm chí nếu bảo tôi hát, tôi còn hát được luôn. Bởi hồi đó, khi ngồi ở bàn học (hoặc giả vờ học), tôi lúc nào cũng để mở chương trình âm nhạc trên radio.
Nhưng thú thật, tôi chưa bao giờ là người hâm mộ Beatles nhiệt thành. Tôi cũng chưa bao giờ tự mình chủ động nghe các ca khúc của họ. Mặc dù nghe nhiều tới mức phát chán nhưng các ca khúc của họ chỉ lọt vào tai tôi một cách thụ động, là thứ âm nhạc phong trào trôi tuột đi trong ý thức, một thứ nhạc nền thời thanh xuân phát ra từ chiếc loa nhỏ của chiếc đài bán dẫn hiệu Panasonic. Có thể ví như một loại giấy dán tường làm bằng âm nhạc.
Kể cả hồi cấp ba hay sau này lên đại học, tôi cũng chưa bao giờ mua một đĩa nào của Beatles. Hồi đó, tôi say mê nhạc jazz và nhạc cổ điển, lúc nào cần nghe nhạc nghiêm túc, tôi chỉ nghe loại nhạc đó. Tôi tiết kiệm tiền tiêu vặt để mua đĩa nhạc jazz, tới quán cà phê nhạc jazz và yêu cầu bật nhạc của Miles Davis hay Thelonious Monk, đi nghe các buổi hòa nhạc cổ điển.
Mãi sau này, trong một dịp tình cờ, tôi mới tự mua một đĩa nhạc Beatles và nghe một cách nghiêm túc. Nhưng đó là một câu chuyện khác.
Bảo là kỳ lạ thì cũng kỳ lạ thật, nhưng mãi khi ngoài ba nhăm tuổi, tôi mới nghe trọn vẹn từ đầu đến cuối đĩa With the Beatles của Beatles. Nghĩa là, cho dù ký ức về thiếu nữ ôm chiếc đĩa đó đi dọc hành lang ngôi trường cấp ba gây ấn tượng đến vậy thì suốt một thời gian dài, tôi vẫn không hề có ý định nghe thử đĩa nhạc đó. Không rõ tại sao nhưng có vẻ như tôi chẳng có hứng muốn biết những khe rãnh của chiếc đĩa than nàng ôm trước ngực chứa những thông tin âm nhạc gì.
Khi đã ngoài ba nhăm, độ tuổi không thể gọi là thiếu niên hay thanh niên được nữa, cảm nhận của tôi khi lần đầu nghe đĩa nhạc đó là, đây không phải thứ âm nhạc tuyệt vời khiến bạn phải nín thở. Trong số 14 bài của album thì có 6 bài là cover của các nhạc sĩ khác, ngay cả 8 bài còn lại do Beatles tự sáng tác thì ngoại trừ bài “All My Loving” của Paul ra thì (tôi nghĩ) khó có bài nào được coi là xuất chúng. Bản cover “Please Mr. Postman” của Marvelettes và bản cover “Roll Over Beethoven” đều xuất sắc, giờ nghe vẫn thấy thán phục nhưng dù sao cũng chỉ là hát lại. Tinh thần dám đương đầu của Beatles rất đáng khen khi không đưa những đĩa đơn đã đạt thứ hạng cao vào album mà chỉ thu những ca khúc mới, nhưng nếu xét về điểm tươi mới trong âm nhạc, tôi thấy album ra mắt của họ trước đó là Please Please Me, album gần như được thu liền một lúc, nghe hay hơn nhiều.
Tuy nhiên, album thứ hai của họ đã đứng đầu bảng xếp hạng ở Anh, chiếm lĩnh vị trí đó trong suốt 21 tuần (tại Mỹ, album này được thay đổi một chút về nội dung so với bản phát hành ở Anh, tên album cũng đổi thành Meet the Beatles nhưng thiết kế bìa đĩa gần như vẫn giống). Thành công này hẳn là nhờ sự khao khát muốn được cung cấp nhạc Beatles nhiều hơn của công chúng – giống như đoàn người vừa vượt qua được sa mạc mong chờ có nguồn nước tươi mát, và chiếc bìa đĩa ấn tượng in bức ảnh đen trắng chụp bốn thành viên với gương mặt bị khuất một nửa.
Thực tế thì điều thu hút tôi mạnh mẽ cũng chính là hình ảnh thiếu nữ ôm khư khư cái bìa đĩa đó. Giả sử không có cái bìa đĩa của Beatles thì chắc chắn thứ mê hoặc tôi không sống động đến thế. Ở đó có âm nhạc. Nhưng thứ thực sự có ở đó là cái gì khác lớn hơn, vừa chứa đựng âm nhạc nhưng lại vừa vượt trên âm nhạc. Và trong một khoảnh khắc, cảnh tượng ấy đã khắc lên tờ giấy in ở trong tâm hồn tôi. Một cảnh tượng tinh thần không ở đâu có, của một khoảnh khắc, của một địa điểm, của một thời kỳ.
Năm tiếp theo, năm 1965, sự kiện quan trọng nhất xảy ra không phải là việc tổng thống Mỹ Johnson ra lệnh ném bom miền Bắc Việt Nam khiến cuộc chiến leo thang, cũng không phải việc người ta tìm thấy giống mèo hoang trên đảo Iriomote, mà là việc tôi có bạn gái. Tôi và nàng học chung năm lớp 10. Mối quan hệ khi đó chưa thể gọi là yêu nhưng tới năm lớp 11, trong một dịp tình cờ, chúng tôi bắt đầu hẹn hò.
Để tránh bị hiểu nhầm, tôi xin nói luôn là tôi không đẹp trai, cũng không phải là ngôi sao thể thao, thành tích học tập cũng không có gì nổi bật. Hát không hay, không giỏi ăn nói. Thế nên thời còn đi học hay sau này ra trường, tôi chưa bao giờ được nhiều phụ nữ hâm mộ. Tuy đây không phải điều đáng tự hào nhưng trong cuộc đời mù mờ này, đó là một trong rất ít những điều mà tôi tự tin khẳng định. Tuy vậy, không hiểu vì lẽ gì, đâu đó luôn có những cô gái quan tâm đến tôi và tìm cách tiếp cận tôi. Nếu ở lớp học thì thế nào cũng có một người như vậy. Thú thật tôi không biết họ quan tâm hay thích tôi ở điểm gì. Nhưng dù sao tôi cũng có được khoảng thời gian đẹp đẽ và thân mật với họ. Có lúc chúng tôi là những người bạn tốt, có lúc mối quan hệ trở nên gần gũi hơn một chút. Và nàng là một trong số đó... hay nói đúng hơn là người đầu tiên trở nên gần gũi hơn một chút.
Bạn gái đầu tiên của tôi là một thiếu nữ bé nhỏ và đáng yêu. Vào kỳ nghỉ hè năm đó, chúng tôi hẹn hò mỗi tuần một lần. Một chiều nọ, tôi hôn lên bờ môi chúm chím và căng mọng của nàng, chạm vào bầu ngực nàng qua lớp áo coọc xê. Nàng mặc chiếc váy liền sát nách màu trắng, mái tóc thơm mùi dầu gội hương cam.
Nàng hầu như không hứng thú với nhạc Beatles. Cũng chẳng quan tâm tới nhạc jazz. Nàng thích nghe nhạc của dàn nhạc Mantovani, Percy Faith, nhạc của Roger Williams, Andy William hay Nat King Cole, kiểu nhạc êm dịu mà ta thường gọi là nhạc trung lưu (hồi đó, từ “trung lưu” không phải là từ có tính phân biệt). Đến nhà nàng chơi sẽ thấy rất nhiều đĩa nhạc như vậy. Kiểu nhạc mà giờ vẫn gọi là nhạc dễ nghe. Nàng sẽ đặt đĩa nhạc yêu thích lên mâm xoay và bật cho tôi nghe. Phòng khách nhà nàng có bộ dàn stereo lớn và hoành tráng. Chúng tôi hôn nhau trên ghế sofa. Buổi chiều hôm đó, cả nhà nàng đi vắng hết, chỉ có hai chúng tôi ở nhà. Trong bối cảnh như thế thì có bật nhạc gì tôi cũng chẳng quan tâm.
Những gì tôi nhớ được về mùa hè năm 1965 là chiếc váy liền màu trắng, mùi dầu gội hương cam, cảm giác khi chạm vào chiếc coọc xê có gọng chắc chắn (coọc xê thời đó giống với pháo đài hơn là áo lót), bản “Theme from A Summer Place” [7E] được dàn nhạc của Percy Faith trình diễn rất du dương. Ngay cả bây giờ, mỗi khi nghe thấy bản “Theme from A Summer Place” là tôi nghĩ ngay đến chiếc ghế sofa cỡ lớn êm ái ngày nào.
Tình cờ mấy năm sau, (tôi nhớ là năm 1968. Vì trùng với năm Robert Kennedy bị ám sát), giáo viên chủ nhiệm của lớp chúng tôi học chung hồi ấy đã treo cổ tự tử lên thanh dầm tại nhà riêng. Đó là giáo viên dạy môn xã hội. Nghe nói nguyên nhân tự tử là vì bế tắc trong tư tưởng.
Bế tắc trong tư tưởng?
Đúng thế, vào nửa sau thập niên 60, có những người tự kết liễu đời mình vì bế tắc trong tư tưởng. Dù chuyện này xảy ra không thường xuyên.
Cứ nghĩ trong lúc tôi và bạn gái đang vụng về âu yếm nhau trên ghế sofa vào một buổi chiều hè, trên nền nhạc du dương và lãng mạn của dàn nhạc Percy Faith, thì người thầy dạy môn xã hội đó đang bước từng bước về cái ngõ cụt trí mạng trong tư tưởng, nói cách khác là tiến về cái nút thòng lọng cứng và câm lặng, là tôi lại có cảm giác thật khó tả. Thậm chí còn thấy có lỗi. Bởi trong số những giáo viên tôi biết cho tới thời điểm ấy, thầy thuộc số những giáo viên đàng hoàng. Tạm chưa nói tới việc thầy có dạy giỏi hay không nhưng thầy luôn cố gắng đối xử công bằng với học sinh của mình. Tuy tôi chưa bao giờ nói chuyện riêng với thầy nhưng ít nhất thì tôi có ấn tượng như vậy.
Giống như năm trước đó, năm 1965 cũng là năm của Beatles. Nhiều đĩa đơn lần lượt đứng đầu bảng xếp hạng ở Mỹ như I Feel Fine vào tháng Một, Eight Days A Week vào tháng Ba, Ticket To Ride vào tháng Năm, Help vào tháng Chín, và Yesterday vào tháng Mười. Ấn tượng của tôi hồi đó là chỉ cần dỏng tai nghe thì hầu như lúc nào cũng nghe thấy một bài hát của họ. Âm nhạc của Beatles bủa vây chúng tôi. Hệt như giấy dán tường được dán kín đặc mọi chỗ.
Khi không phải các bài của Beatles thì sẽ là "Satisfaction" của The Rolling Stones, "Mr. Tambourine Man” của Byrds, “My Girl” của Temptations,“You’ve Lost That Lovin' Feelin" của Righteous Brothers hoặc "Help me, Rhonda” của The Beach Boys. Diana Ross và The Supremes cũng lần lượt có tên trong bảng xếp hạng. Cứ thế, từ sau lưng tôi, chiếc đài bán dẫn hiệu Panasonic liên tục phát những ca khúc hay và rộn ràng. Xét theo quan điểm nhạc pop thì đó là một năm tuyệt vời đến kinh ngạc.
Có người cho rằng thời mà nhạc pop ngấm vào họ tự nhiên và sâu sắc nhất cũng là giai đoạn họ cảm thấy hạnh phúc nhất trong đời. Có thể đúng như vậy. Hoặc là không. Có thể suy cho cùng, ca khúc nhạc pop cũng chỉ là ca khúc nhạc pop mà thôi. Và cuộc đời của chúng ta, suy cho cùng, có thể cũng chỉ là một thứ hàng tiêu dùng được trang trí.
Nhà của nàng ở gần đài phát thanh Kobe mà tôi thường nghe. Cha nàng hình như làm về xuất hoặc nhập khẩu thiết bị y tế. Tôi không biết cụ thể. Chỉ biết là có công ty riêng và làm ăn rất phát đạt. Nhà nàng nằm trong khu rừng thông gần bờ biển. Nghe nói là mua lại biệt thự mùa hè của một doanh nhân nào đó rồi sửa sang lại. Gió chiều hè từ biển thổi vào khiến rừng thông kêu xào xạc. Có lẽ đó là khung cảnh lý tưởng nhất để nghe bản “Theme from A Summer Place".
Mãi sau này tôi mới tình cờ được xem bộ phim A Summer Place của Mỹ trong chương trình tivi đêm muộn. Phim có sự tham gia của Troy Donahue và Sandra Dee. Một bộ phim tình yêu thanh xuân theo mô típ thường thấy của Hollywood nhưng được làm rất tốt. Phim phát hành năm 1959. Nhạc phim “Theme from A Summer Place” do Max Steiner sáng tác, được dàn nhạc Percy Faith cover lại và tạo thành một bản hit. Trong phim cũng có rừng thông bên bờ biển, đung đưa xào xạc trong cơn gió chiều mùa hạ, hòa cùng tiếng kèn cor của dàn nhạc. Khi xem bộ phim, tôi thấy cảnh rừng thông bên bờ biển đung đưa trong gió là một ẩn dụ về khao khát tình dục cuồng nhiệt của những thanh niên khỏe mạnh trên khắp thế giới. Nhưng chắc có lẽ đó chỉ là ý kiến hoặc thiên kiến mang tính cá nhân của tôi.
Trong phim, Troy Donahue và Sandra Dee cũng bị cuốn theo cơn gió tình dục dữ dội, kết quả là gặp rất nhiều chông gai. Xảy ra hiểu lầm lớn, rồi sau đó là hòa giải lớn, những trở ngại tan biến đi như làn sương sớm, để rồi cuối cùng hai người được ở bên nhau và làm đám cưới. Phim Hollywood thời đó, một cái kết đẹp chính là cuối cùng lấy được nhau. Là hiện thực hóa môi trường ân ái hợp pháp. Nhưng dĩ nhiên, tôi và bạn gái cuối cùng không đi được đến hôn nhân. Chúng tôi vẫn đang là học sinh cấp ba, chỉ vụng về âu yếm nhau trên ghế sofa trên nền nhạc bản "Theme from A Summer Place" mà thôi.
“Này, cậu biết không?” Nàng khẽ nói như thổ lộ với tôi lúc chúng tôi ở trên ghế sofa. “Tớ hay ghen lắm đấy”
“Hừm,” tôi đáp.
“Tớ chỉ muốn cậu biết điều đó.”
“Được thôi.”
“Hay ghen đôi khi rất khổ.
Tôi im lặng, vuốt tóc nàng. Nhưng khi ấy, tôi không hình dung được hay ghen nghĩa là thế nào, nó từ đâu đến và mang lại hậu quả thế nào. Trong đầu tôi chỉ nghĩ đến cảm xúc của bản thân.
Tiện đây tôi cũng kể luôn, vào nửa đầu thập niên 60, Troy Donahue là một ngôi sao điện ảnh trẻ và điển trai, được nhiều người hâm mộ, nhưng sau đó lại sa ngã vào rượu và ma túy, không được mời đóng phim, thậm chí có lúc còn trở thành người vô gia cư. Sandra Dee cũng chống chọi với chứng nghiện rượu suốt một thời gian dài. Năm 1964, Donahue kết hôn với Suzanne Pleshette, một nữ diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ, nhưng ly dị chỉ sau 8 tháng. Còn Dee thì kết hôn với ca sĩ Bobby Darin vào năm 1960 nhưng đến năm 1967 thì ly dị. Đương nhiên, những việc này hoàn toàn không liên quan gì đến kịch bản bộ phim A Summer Place . Và cũng chẳng liên quan gì tới số phận của tôi và bạn gái.
Bạn gái tôi có một anh trai và một em gái. Cô em gái mới học lớp 8 nhưng đã cao hơn cô chị khoảng năm phân. Và cũng giống như các bé gái có chiều cao vượt trội so với tuổi, cô em này không được xinh lắm. Chưa kể còn đeo cặp kính dày cộp nữa. Nhưng bạn gái tôi có vẻ rất cưng chiều em gái. “Em tớ học giỏi lắm, nàng bảo. Tôi nghĩ học lực của nàng ở mức tàm tạm. Có lẽ ngang với học lực của tôi.
Một hôm, chúng tôi đi xem phim, có cả em gái nàng đi cùng. Vì lý do nào đó mà chúng tôi buộc phải làm vậy. Một bộ phim ca nhạc có tên The sound of music. Tôi nhớ là rạp chiếu phim rất đông nên chúng tôi phải ngồi ở hàng ghế đầu để xem bộ phim màn ảnh rộng định dạng 70mm, khiến tôi bị đau cơ mắt sau khi xem xong. Tuy nhiên, bạn gái tôi rất thích nhạc của bộ phim đó. Nàng mua cả đĩa than tập hợp nhạc phim và nghe không biết bao nhiêu lần. Tôi thì thích album My Favorite Things mang hơi hướng ma thuật của John Coltrane hơn, nhưng nói ra cũng chẳng ích gì nên tôi chưa bao giờ nói điều đó với nàng.
Có vẻ như em gái nàng không thích tôi lắm. Mỗi khi gặp nhau, em nàng luôn nhìn tôi bằng cặp mắt vô cảm đến kỳ lạ, cặp mắt giống như đang kiểm tra xem miếng cá khô để lâu ngày trong góc tủ lạnh còn ăn được hay không. Ánh mắt ấy lúc nào cũng khiến tôi có cảm giác tội lỗi. Tôi không biết tại sao nhưng khi em nàng nhìn tôi, dường như nó bỏ qua ngoại hình của tôi (dù đúng là ngoại hình của tôi không đáng để nhìn đến thế), mà nhìn xuyên thấu vào bên trong con người tôi. Có thể tôi cảm thấy như vậy vì thực tế tôi cũng có chút tội lỗi.
Mãi sau này tôi mới gặp anh trai của nàng. Anh trai nàng hơn nàng bốn tuổi nên khi ấy cũng phải hơn hai mươi rồi. Nàng không giới thiệu người anh đó với tôi và hầu như cũng chẳng kể gì. Nếu chẳng may có nhắc đến thì nàng sẽ khéo léo lảng tránh. Sau này nghĩ lại mới thấy, thái độ đó có lẽ không được bình thường thật. Nhưng tôi không mấy bận tâm. Bởi tôi không quan tâm nhiều đến gia đình nàng, điều khiến tôi quan tâm đến nàng là thứ thiết thực hơn.
Lần đầu tiên tôi gặp và nói chuyện với anh trai nàng là khoảng cuối mùa thu năm 1965.
Chủ nhật hôm đó, tôi đến nhà đón nàng. Chúng tôi thường viện lý do đến thư viện học bài để ra ngoài hẹn hò. Vì vậy mà tôi luôn mang đủ bộ dụng cụ học tập trong cái túi đeo chéo. Như kẻ phạm tội non nớt vụng về tạo chứng cớ ngoại phạm.
Buổi sáng hôm ấy, tôi bấm chuông mãi mà không thấy có ai trả lời. Tôi đợi một lúc rồi bấm tiếp thì mới nghe thấy có tiếng chân chậm rãi từ trong nhà đi ra. Rồi có người mở cửa. Là anh trai nàng.
Anh ta cao hơn tôi một chút, có thể nói là béo. Không phải dạng béo bệu mà là béo nhất thời, kiểu như một vận động viên vì lý do nào đó, đang tạm thời không luyện tập được nên cơ có đôi chỗ bị dư thừa. Bả vai anh ta rộng, trong khi cổ lại dài và nhỏ. Mái tóc bù xù như thể mới ngủ dậy chưa lâu. Sợi tóc có vẻ cứng, cứ chỉa ra lung tung. Tóc dài trùm tai, trông như đã để quá ngày cắt ít nhất hơn hai tuần. Anh ta mặc áo len màu xanh navy với cái cổ tròn bị rão, chiếc quần nỉ bo gấu màu xám với chỗ đầu gối bị phồng lên. Vẻ bề ngoài thật đối lập với bạn gái tôi, người lúc nào trông cũng ăn vận sạch sẽ, tóc tai gọn gàng.
Anh ta nheo mắt như thể bị chói và nhìn tôi một lúc. Giống như con thú lông lá xơ xác lâu ngày mới thò mặt ra dưới ánh mặt trời.
“Hừm, chắc cậu là bạn của Sayoko hả?” Tôi chưa kịp mở miệng thì anh ta đã nói. Sau đó đằng hắng một tiếng. Tuy giọng vẫn còn ngái ngủ nhưng tôi cảm nhận được sự hiếu kỳ trong đó.
“Vâng,” tôi giới thiệu tên mình. “Em có hẹn đến đây lúc 11 giờ.”
“Giờ Sayoko không có nhà đâu,” anh ta nói.
“Không có nhà..” Tôi lặp lại lời anh ta.
“Ừ, hình như đi đâu đó. Giờ không có ở nhà.”
“Nhưng em có hẹn đến đón bạn ấy lúc 11 giờ hôm nay.”
“Thế à?” Anh ta nói rồi nhìn lên bức tường bên cạnh như thể để xem đồng hồ. Nhưng chẳng có cái đồng hồ nào ở đó. Chỉ có bức tường bả vữa trắng. Thế là anh ta đành phải quay lại nhìn tôi.
“Có thể lắm nhưng hiện tại thì không có ở nhà.”
Tôi chẳng biết nên làm thế nào. Có vẻ như anh nàng cũng không biết nên làm thế nào. Anh ta uể oải ngáp rồi đưa tay gãi sau gáy. Mỗi động tác đều rất chậm chạp.
“Hình như nhà tôi giờ này không có ai đâu,” anh ta nói. “Ban nãy tôi ngủ dậy thì đã thấy có mỗi mình tôi. Hình như mọi người đi đâu cả rồi, nhưng đi đâu thì tôi không rõ”
Tôi im lặng.
“Bố tôi chắc là đi đánh golf. Hai đứa em gái thì chắc là đi chơi. Đến cả mẹ tôi cũng không có nhà thì kể cũng hơi lạ. Bình thường không như vậy đâu.
Tôi không dám bày tỏ ý kiến. Đây là chuyện nhà người khác.
“Nhưng nếu có hẹn với cậu thì Sayoko sẽ về sớm thôi,” anh nàng nói. “Cậu có thể vào nhà ngồi đợi.
“Vậy thì phiền anh quá, em sẽ đi lang thang quanh đây một lúc rồi quay lại vậy,” tôi nói.
“Không, không phiền gì đâu,” anh ta cả quyết. “Lại bị bấm chuông rồi phải ra mở cửa lần nữa còn phiền hơn ấy. Cậu cứ vào nhà đợi đi.”
Không còn cách nào khác, tôi vào nhà và được dẫn tới phòng khách. Căn phòng có ghế sofa mà tôi và bạn gái đã âu yếm nhau hồi mùa hè. Tôi ngồi xuống chiếc ghế sofa đó. Anh trai bạn gái tôi thì ngồi ở chiếc ghế thư giãn đối diện. Anh ta lại uể oải ngáp.
“Cậu là bạn của Sayoko nhỉ?” Anh ta hỏi lại tôi như để xác nhận chắc chắn sự thật.
“Vâng,” tôi lặp lại câu trả lời.
“Không phải bạn của Yuko?”
Tôi lắc đầu. Yuko là tên của cô em gái cao hơn nàng.
“Hẹn hò với Sayoko có thú vị không?” Anh ta tò mò nhìn tôi và hỏi.
Không biết trả lời sao cho phải, tôi im lặng. Nhưng anh ta vẫn đợi tôi trả lời.
“Em nghĩ là vui” cuối cùng tôi cũng tìm được từ thích hợp để trả lời.
“Vui nhưng lại không thú vị à?”
“Không, không phải vậy.” Tôi bỏ lửng câu nói.
“Thôi không sao,” anh nàng nói. “Thú vị hay vui thì cũng có gì khác nhau đâu, có lẽ thế. Mà cậu ăn sáng chưa?”
“Em ăn rồi.”
“Tôi chuẩn bị nướng bánh mì để ăn đây, cậu ăn không?”
“Dạ không,” tôi đáp.
“Thật chứ?”
“Thật ạ”
“Còn cà phê?”
“Không cần ạ.”
Nếu được, tôi cũng muốn uống cà phê nhưng lại ngại không muốn thân thiết hơn với gia đình nàng, nhất là khi nàng không có ở đây.
Anh ta không nói gì, đứng dậy rồi rời khỏi phòng. Chắc là đi vào bếp để làm bữa sáng. Sau đó có tiếng đĩa và cốc chạm nhau lách cách vọng ra từ trong bếp. Tôi ngồi trên ghế sofa, hai tay đặt lên đầu gối, giữ tư thế ngồi mà lỡ bị ai nhìn thấy cũng không sao, lặng lẽ đợi nàng trở về từ đâu đó. Đồng hồ đang chỉ 11 giờ 15 phút.
Tôi lục lại trí nhớ xem có đúng là mình đã hẹn đến đây đón nàng lúc 11 giờ không. Nhưng nghĩ mãi vẫn thấy địa điểm và giờ hẹn không sai. Tôi còn xác nhận lại khi chúng tôi nói chuyện trên điện thoại tối hôm trước. Hơn nữa, nàng không phải kiểu người vô trách nhiệm mà quên hoặc không giữ lời hứa. Thêm vào đó, việc cả nhà nàng đi vắng, để mỗi anh trai nàng ở nhà vào buổi sáng Chủ nhật cũng hơi bất thường.
Chẳng hiểu sự tình thế nào, tôi cứ ngồi ngẩn ra đó, im lặng chờ thời gian trôi. Thời gian trôi chậm đến đáng sợ. Thi thoảng lại nghe thấy có tiếng đồ vật vọng ra từ trong bếp. Tiếng vặn vòi nước, tiếng lách cách quấy gì đó bằng thìa, tiếng mở cửa tủ, tiếng đóng cửa tủ. Có vẻ anh trai nàng là kiểu người làm gì cũng phải tạo ra tiếng ồn. Nhưng ngoài ra thì tôi không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào khác. Không có tiếng gió, không có tiếng chó sủa. Sự im lặng như thứ bùn vô hình dần dần bít lấy lỗ tai tôi. Tôi buộc phải nuốt nước bọt mấy lần.
Nếu được, tôi muốn nghe nhạc. Bài “Theme from A Summer Place”, bài “Edelweiss”, bài“Moon River” hay bất kể bài gì. Tôi không dám đòi hỏi. Chỉ cần có tiếng nhạc thôi. Nhưng tôi không dám tự tiện động vào bộ dàn nhà người khác. Tôi nhìn quanh xem có thứ gì để đọc không nhưng chẳng thấy có tờ báo hay tạp chí nào. Tôi kiểm tra túi xách của mình. Thế nào mà đúng hôm ấy, tôi lại quên mang sách theo. Thường thì tôi luôn mang ít nhất một cuốn sách bỏ túi đang đọc dở.
Tôi chỉ tìm thấy mỗi cuốn sách tham khảo Ngữ văn hiện đại có vẻ là đọc được. Tôi đành lấy nó ra, sột soạt giở các trang. Tuy không phải người đọc sách kỹ và có hệ thống tới mức gọi là “người mê đọc”, nhưng nếu không đọc gì đó thì tôi không biết làm thế nào để giết thời gian. Tôi không thể ngồi yên một chỗ mà không làm gì. Tôi cần phải làm những việc như lật trang sách hoặc nghe nhạc. Nếu không có sách để đọc thì tôi sẽ cầm bất cứ thứ gì ở xung quanh có in chữ. Kể cả danh bạ điện thoại hay thậm chí là sách hướng dẫn sử dụng bàn là hơi nước. So với những bản in dạng đó thì sách tham khảo Ngữ văn hiện đại xem ra vẫn khá hơn nhiều.
Tôi mở ngẫu nhiên một trang và đọc phần tùy bút và tiểu thuyết được in ở đó. Có một số tác phẩm của nhà văn nước ngoài nhưng hầu hết là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nhật Bản thời cận đại hoặc hiện đại như Akutagawa Ryunosuke, Tanizaki Junichiro, Abe Kobo. Và ở cuối mỗi tác phẩm – trừ những truyện ngắn ra thì đa số là các tác phẩm nổi bật – lại kèm theo một số câu hỏi. Như thường lệ, phần lớn là những câu hỏi không có nghĩa. “Câu hỏi không có nghĩa” là câu hỏi khó phân định (hoặc không thể phân định) được câu trả lời là đúng hay sai. Tôi ngờ rằng chính người viết ra những câu hỏi đó cũng chưa chắc phân định được.
Chẳng hạn như câu “Thái độ của tác giả về chiến tranh được gửi gắm trong đoạn văn này là thế nào?”, hay “Khi tác giả miêu tả về trăng tròn trăng khuyết, điều này đã tạo ra hiệu quả về mặt biểu tượng như thế nào?” Nếu muốn trả lời thì trả lời thế nào cũng được. Ngay cả nếu trả lời rằng miêu tả về trăng tròn trăng khuyết suy cho cùng cũng chỉ là miêu tả về trăng tròn trăng khuyết, chẳng mang lại hiệu quả về mặt biểu tượng nào, thì cũng không ai dám tuyên bố trả lời thế là sai. Đương nhiên, số “câu trả lời tương đối hợp lý” sẽ nhiều như ước số chung lớn nhất, nhưng tương đối hợp lý trong văn học có phải là đích đến hay không thì vẫn còn là dấu hỏi.
Mặc dầu vậy, để giết thời gian, tôi vẫn cố gắng trả lời nhẩm từng câu. Và ở đa số các trường hợp, đầu tôi – cái đầu của một người đang trong quá trình trưởng thành, hằng ngày phải tự vật lộn để có thể tự chủ về mặt tinh thần – chỉ hiện lên câu trả lời theo dạng “dù không được hợp lý lắm nhưng cũng không thể nói là sai”. Có lẽ xu hướng này là một trong những nguyên nhân khiến thành tích học tập của tôi không bật lên được.
Tôi đang mải giết thời gian như vậy thì anh trai nàng quay trở lại phòng khách. Mái tóc anh ta vẫn chỉa ra tua tủa. Nhưng đôi mắt thì không còn vẻ ngái ngủ nữa, chắc là do vừa ăn sáng xong. Tay anh ta cầm cốc cà phê uống dở. Một chiếc cốc lớn có quai màu trắng. Trên cốc có in hình máy bay tiêm kích hai tầng cánh sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Có hai khẩu súng máy gắn trước buồng lái. Chắc đó là cốc của riêng anh ta. Vì tôi không tưởng tượng được bạn gái mình lại uống bằng một chiếc cốc như thế.
“Cậu không cần cà phê thật chứ?” Anh ta nói.
Tôi lắc đầu, “Không, em không cần thật mà.
Ngực áo anh ta còn dính vụn bánh mì. Cả chỗ đầu gối của quần nỉ nữa. Hẳn là anh ta đói lắm nên đã ngoạm cả miếng bánh mì to, không để ý đến vụn bánh rơi vãi. Tôi hình dung bạn gái tôi sẽ rất bực bội khi nhìn thấy như thế. Vì nàng là cô gái ưa gọn gàng, sạch sẽ. Tôi cũng thích người gọn gàng, sạch sẽ nên tôi nghĩ vì vậy mà chúng tôi hợp nhau.
Anh trai nàng nhìn lên tường. Lần này thì có đồng hồ treo trên đó. Đồng hồ chỉ gần 11 rưỡi.
“Vẫn chưa thấy về nhỉ. Không biết là đang ở đâu nữa,” anh ta nói.
Tôi không nói gì.
“Cậu đang đọc cái gì thế?” Anh ta chỉ vào cuốn sách tôi đang cầm.
“Sách tham khảo Ngữ văn hiện đại ạ.”
“Hừm,” anh ta hơi nhăn mặt. “Hay không?”
“Không hẳn là hay nhưng em chẳng còn gì khác để đọc.”
“Đưa tôi xem nào.
Tôi đưa anh ta cuốn sách qua chiếc bàn thấp. Anh ta lấy cuốn sách bằng tay phải, tay trái vẫn cầm cốc cà phê. Tôi lo cà phê sẽ đổ vào sách. Vì trông như anh ta sắp đánh đổ cà phê lên sách thật. Nhưng không. Anh ta đặt cốc cà phê lên mặt bàn thủy tinh kêu cái “cộp” rồi dùng hai tay cầm cuốn sách lên và lật các trang.
“Cậu đang đọc đoạn nào?”
“Em đang đọc truyện ‘Bánh răng của Akutagawa. Trong sách chỉ trích một phần thôi chứ không phải cả truyện.”
Anh ta suy nghĩ một chút. “Truyện ‘Bánh răng’ thì tôi chưa đọc. Truyện ‘Kappa’ thì đọc từ lâu rồi. Truyện ‘Bánh răng’ hình như khá u ám đúng không?”
“Vâng, vì được viết ngay trước khi tác giả chết.”
“Akutagawa tự sát đúng không nhỉ?”
“Vâng” tôi nói. Akutagawa tự sát ở tuổi ba nhăm vì uống thuốc quá liều. Truyện “Bánh răng” được xuất bản vào năm 1927, sau khi tác giả qua đời. Phần chú giải của sách ghi như vậy. Một tác phẩm gần giống như bản di chúc.
“Hừm,” anh trai của bạn gái tôi nói, “Này, cậu có thể đọc cho tôi nghe được không?”
Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta. “Đọc to thành tiếng ạ?”
“Ừ, từ trước tới giờ tôi vẫn thích có người đọc sách cho nghe. Tôi không thạo đọc chữ lắm.”
“Em không giỏi đọc thành tiếng”
“Chuyện đó thì khỏi lo. Không cần đọc hay đâu. Chỉ cần đọc thành tiếng theo đúng thứ tự thôi. Đằng nào thì chúng ta cũng có việc gì để làm đâu.”
“Chuyện này là của người bị bệnh thần kinh và trầm cảm đấy”
“Thi thoảng tôi cũng muốn nghe chuyện như vậy. Có câu ‘Lấy độc trị độc’ mà.”
Anh ta đưa trả tôi cuốn sách rồi lại cầm chiếc cốc in hình máy bay tiêm kích hai tầng cánh gắn biểu tượng chữ thập của quân đội Đức lên và nhấp một ngụm cà phê. Sau đó, anh ta ngả người ra sau ghế, chờ nghe tôi đọc.
Và thế là, sáng Chủ nhật hôm ấy, tôi đã đọc một đoạn trích trong truyện “Bánh răng” của Akutagawa Ryunosuke cho người anh trai lập dị của bạn gái nghe. Tuy là bất đắc dĩ nhưng vẫn có chút nhiệt thành. Đoạn tôi đọc là phần cuối, có tựa đề là “Phi cơ”. Trong sách có cả phần “Xích quang” và “Phi cơ” nhưng tôi chỉ đọc phần “Phi cơ”. Có khoảng tám trang. Trong đó, dòng cuối cùng là “Liệu có ai đó làm ơn bóp cổ tôi trong lúc tôi đang ngủ không?” Viết xong dòng này thì Akutagawa tự sát.
Tôi đã đọc xong dòng cuối cùng nhưng vẫn chưa có ai về. Không thấy điện thoại đổ chuông, cũng không nghe thấy tiếng quạ. Xung quanh hoàn toàn tĩnh lặng. Nắng thu rọi qua tấm rèm đăng ten làm sáng bừng cả phòng khách. Chỉ có thời gian trôi đi, chậm chạp nhưng chắc chắn. Anh trai của bạn gái tôi khoanh tay và nhắm nghiền mắt một lúc lâu, như thể để tận hưởng dư âm của đoạn văn tôi vừa đọc xong.
“Tôi không còn sức để tiếp tục cầm bút nữa. Sống với một tâm trạng thế này đau đớn không gì diễn tả nổi. Liệu có ai đó làm ơn bóp cổ tôi trong lúc tôi đang ngủ không?”
Tạm bỏ qua chuyện thích hay không thích thì rõ ràng đây là một tác phẩm không hợp để đọc vào một buổi sáng Chủ nhật đẹp trời. Tôi gập sách lại, nhìn lên đồng hồ treo tường. Đồng hồ chỉ hơn 12 giờ.
“Chắc là có nhầm lẫn gì đó. Thôi hôm nay em xin phép về,” tôi nói rồi đứng dậy khỏi ghế sofa. Từ nhỏ, mẹ tôi đã luôn nhắc nhở rằng không được làm phiền nhà người khác vào giờ ăn cơm. Cho dù là tốt hay xấu thì nó cũng đã ngấm vào máu tôi như một thói quen mang tính phản xạ.
“Chà, cậu đã cất công đến tận đây rồi thì đợi thêm 30 phút nữa đi, anh ta nói. “Nếu 30 phút nữa mà nó vẫn chưa về thì cậu về cũng được mà.”
Vì giọng nói của anh ta rành rọt đến kỳ lạ nên tôi lại ngồi xuống. Hai tay lại đặt lên đầu gối.
“Cậu đọc hay lắm,” anh ta nói như thể khâm phục. “Chưa ai nói với cậu như vậy à?”
Tôi lắc đầu. Tôi chưa từng được khen là đọc hay.
“Nếu không hiểu rõ nội dung thì không đọc được như vậy đâu. Nhất là đoạn cuối, cậu đọc rất hay.
“Ồ,” tôi đáp lấy lệ. Tôi cảm thấy má mình hơi ửng đỏ. Tự nhiên tôi thấy bối rối, như kiểu bị khen nhầm ở điểm không nên khen. Nhưng xét theo tình hình hiện tại thì có vẻ tôi sẽ phải hầu chuyện anh ta thêm 30 phút nữa. Dường như người này đang cần ai đó để trò chuyện.
Anh ta chắp hai tay trước ngực theo kiểu cầu nguyện rồi đột nhiên bộc bạch: “Tôi hỏi câu này nghe hơi kỳ nhưng ký ức của cậu đã bao giờ bị ngắt quãng chưa?”
“Ký ức bị ngắt quãng?”
“Ừ, nghĩa là từ một thời điểm này đến một thời điểm khác, cậu không tài nào nhớ được mình đã làm gì, ở đâu.”
Tôi lắc đầu. “Em nghĩ là chưa.”
“Cậu nhớ chính xác theo tuần tự thời gian những gì mình đã làm à?”
“Đại khái vậy, nếu là những việc gần đây thì em nghĩ là em nhớ được.”
“Hừm, anh ta nói rồi đưa tay gãi sồn sột sau gáy. “Bình thường thì là vậy mà.”
Tôi im lặng, đợi anh ta nói tiếp.
“Thú thật với cậu, tôi từng vài lần bị mất sạch ký ức. Chẳng hạn, vào lúc 3 giờ chiều, đột nhiên ký ức bị ngắt quãng, khi tỉnh lại thì đã là 7 giờ tối, và tôi không thể nhớ được mình đã làm gì, ở đâu trong suốt bốn tiếng đó. Không phải xảy ra chuyện gì đặc biệt đâu. Không phải là bị đập đầu vào đâu đó hay say quắc cần câu. Mà là tôi đang sống rất bình thường và đương nhiên, thế rồi đột nhiên bị mất ký ức. Tôi không đoán trước được khi nào chuyện đó sẽ xảy ra. Cũng không biết tình trạng mất ký ức sẽ kéo dài mấy ngày hay mấy tiếng”
“Vâng,” tôi tạm thời đáp cho có.
“Cậu cứ thử hình dung là cậu ghi lại bản giao hưởng của Mozart bằng máy ghi âm đi. Khi cậu nghe lại thì thấy đoạn từ khoảng giữa chương 2 đến giữa chương 3 bị mất hẳn, không nghe thấy gì, kiểu kiểu vậy. Gọi là mất nhưng không phải vẫn có đoạn băng trắng chạy đâu mà là mất hẳn luôn ấy. Kiểu như sau ngày hôm nay là ngày kia luôn. Cậu có hiểu không?”
“Cũng tương đối,” tôi nói bằng giọng không chắc chắn.
“Nếu là âm nhạc thì dù hơi bất tiện nhưng cũng không thiệt hại gì nhiều, còn khi chuyện đó xảy ra trong đời sống thực thì lại rất phiền phức... Cậu hiểu không nhỉ?”
Tôi gật đầu.
“Giống như đi đến sau mặt trăng và trở về tay không.”
Tôi lại gật đầu. Dù cũng không hiểu lắm ý nghĩa của sự ví von đó.
“Họ bảo đây là bệnh do rối loạn di truyền, rất hiếm người có triệu chứng rõ rệt như tôi, trong hàng vạn người mới có một người bẩm sinh bị như vậy. Dù có khác nhau về mức độ. Hồi lớp 9, tôi có đi nghe tư vấn của bác sĩ chuyên khoa tâm thần ở một bệnh viện trường đại học. Mẹ tôi dẫn đi. Bệnh này có tên hẳn hoi. Một cái tên dài ngoằng như trêu ngươi mà tôi quên từ lâu rồi. Không biết ai nghĩ ra cái tên đó nữa.”
Nói tới đó, anh ta dừng một chút rồi tiếp tục.
“Tóm lại, đó là căn bệnh mà trình tự ký ức bị đảo lộn. Một phần ký ức, dùng lối ví von ban nãy thì một phần của bản giao hưởng Mozart, bị nhét nhầm vào ngăn kéo. Mà một khi đã nhầm rồi thì rất khó để tìm lại, nói đúng hơn là bất khả. Tôi được giải thích như vậy. Tuy không phải là rối loạn nghiêm trọng kiểu như nguy hiểm đến tính mạng hay đầu óc dần mất kiểm soát nhưng nó vẫn gây ra bất tiện trong đời sống hằng ngày. Họ cho tôi biết cái tên bệnh dài ngoằng đó, cho tôi thuốc uống hằng ngày nhưng còn lâu mới có tác dụng. Chỉ để an ủi thôi.
Nói đến đó thì anh trai của bạn gái tôi ngừng lại, nhìn chằm chằm vào tôi như thể để kiểm tra xem câu chuyện của mình có được lĩnh hội không. Giống đang nhòm vào nhà từ cửa sổ. Sau đó anh ta nói:
“Hiện tại chuyện này xảy ra khoảng một, hai lần trong năm, tuy không thường xuyên nhưng vấn đề không phải là số lần. Vấn đề là khi xảy ra chuyện như thế thì sẽ gây ảnh hưởng cụ thể tới đời sống. Cho dù là họa hoằn đi nữa thì nếu việc mất ký ức xảy ra với mình ngoài đời thật, mình lại còn không biết bao giờ nó sẽ xảy ra thì thực sự rất rắc rối. Cậu hiểu chứ hả?”
“Vâng,” tôi trả lời lấp lửng. Mãi tôi mới theo kịp được câu chuyện đời tư kỳ lạ được kể với giọng liến thoắng đó.
“Chẳng hạn lúc bị như vậy, tức là lúc tự nhiên ký ức bị ngắt quãng ấy, nếu tôi vác một cái búa thật to và thỏa sức bổ vào đầu kẻ mà tôi không ưa, thì sau đó không thể cứ nói ‘Thật phiền hà quá rồi coi như xong đúng không?”
“Chắc là vậy rồi.”
“Tất nhiên sẽ dính dáng tới cảnh sát, dù tôi có giải thích “Thật ra lúc đó tôi bị mất ký ức’ thì họ cũng chẳng tin đâu.”
Tôi gật đầu lấp lửng.
“Trên thực tế thì cũng có vài người mà tôi không ưa. Những kẻ khiến tôi phát điên. Bố tôi cũng là một trong số đó. Nhưng lúc tỉnh táo, không đời nào tôi lại lấy búa đập vào đầu bố tôi cả. Vì tôi vẫn biết kiềm chế. Nhưng khi ký ức bị đứt đoạn, làm sao tôi biết mình sẽ làm gì chứ.
Tôi khẽ nghiêng đầu, bảo lưu ý kiến của mình.
“Bác sĩ nói rằng không có nguy cơ đó. Nghĩa là không có ai cướp nhân cách của tôi trong lúc ký ức biến mất cả. Dạng đa nhân cách, giống như bác sĩ Jekyll và ông Hyde ấy. Tôi vẫn là tôi. Ngay cả lúc ký ức biến mất thì tôi vẫn là tôi, vẫn hành xử như bình thường. Chỉ là phần thu âm nhảy cóc từ giữa chương 2 đến giữa chương 3 mà thôi. Vì vậy, không thể xảy ra chuyện tôi lấy búa để đập ai đó trong khoảng thời gian ký ức biến mất. Tôi vẫn giữ được sự kiềm chế vốn có và hành động gần như bình thường. Không có chuyện Mozart đột nhiên biến thành Stravinsky. Mozart trước sau vẫn là Mozart, chỉ có một phần của Mozart bị lẫn vào ngăn kéo khác mà thôi.”
Nói đến đó, anh ta dừng lại, nhấp một ngụm cà phê từ cái cốc máy bay tiêm kích hai tầng cánh. Nếu được, tôi cũng muốn một ngụm cà phê.
“Nhưng mà, xét cho cùng, đó cũng chỉ là lời của bác sĩ. Mà lời bác sĩ thì ai biết có thể tin được đến đâu. Hồi cấp ba, lúc mà ngay cả tôi còn chẳng hiểu chính tôi, tôi luôn canh cánh không biết mình có dùng búa nện vào đầu ai đó trong lớp không. Chẳng phải cấp ba là cái tuổi không hiểu gì về bản thân sao? Giống như đang sống trong ống cống ấy. Đã vậy còn thêm cái bệnh mất trí nhớ quái quỷ nữa thì làm sao mà chịu nổi. Đúng không nào?”
Tôi im lặng gật đầu. Có lẽ là vậy.
“Vì thế mà chả mấy khi tôi đi học,” anh trai của bạn gái tôi tiếp tục. “Càng nghĩ, tôi càng thấy kinh sợ bản thân nên không đi học được. Mẹ tôi trình bày với giáo viên về tình trạng đặc biệt của tôi nên dù số buổi đến lớp của tôi không đủ, nhà trường vẫn linh động cho tôi tốt nghiệp. Chắc phía trường cũng muốn nhanh chóng tống cổ một học sinh rắc rối như tôi. Tuy nhiên, tôi không vào đại học. Thành tích học tập của tôi cũng không đến nỗi, tôi nghĩ mình có thể vào được trường đại học nào đó, nhưng tôi chưa đủ tự tin để đi ra ngoài. Kể từ đó, tôi ru rú trong nhà suốt như thế này. Cùng lắm thì dắt chó đi dạo quanh nhà thôi, còn hầu như không bao giờ ra ngoài. Nhưng dạo gần đây, tôi có cảm giác nỗi sợ hãi đã bớt dần đi. Nếu tâm trạng ổn định hơn một chút, tôi nghĩ là mình sẽ vào một trường đại học nào đó...”
Anh ta ngừng ở đó. Tôi cũng im lặng. Vì chẳng biết phải nói gì. Giờ thì tôi hiểu vì sao bạn gái mình ít muốn nhắc đến anh trai.
Anh ta nói: “Cảm ơn cậu đã đọc sách cho tôi nghe. Truyện Bánh răng hay lắm. Tuy u ám thật nhưng các câu chữ đã ngấm vào tim tôi. Mà cậu không muốn uống cà phê thật à? Tôi sẽ pha ngay được.”
“Không, em không cần thật. Em cũng chuẩn bị về rồi.”
Anh ta lại nhìn đồng hồ trên tường. “Đợi đến 12 rưỡi, nếu chưa có ai về thì cậu có thể về. Tôi sẽ ở phòng tôi trên tầng hai nên đến lúc đó cậu cứ tự về nhé. Không cần bận tâm đến tôi đâu.”
Tôi gật đầu.
“Thế hẹn hò với Sayoko có thú vị không?” Anh trai của bạn gái tôi hỏi lại lần nữa.
Tôi gật đầu. “Dạ có.”
“Ở điểm nào?”
“Vì có nhiều điểm ở cô ấy mà em không biết” tôi đáp. Tôi nghĩ đó là câu trả lời tương đối thành thật.
“Hừm, anh ta nói như thể để nghiền ngẫm. “Phải rồi, có lẽ thế. Với tôi, nó là đứa em máu mủ ruột rà, chung nhau gen di truyền, sống cùng một mái nhà từ khi sinh ra nhưng có vô vàn thứ về nó mà tôi không biết. Nói sao nhỉ, kiểu như tôi không hiểu được thứ hình thành nên con người nó. Chính vì thế, nếu được thì cậu hãy hiểu nó thay cho tôi. Cho dù, có thể có những điều không nên hiểu thì hơn.
Anh ta cầm cốc cà phê rồi đứng dậy.
“Thôi, trăm sự nhờ cậu nhé,” anh trai của bạn gái tôi nói. Anh ta vẫy tay chào bằng bàn tay không cầm cốc rồi bước ra khỏi phòng.
“Em cảm ơn,” tôi nói.
Đồng hồ chỉ 12 giờ rưỡi mà vẫn chưa thấy ai về nên tôi một mình đi ra cửa, xỏ lại giày rồi ra khỏi ngôi nhà. Tôi đi ngang qua rừng thông để tới nhà ga, lên chuyến tàu vừa vào ga rồi trở về nhà. Một buổi chiều Chủ nhật mùa thu yên ắng đến kỳ lạ.
Hơn 2 giờ, bạn gái tôi gọi điện tới và bảo: “Cậu hẹn đến đón tớ vào Chủ nhật tuần sau cơ mà.” Tuy không thấy phục nhưng nếu nàng khẳng định như vậy thì chắc là vậy rồi. Có lẽ tôi đã sơ suất nhầm lịch. Tôi ngoan ngoãn xin lỗi nàng vì đã nhầm lịch một tuần và đến nhà đón nàng.
Tuy nhiên, tôi không đả động gì đến việc trong lúc đợi nàng về, tôi đã nói chuyện với anh trai nàng, nói đúng hơn là hầu như tôi chỉ nghe anh ta nói. Cả việc tôi đọc truyện “Bánh răng” của Akutagawa Ryunosuke cho anh nàng nghe, lẫn việc được nghe chính anh ta kể chuyện mình mắc bệnh thi thoảng mất trí nhớ. Vì tôi có cảm giác nên giấu chuyện này. Ngoài ra, tôi có linh cảm anh trai nàng cũng sẽ không kể chuyện đó với bạn gái tôi. Nếu như anh ta không kể với em gái chuyện đó thì cũng không có lý do gì mà tôi phải kể với nàng.
Tôi gặp lại anh trai của bạn gái mình sau đó khoảng 18 năm. Lúc đó là giữa tháng Mười. Khi ấy, tôi ba nhăm tuổi, đang sống cùng vợ ở Tokyo. Sau khi tốt nghiệp một trường đại học ở Tokyo, tôi ở lại Tokyo luôn, công việc bận rộn khiến tôi hầu như không mấy khi về Kobe.
Tôi đang bước trên con dốc ở Shibuya vào buổi chiều muộn để đi lấy chiếc đồng hồ đeo tay đem sửa. Tôi vừa đi vừa suy nghĩ vẩn vơ thì nghe có tiếng người đàn ông đi ngang qua gọi lại.
“Xin lỗi cho tôi hỏi, anh ta nói. Ngữ điệu vùng Kansai không chệch đi đâu được. Tôi dừng bước, ngoảnh lại thì thấy một người đàn ông không quen. Có vẻ như lớn tuổi hơn tôi một chút. Chiều cao cũng nhỉnh hơn tôi. Anh ta mặc chiếc áo khoác vải tweed dày màu xám, bên trong mặc áo len cashmere cổ tròn màu kem, bên dưới mặc quần kaki màu nâu. Mái tóc húi cua cao, cơ thể rắn rỏi như một vận động viên. Làn da rám nắng (có vẻ là do đi đánh golf), gương mặt tuy ít nhiều có nét thô ráp nhưng nhìn chung cũng đẹp. Có thể gọi là điển trai. Ở anh ta toát lên vẻ đang có cuộc sống về cơ bản là sung túc. Và hẳn cũng là người có giáo dục.
“Tôi không nhớ được tên nhưng có khi nào cậu là bạn trai cũ của em gái tôi không nhỉ?” Anh ta nói.
Tôi nhìn lại anh ta lần nữa. Nhưng vẫn không nhớ được là ai.
“Em gái anh?”
“Sayoko, anh ta nói. “Hình như học chung lớp cấp ba với cậu.
Đúng lúc ấy, mắt tôi dừng lại ở vết bẩn nhỏ giống như xốt cà chua dính ở ngực chiếc áo len màu kem của anh ta. Bộ dạng tổng thể rất chỉnh tề nhưng riêng vết bẩn trên áo len nhìn thật lạc lõng. Đến đây thì tôi nhớ ra người thanh niên hai mươi mốt tuổi với đôi mắt ngái ngủ, dính đầy vụn bánh mì trên ngực chiếc áo len màu xanh navy rão cổ. Tật xấu hay thói quen đúng là chẳng thể thay đổi theo thời gian.
“Em nhớ ra rồi,” tôi nói. “Anh trai của Sayoko. Em có gặp anh một lần tại nhà”
“Đúng rồi, cậu đã đọc cho tôi nghe truyện ‘Bánh răng’ của Akutagawa.”
Tôi bật cười. “Nhưng giữa dòng người hối hả thế này mà anh vẫn nhận ra em nhỉ. Chúng ta mới gặp nhau có một lần, lại còn cách đây lâu rồi.”
“Không hiểu sao tôi không bao giờ quên mặt người mình từng gặp. Từ xưa tôi đã có khả năng ghi nhớ như vậy. Vả lại, trông cậu cũng không thay đổi nhiều so với hồi đó.”
“Còn anh thì thay đổi tương đối nhiều nhỉ,” tôi nói. “Vẻ ngoài có gì đó hơi khác.
“À, đã xảy ra nhiều chuyện mà,” anh ta vừa cười vừa nói. “Như cậu cũng biết, có thời gian mọi thứ khá là phức tạp .”
“Sayoko thế nào rồi ạ?” Tôi nói.
Anh ta đưa mắt nhìn sang bên với vẻ bối rối, chậm rãi hít vào một hơi rồi thở ra. Cứ như thể đang đo mật độ không khí xung quanh.
“Đứng nói chuyện ngoài đường thế này không tiện lắm, tìm chỗ nào để ngồi đi. Nếu cậu không vội” anh ta nói. Tôi đáp rằng mình không có việc gì vội cả.
“Sayoko mất rồi,” anh ta lặng lẽ mở lời. Chúng tôi đang ngồi đối diện nhau bên chiếc bàn nhựa tại một quán cà phê gần đó.
“Mất rồi?”
“Chết rồi ấy. Cách đây ba năm.”
Tôi á khẩu mất một lúc. Tôi có cảm giác như lưỡi trong miệng mình đang phình to ra. Tôi những muốn nuốt nước bọt nhưng không nuốt nổi.
Lần cuối cùng tôi gặp Sayoko là khi nàng hai mươi tuổi. Vừa lấy xong bằng lái xe nên nàng chở tôi lên tận núi Rokko bằng chiếc xe Toyota Crown mui cứng (xe của bố nàng). Tuy tay lái vẫn còn non nhưng nhìn nàng cầm vô lăng trông thật hạnh phúc. Quả nhiên, đài radio trong xe ô tô lại phát nhạc Beatles. Tôi nhớ rõ như vậy. Bài hát “Hello, Goodbye”. Em nói tạm biệt, anh nói xin chào. Như tôi đã nói, âm nhạc của họ bủa vây khắp nơi quanh chúng tôi không khác gì giấy dán tường.
Tôi không tài nào lĩnh hội được chuyện nàng đã chết, đã biến thành tro bụi và giờ không còn tồn tại trên thế giới này nữa. Tôi không biết phải diễn tả ra sao... cảm giác như rất phi hiện thực.
“Chết ư? Tại sao vậy?” Tôi hỏi bằng giọng khô khốc.
“Tự sát,” anh ta thận trọng lựa chọn từ ngữ. “Khi hai sáu tuổi, nó cưới đồng nghiệp làm cùng ở công ty bảo hiểm, sinh hai đứa con nhưng rồi lại tìm đến cái chết. Khi đó nó mới ba mươi hai”
“Và bỏ lại con ư?”
Anh trai của bạn gái tôi gật đầu. “Đứa lớn là trai, đứa bé là gái. Giờ chồng nó đang chăm sóc. Thi thoảng tôi cũng đến thăm bọn trẻ. Chúng ngoan lắm.”
Tôi vẫn không tài nào lĩnh hội được sự thật đó. Nàng, bạn gái cũ của tôi, tự sát và bỏ lại hai con thơ?
“Tại sao lại như thế?”
Anh ta lắc đầu. “Chẳng ai biết được nguyên do. Thời gian đó, không có dấu hiệu gì cho thấy nó đang lo lắng hay phiền muộn. Không có vấn đề về sức khỏe, vợ chồng cũng hòa thuận, tôi nghĩ vậy, hai đứa con cũng đáng yêu. Không có thư tuyệt mệnh hay gì hết. Nó tích trữ thuốc ngủ lấy từ chỗ bác sĩ về rồi gom lại để uống. Nghĩa là tự sát có kế hoạch. Nó có ý định chết từ trước và dành nửa năm để tích trữ thuốc. Không phải là việc làm bột phát, nảy sinh tức thì.”
Tôi im lặng suốt một lúc lâu. Anh ta cũng im lặng. Mỗi người tự chìm trong dòng suy nghĩ của mình.
Ngày hôm đó, tôi và bạn gái đi đến quyết định chia tay tại quán cà phê của một khách sạn trên núi Rokko. Tôi lên Tokyo học đại học và thích một cô gái ở đó. Khi tôi lấy can đảm thú nhận như vậy, nàng chẳng nói chẳng rằng, ôm chiếc túi xách và đứng dậy. Sau đó nàng đi thật nhanh ra khỏi quán cà phê mà không ngoảnh lại nhìn tôi.
Hậu quả là tôi phải một mình đi cáp treo xuống núi. Tôi nghĩ nàng đã lái chiếc Toyota Crown màu trắng đó về nhà. Tôi vẫn nhớ đó là một ngày trời xanh ngắt, từ cửa sổ cáp treo có thể ngắm được toàn cảnh thành phố Kobe. Một cảnh tượng tuyệt đẹp. Nhưng giờ đã không còn là thành phố quen thuộc của tôi nữa.
Đó là lần cuối tôi nhìn thấy Sayoko. Sau đó, nàng tốt nghiệp đại học, vào làm ở một công ty bảo hiểm lớn, cưới một đồng nghiệp, sinh hai đứa con, cuối cùng uống cả vốc thuốc ngủ để tự vẫn.
Tôi nghĩ sớm